Đề Xuất 3/2023 # Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp # Top 12 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 3/2023 # Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Acsimet là nhà toán học xuất chúng, nhà kỹ thuật tài ba, nhà khoa học dũng cảm và thiết tha yêu Tổ quốc. Ông là người phát hiện ra định luật đòn bẩy, lý thuyết về trọng tâm, điều kiện nổi của các vật, nguyên lý về tỉ trọng…

Nhà bác học vĩ đại Acsimet

Tiểu sử

Acsimet có nhiều đóng góp to lớn trong lĩnh vực Vật lý, Toán học và Thiên văn học. Về Vật lý, ông là người đã sáng chế ra chiếc máy bơm dùng để tưới tiêu nước cho đồng ruộng Ai Cập, là người đầu tiên sử dụng hệ thống các đòn bẩy và ròng rọc để nâng các vật lên cao, là người đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước. Về Toán học, Acsimet đã giải bài toán về tính độ dài của đường cong, đường xoắn ốc, đặc biệt ông đã tính ra số Pi bằng cách đo hình có nhiều góc nội tiếp và ngoại tiếp. Về Thiên văn học, ông đã nghiên cứu sự chuyển động của Mặt Trăng và các vì sao.

Acsimet suốt cuộc đời say sưa học tập, nghiên cứu. Tương truyền rằng ông đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước khi đang tắm. Ông đã sung sướng nhảy ra khỏi bồn tắm, chạy thẳng về phòng làm việc mà quên cả mặc quần áo, miệng kêu lớn: “Ơrêca! Ơrêca (Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!). Trong cuộc chiến tranh của Hy Lạp chống quân xâm lược Rôma, Acsimet đã sáng chế ra nhiều loại vũ khí mới như máy bắn đá, những cái móc thuyền, đặc biệt trong đó có một thứ vũ khí quang học để đốt thuyền giặc. Thành Xicacudo đã được bảo vệ đến 3 năm mới bị thất thủ. Khi bọn xâm lược hạ được thành, chúng thấy ông vẫn đang say sưa ngồi nghiên cứu những hình vẽ trên đất. Ông đã thét lên: “Không được xóa các hình vẽ của ta”, trước khi bị ngọn giáo của kẻ thù đâm vào ngực. Acsimet đã anh dũng hi sinh như một chiến sĩ kiên cường.

Acsimet là người yêu nước thiết tha. Trong giai đoạn cuối đời mình ,ông đã tham gia bảo vệ quê hương chống lại bọn xâm lược La Mã .Ông đã lãnh đạo việc xây dựng các công trình có kỹ thuật phức tạp và chế tạo vũ khí kháng chiến. Hơn hai nghìn năm đã trôi qua từ khi Acsimet bị quân La Mã giết hại, song người đời vẫn mãi ghi nhớ hình ảnh một nhà bác học thiết tha yêu nước, đầy sáng kiến phát minh về lý thuyết cũng như về thực hành, hình ảnh một con người đã hiến dâng cả đời mình cho khoa học, cho tổ quốc đến tận giờ phút cuối cùng.

Những công trình ông tìm ra:  1. Công thức tính diện tích, thể tích hình lăng trụ và hình cầu  2. Số thập phân của số Pi. Năm -250, ông chứng minh rằng số Pi nằm giữa 223/7 và 22/7  3. Phương pháp tính gần đúng chu vi vòng tròn từ những hình lục giác đều nội tiếp trong vòng tròn 4. Những tính chất của tiêu cự của Parabole  5. Phát minh đòn bẩy, đinh vis Acsimet (có thể do Archytas de Tarente), bánh xe răng cưa 6. Chế ra máy chiến tranh khi Cyracuse bị quân La Mã vây 7. Chế ra vòng xoắn ốc không ngừng của Acsimet (có thể do Conon de Samos)  8. Tính diện tích Parabole bằng cách chia ra thành tam giác vô tận  9. Nguyên lý Thủy tĩnh (hydrostatique), sức đẩy Acsimet, trọng tâm Barycentre  10. Những khối Acsimet (Solides Acsimet)  11. Những dạng đầu tiên của tích phân

1. Công thức tính diện tích, thể tích hình lăng trụ và hình cầu2. Số thập phân của số Pi. Năm -250, ông chứng minh rằng số Pi nằm giữa 223/7 và 22/73. Phương pháp tính gần đúng chu vi vòng tròn từ những hình lục giác đều nội tiếp trong vòng tròn4. Những tính chất của tiêu cự của Parabole5. Phát minh đòn bẩy, đinh vis Acsimet (có thể do Archytas de Tarente), bánh xe răng cưa6. Chế ra máy chiến tranh khi Cyracuse bị quân La Mã vây7. Chế ra vòng xoắn ốc không ngừng của Acsimet (có thể do Conon de Samos)8. Tính diện tích Parabole bằng cách chia ra thành tam giác vô tận9. Nguyên lý Thủy tĩnh (hydrostatique), sức đẩy Acsimet, trọng tâm Barycentre10. Những khối Acsimet (Solides Acsimet)11. Những dạng đầu tiên của tích phân

Nhiều công trình của ông đã không được biết đến cho đến thế kỷ XVIIe, thế kỷ XIXe, Pascal, Monge và Carnot đã làm công trình của họ dựa trên công trình của Acsimet.

Tác phẩm ông đã viết về: 

– Sự cân bằng các vật nổi  – Sự cân bằng của các mặt phẳng trên lý thuyết cơ học  – Phép cầu phương của hình Parabole  – Hình cầu và khối cầu cho Toán. Tác phẩm này xác định diện tích hình cầu theo bán kính, diện tích bề mặt của hình nón từ diện tích mặt đáy của nó

– Sự cân bằng các vật nổi- Sự cân bằng của các mặt phẳng trên lý thuyết cơ học- Phép cầu phương của hình Parabole- Hình cầu và khối cầu cho Toán. Tác phẩm này xác định diện tích hình cầu theo bán kính, diện tích bề mặt của hình nón từ diện tích mặt đáy của nó

Ông còn viết những sách về: 

– Hình xoắn ốc (đó là hình xoắn ốc Acsimet, vì có nhiều loại xoắn ốc)  – Hình nón và hình cầu (thể tích tạo thành do sự xoay tròn của mặt phẳng quanh một trục (surface de révolution), những Parabole quay quanh đường thẳng hay Hyperbole  – Tính chu vi đường tròn (ông đã cho cách tính gần đúng của con số Pi mà Euclide đã khám phá ra  – Sách chuyên luận về phương pháp để khám phá Toán học. Sách này chỉ mới được khám phá ra vào năm 1889 tại Jérusalem  – Về trọng tâm và những mặt phẳng: đó là sách đầu tiên viết về trọng tâm barycentre (ý nghĩa văn chương là “tâm nặng”)

Minh LyTổng hợp

Triết Học Hy Lạp , La Mã Cổ Đại

CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TRIẾT HỌC

TRIẾT HỌC HY LẠP , LA MÃ CỔ ĐẠI

2

3

Trước khi triết học ra đời, hình thức triết lý xưa nhất của nhân loại là huyền thoại, mà thần thoại là hạt nhân thế giới quan của nó. Thần thoại ngự trị trong ý thức đại chúng cùng với thuyết nhân hình xã hội nguyên thuỷ, vật linh thuyết, vật hoạt luận. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tưởng tượng, những quan niệm của họ còn rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên ở thần thoại còn chưa bị phân đôi. Đỉnh cao phát triển của thần thoại cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó. Triết học – hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại – ra đời, thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Thuật ngữ “triết học” do người Hy Lạp nêu ra1 (philosophia) theo nghĩa hẹp là “yêu mến sự thông thái”, còn theo nghĩa rộng, là khát vọng vươn đến tri thức; nói khác đi, là “quá trình tìm kiếm chân lý”; nhà triết học là người yêu mến sự thông thái, khác với nhà bác học (sophos), người nắm vững chân lý. Tuy nhiên với thời gian triết học được hiểu theo nghĩa rộng: đó là thứ tri thức phổ quát, tìm hiểu các vấn đề chung nhất của tồn tại và tư duy. Ở buổi đầu lịch sử tri thức triết học là tri thức bao trùm, là “khoa học của các khoa học”. Nói như thế không có nghĩa là tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, nghệ thuật chưa xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng đó đã được xem là một phần của triết học. Trong thời Trung cổ thần học Kytô giáo chiếm vị trí thống trị trong sinh hoạt tư tưởng. Nhà nước phong kiến và nhà thơ Thiên chúa giáo chỉ lấy “những cái phù hợp” trong triết học Arixtốt (Aristoteles, Aristotle), trường phái Platôn (Platon, Plato) để làm chỗ dựa tư tưởng của mình. Triết học trở thành nô lệ của thần học, của cái gọi là tư duy chuẩn mực, nhà thờ trở thành “nền chuyên chính tinh thần”, lịch sử các vị thánh quan trọng hơn lịch sử các danh nhân. Thế kỷ XV – XVI được xem là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang xã hội tư sản. Tư tưởng nhân văn trở thành trào lưu chủ đạo và xuyên suốt, thể hiện ở hầu khắp các lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, với thông điệp con người là trung tâm. Từ thế kỷ XVII – XVIII trở đi tư tưởng triết học, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị mang tính thế tục và duy lý thay thế dần thần học vạn năng. Khi trung tâm tri thức chuyển từ Anh và Pháp sang Đức từ nửa sau thế kỷ XVIII truyền thống “cổ điển” phương Tây, bắt đầu từ Hy Lạp – La Mã, đạt đến đỉnh cao hoàn thiện nhất, mà điển hình là hệ thống Hêghen 1

Một số nhà nghiên cứu cho rằng Pythagoras là người đầu tiên tự gọi là philosophos (φιλοσοφος), tức “kẻ yêu mến sự thông thái”, nhưng chính Heraklitus mới là người đầu tiên sử dụng từ này trong một đoạn tản văn của ông.

4

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 157. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 156.

5

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập; t.20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 197 và 42.

6

7

dung lẫn hình thức thể hiện. Sự phát triển của tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học, phản ánh trình độ tư duy chung của nhân loại. Thực tiễn khách quan, hoạt động nhận thức và khoa học của con người quy định vị trí của mổi quan điểm, học thuyết. Chẳng hạn trong xã hội chiếm hữu nô lệ chưa hình thành các ngành khoa học độc lập, chuyên biệt về tự nhiên và xã hội, về các hình thức vận động của vật chất, nên triết học thời bấy giờ là kiến thức lý luận nói chung, trên thực tế là dạng kiến thức duy nhất. Dần dần các khoa học chuyên biệt ra đời, ranh giới giữa chúng với triết học được xác lập. Sự phát triển phong phú tri thức loài người và quá trình phân loại, “cá thể hóa” đưa đến chỗ triết học không còn đóng vai trò “khoa học của các khoa học” nữa, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại và nhận thức. Sinh hoạt tư tưởng trong thời đại hôm nay phản ánh một thế giới mở, sự bùng nổ các khám phá khoa học, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ, kinh tế tri thức và sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc vì những mục tiêu nhân loại chung; song đó cũng là một thế giới phức tạp, tiềm ẩn các nguy cơ xung đột giá trị, trong đó có giá trị tư tưởng, tinh thần. Nhận diện các trào lưu tư tưởng hiện đại, giải thích một cách khách quan, khoa học nội dung và thực chất của chúng góp phần làm sáng tỏ những đặc điểm của thời đại, dự báo xu hướng vận động của lịch sử. Ba nguyên tắc cần nắm trong quá trình tìm hiểu một học thuyết, một trào lưu tư tưởng trong lịch sử là: thứ nhất, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nghĩa là cần đặt đối tượng nghiên cứu, xem xét trong những điều kiện lịch sử nhất định, phù hợp với trình độ nhận thức của thời đại đó, đánh giá một cách nghiêm túc, trung thực những thành tựu, đóng góp của các nhà tư tưởng vào kho báu tư tưởng nhân loại. Không nên áp đặt một cách chủ quan những tính quy định của thời đại hôm nay đối với quá khứ, buộc quá khứ làm được những điều mà thời ấy chưa thể biết đến. Nói khác đi, quan điểm lịch sử cụ thể đòi một thái độ văn hóa đối với những di sản do nhiều thế hệ nhân loại đã tạo nên, tích lũy, sàng lọc qua các thời kỳ phát triển. Thứ hai, xác định cái cơ bản nhất, cốt lõi nhất, hay điểm nhấn trong toàn bộ bức tranh tư tưởng với tính cách là đối tượng nghiên cứu. Chỉ có như vậy mới hiểu biết một cách sâu sắc và cô đọng cái “hồn” sống động nhất của từng thời đại, hiểu được “trục chính” trong sinh hoạt tư tưởng thời đại ấy. Thứ ba, kết hợp hai cách đánh giá, đánh giá từ góc độ thế giới quan và đánh giá từ góc độ giá trị đối với từng học thuyết, vừa làm nổi bật tính đảng phái, vừa chỉ

8

ra vai trò, vị trí của từng học thuyết trong đời sống xã hội, trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng. Thứ tư, chỉ ra mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, nghĩa là rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử của việc nghiên cứu một học thuyết, tư tưởng trong quá khứ đối với thời đại chúng ta. II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI HY LẠP 1. Sự hình thành Triết học Hy Lạp được hình thành trên cơ sở những biến đổi của thực tiễn xã hội, là sự phản ánh nhu cầu nhận thức của con người ở một giai đoạn nhất định, khi xã hội chuyển biến sang nấc thang cao hơn, phá vỡ những quan hệ thuần chủng huyết thống và tính đồng nhất giản đơn của hệ thống các quan hệ xã hội. Sự ra đời của triết học chính là bước ngoặt đầy ý nghĩa trong sự phát triển của ý thức con người. a. Điều kiện kinh tế – xã hội Triết học cổ đại Hy Lạp hình thành vào thời kỳ diễn ra những chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh tế – xã hội, trước hết là sự tan rã hoàn toàn chế độ thị tộc và thiết lập chế độ nô lệ, sự ra đời hình thức nh nước của người Hy Lạp, được gọi là các thị quốc (city – state). Đó là một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự phân công lao động xă hội, sự tích luỹ của cải, phân tầng xã hội, sự chuyển biến từ quan hệ thuần chủng huyết thống sang quan hệ đa huyết thống, sự mở rộng lãnh thổ trên cơ sở hợp nhất các thị tộc bằng các hình thức khác nhau. Đất đai của người Hy Lạp xưa kia rộng lớn hơn so với nước Hy Lạp ngày nay. Vào các thế kỷ XI – IX TCN (thời đại Homère) diễn ra quá trình tan rã các công xã thị tộc. Bước sang thế kỷ VIII – VII TCN nhà nước của người Hy Lạp ra đời (các quốc gia – thành bang chiếm hữu nô lệ). Sự phân công lao động, sự xuất hiện và phát triển của quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của nền kinh tế tự nhiên, sơ khai, sự phân hóa giữa giàu và nghèo, sự đối kháng quyết liệt của các lực lượng xã hội khác nhau, sự thôn tính đất đai, sự sử dụng lao động nô lệ… bấy nhiêu thứ đó khiến cho chế độ thị tộc là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở phải đi đến chỗ bị diệt vong. Thị quốc5 là hình thức nhà nước đặc thù của người Hy Lạp, được tổ chức theo kiểu một cụm dân cư, có thành luỹ bao bọc, với hệ thống quyền lực được hình thành thông qua sự mở rộng lãnh thổ, cụ thể 5

9

từ một thị tộc, bộ lạc, thành nhiều thị tộc, bộ lạc, nghĩa là thay quan hệ thuần chủng huyết thống bằng quan hệ đa huyết thống. Như vậy sự ra đời của nhà nước, dù dưới hình thức nào, cũng đều là minh chứng về một giai đoạn phát triển cao của xã hội so với trước. Nhà nước ra đời chứng tỏ sự phát triển xă hội đă đạt đến nấc thang mới, đòi hỏi thay thế cách tổ chức xă hội công xã nguyên thuỷ bằng hệ thống quyền lực công cộng và bộ máy có khả năng điều tiết các quan hệ xă hội ngày càng phức tạp. Nói cách khác, nhà nước đã ra đời như một tất yếu trên con đường phát triển lịch sử của nhân loại. Ph.Ăngghen viết: “Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định”6. Sự chuyển hóa từ chế độ thị tộc sang chế độ chiếm hữu nô lệ là bước nhảy vọt trong xã hội loài người. Cùng với sự hình thành các thị quốc, nền văn hóa mới cũng được xác lập, trở thành bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thần ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù đạo đức – chính trị cao quý nhất… Sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy Lạp là sự kế thừa các giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo, trong những mầm mống của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành tố không tách rời của nền văn hóa mới ấy. Như vậy, sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ diễn ra cùng với những biến đổi căn bản trong ý thức, trước hết là nhu cầu lý giải nghiêm túc những vấn đề tự nhiên, xã hội. Triết học ra đời theo Arixtốt, làm cho sự ngạc nhiên trước thế giới rộng lớn và bí hiểm được giải quyết bằng những nỗ lực của lý trí truy tìm nguyên nhân đích thực của vạn vật. Theo sử liệu học Pitago (570 – 496 TCN), hoặc có thể Hêraclít (khoảng 544 – khoảng 483 TCN), là người đầu tiên tự gọi mình là philosophos, sau đó xuất hiện thuật ngữ philosophia, dịch thành triết học, mặc dù Talét (khoảng 624 – 547 TCN) mới là triết gia đầu tiên của Hy Lạp. Như vậy “Philosophia” (philo – yêu mến, sophia – sự thông thái) biểu thị khát vọng của con người vươn tới hiểu biết thực sự về mối quan hệ giữa con người với thế giới và với chính mình, vượt qua ảnh hưởng của tư duy huyền thoại, đi vào chiều sâu nhận thức thông qua khái 6

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.21, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 252.

10

niệm ngày càng đạt được tính trừu tượng hóa cao. b. Tiền đề tinh thần của triết học (còn gọi là tiền triết học) Ngạc nhiên làm nảy sinh triết lý, triết lý của con người về thế giới ở buổi đầu lịch sử thể hiện trong huyền thoại, nhất là trong các câu chuyện thần thoại và sinh hoạt tín ngưỡng nguyên thuỷ. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng của con người với thế giới xung quanh. Thần thoại (xuất phát từ tiếng Hy Lạp mythologia, trong đó mythos là câu chuyện, truyền thuyết, logos là lời nói, học thuyết) là hình thức tư duy phổ biến của người nguyên thủy, cùng với thuyết nhân hình, vật linh thuyết, vật hoạt luận… Trong thần thoại các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và tưởng tượng, tự nhiên và siêu nhiên còn chưa bị phân đôi. Tuy nhiên tư duy huyền thoại cũng trải qua những bước phát triển nhất định, thể hiện sự phát triển của ý thức. Có thể nhận thấy điều này trong thần thoại Hy Lạp. Đỉnh cao của thần thoại cũng cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc hơn của con người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme (thế kỷ IX – VIII TCN) với việc xóa bỏ dần hố sâu ngăn cách giữa thần và người, nêu ra các ý tưởng sơ khởi về hỗn mang, về các hành chất, về nguồn gốc thế giới, và cả những thông điệp của con người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu hướng này được tiếp tục ở Hêsiốt. Trong “Thần hệ” của Hêsiốt các trạng thái vũ trụ được mô tả thông qua các thế hệ thần linh, từ Hỗn mang đến thần Dớt – biểu tượng của trật tự, ánh sáng và sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng Prômêtê lấy trộm lửa của thần Dớt đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa sâu xa: lửa – biểu tượng của sức mạnh và lý trí – không còn là đặc quyền của thần linh như trước, mà đã cố hữu nơi con người. Con người trở nên tự chủ hơn trong quan hệ với thế giới xung quanh. Vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI TCN, các thị quốc bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và sự ra đời đồng tiền kim khí đã tạo nên những biến đổi lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở bình diện văn hóa tinh thần “bảy nhà thông thái” xuất hiện, mở đường cho một nền triết học thực sự. Trong số họ, Talét được Arixtốt gọi là nhà triết học đầu tiên của thế giới phương Tây. Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hêghen, là con đường đi từ lý

11

tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tượng đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm7. Triết học ra đời không có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, nhưng được xem xét ở bình diện khác – bình diện giá trị. Đằng sau những câu chuyện thần thoại là cả một triết lý sống, thể hiện những chuẩn mực, những giá trị, những bài học đạo đức, nhân văn. c. Vai trò của nền văn minh phương Đông trong sự hình thành tư duy triết học ở Hy Lạp Trong quá trình xây dựng các học thuyết triết học và khoa học người Hy Lạp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc phương Đông, vốn hình thành sớm hơn, đồng thời tạo cho mình một phong cách và sắc thái tư duy độc đáo, tạo nên truyền thống đặc trưng được tiềp tục bổ sung, phát triển ở các thời đại sau. Vào các thế kỷ VIII – VII TCN công cuộc di thực được tiến hành ồ ạt. Những chuyến vượt biển tìm đất, sự trao đổi, buôn bán thường xuyên với các nước phương Đông, nhất là Ai Cập, Babylon, làm cho Hy Lạp có dịp tiếp xúc, học hỏi và hòa hợp với các nền văn minh khác. Thông qua những chuyến vượt biển tìm đất mới, quan hệ buôn bán, giao lưu, người Hy Lạp tiếp thu chữ viết, thành quả khoa học, và cả yếu tố huyền học (occultism) ở các nền văn minh phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đông và Bắc Phi. Chữ viết tượng hình xuất hiện tại Ai Cập, Mesopotamie và một số dân tộc khác từ khoảng 2700 TCN. Đến thế kỷ VIII TCN người Phenicie, sau đó người Hy Lạp tiếp thu, cải biến và hoàn thiện thêm. Các lĩnh vực tri thức ở phương Đông như toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp, các mầm mống của y học, các khoa học về sự sống đáp ứng phần nào khát vọng khám phá của người Hy Lạp, do đó được họ đón nhận một cách nhiệt tình, thúc đẩy quá trình hình thành những phác thảo đầu tiên về thế giới quan vào thế kỷ VII – VI TCN. Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp đều có kiến thức khoa học vững vàng nhờ thường xuyên giao lưu với phương Đông dưới các hình thức khác nhau. Người Ai Cập tính được số pi, diện tích hình tam giác, hình chữ nhật, hình thang, hình bình hành, hình tròn. Hệ thống lịch pháp được xác lập vào đầu thiên niên kỷ II TCN. Từ phát minh của người Ai Cập ra cách tính thời gian một năm (365 + ¼ ngày đêm) sớm nhất thế giới, Babylon hoàn thiện thêm một bước về tháng bổ sung, 7

G.W.F.Hêghen, Toàn tập, t.9, Moskva, 1934, tr. 14.

12

để đưa năm âm lịch (12 tháng với 354,36 ngày đêm) đến gần với năm dương lịch (365,24 ngày đêm). Cách tính giời hiện nay cũng cũng xuất phát từ cách tính của Babylon. Tuy nhiên, dù đi trước Hy Lạp ở trình độ phát triển, song tại các nước phương Đông láng giềng, triết học đúng nghĩa vẫn chưa xuất hiện. Ở phương diện lý luận tại Ai Cập và Babylon các yếu tố huyền học và thuật chiêm tinh đan xen với các mầm mống của triết lý vũ trụ, nhân sinh, nhưng mặt thứ hai này còn khá mờ nhạt, bị lấn át bởi cách tiếp cận nhân hình hóa. Tại Babylon chiêm tinh chiếm vị trí cao trong thang bậc tinh thần, nhà chiêm tinh được tham dự vào cả công việc triều chính, giúp nhà vua vạch ra các kế hoạch đối nội, đối ngoại, tiến cử nhân sự. Tại Ai Cập, những pho tượng khổng lồ đầu người mình thú, đặt bên cạnh những kim tự tháp uy nghi, tráng lệ, cho thấy người Ai Cập quan tâm đến thế giới “bên kia” vĩnh cửu. Với thời gian, trong tư duy của người Ai Cập xuất hiện một số cách ngôn chứa đựng các yếu của chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa khắc kỷ cổ sơ, như “Tôi là tôi”, “Đã vào cõi tử làm sao trở về”, “Đừng uổng phí thời gian”… Những cách ngôn đó bị xã hội xem là báng bổ thế giới thiêng liêng. Tại Babylon, sau thời kỳ hưng thịnh, những đô thị giàu có và sa đoạ bắt đầu suy vong, và sau cùng lùi về dĩ vãng. Sự kiện Babylon sa đoạ và sụp đổ đã được nêu ra trong Kinh Thánh Kytô giáo. Các yếu tố huyền học, khi được du nhập vào Hy Lạp, vẫn phải đóng vai trò giá đỡ cho tinh thần phóng khoáng, tự do của người Hy Lạp. Liên minh Pitago là một điển hình. Ở đó các yếu tố duy tâm, tôn giáo, vốn được tiếp thu từ phương Đông, không che khuất các yếu tố khoa học, duy lý. Có thể khẳng định rằng, dù đi sau phương Đông về văn minh, nhưng Hy Lạp không đơn giản làm công việc của người kế thừa. Ngược lại, sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp là kết quả phát triển nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện sinh động trong huyền thoại, trong văn hóa, trong tín ngưỡng nguyên thủy, chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế và xã hội. Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tinh thần phương Đông, người Hy Lạp tạo nên phong cách tư duy đặc trưng của mình, trở thành cái nôi của triết học và khoa học phương Tây. Vào năm 525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm chiếm. Ách thống trị của Ba Tư đã đẩy văn minh Ai Cập, cũng như Babylon trước đó, lùi về phía sau, nhưng ngọn lửa trí tuệ đã được nhen nhóm lên và rực sáng ở một vùng đất khác. Như vậy con đường thương mại, thậm chí cả chiến tranh xâm lược, đã thổi vào Hy Lạp luồng sinh khí mới, làm cho đời sống xã hội, văn hóa tinh thần thêm phong phú.

13

Thuật ngữ “Dân chủ” theo từ nguyên Hy Lạp là “Demokratia” (Δημοκρατια), sự kết hợp Kratos = quyền lực, và Dèmos = nhân dân, nghĩa là Quyền lực của nhân dân (tiếng Anh: Democracy).

14

15

rạc, không có mối liên hệ với nhau. Thực ra cho dù lịch sử đã an bài, nhưng nó vẫn tiếp tục ám ảnh những đang sống, bởi những cách tiếp cận khác nhau về lịch sử. Quan điểm máy móc, siêu hình xem lịch sử triết học thuần túy chỉ như lịch sử đấu tranh giữa hai hệ thống thế giới quan và hai phương pháp triết học đối lập nhau, theo sự phân tuyến đơn giản: tốt – xấu, đúng – sai, khoa học – phản khoa học. Lý luận khoa học chân chính không nhìn vấn đề một chiều như thế, mà cố gắng làm sáng tỏ bức tranh đa dạng và phức tạp của sự phát triển tư duy triết học, từ đó rút ra tính quy luật của nó. Triết học là giá trị văn hóa tinh thần cô đọng nhất, tinh tuý nhất, là thời đại lịch sử hiện thực được tái hiện dưới hình thức tư tưởng, trong hệ thống các vấn đề triết học. C.Mác (K.Marx) viết trong “Bài xã luận báo “Kolnische Zeitung số 179″: … Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình”9. Vậy thế nào là “triết học chân chính”? Đó là triết học được sinh ra, chịu sự quy định bởi những điều kiện lịch sử – xã hội của thời đại mình, cùng với các học thuyết, các tư tưởng khác làm nên diện mạo tinh thần của thời đại, đóng góp vào giá trị chung của nhân loại. Mác lại viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sửa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”10. Ngay từ các bài viết đầu tiên trong thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng, C.Mác đã nhấn mạnh sự thống nhất của hai cách tiếp cận đối với di sản của quá khứ: một mặt cần tuân thủ nguyên tắc tính đảng trong triết học, căn cứ vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, chỉ ra rằng cuộc tranh luận về thế giới quan tạo nên động lực cơ bản của sự phát sinh, phát triển, sự đan xen, thay thế nhau của các học thuyết triết học. Mặt khác, mỗi học thuyết, tư tưởng, trào lưu, khuynh hướng triết học bên cạnh việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học bằng cách trực tiếp hay ẩn mình trong các luận giải về con người, xã hội, ngôn ngữ… đều được thừa nhận như “tinh hoa về mặt tinh thần” của mỗi thời đại, góp phần vào sự hoàn thiện nhân cách và tri thức con người trong thời đại ấy. Platôn (Plato, Platon), Arixtốt (Aristotle, Aristoteles), Lépních (Leibniz), Cantơ (Kant), Hêghen (Hegel) là những nhà duy tâm, nhưng đồng thời là những bộ óc lớn, những chân dung văn hóa của thời đại mình. Chúng ta phê phán một cách 9

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, HN,1995, tr. 157 C. Mác và Ph. Ăngghen, sđd, tr. 156.

10

16

xác đáng chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của Makhơ (Mach), nhưng cũng lưu ý rằng ông là nhà bác học lừng danh của thế kỷ XIX, một trong những người thầy của Einstein. Tương tự như vậy đối với cách đánh giá tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Kytô giáo. Mác từng khẳng định “không có đảng phái thì không có sự phát triển” 11, nhưng cũng chỉ rõ: “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”12 . Nhân đọc Xôcrát (Socrates) V.I.Lênin viết trong “Bút ký triết học”, “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn”13. “Chủ nghĩa duy tâm thông minh” của Xôcrát, Platon, Hêghen dù có những hạn chế ở phương diện thế giới quan, song đã để lại nhiều tư tưởng có giá trị cho nhân loại ở những khía cạnh khác. V.I.Lênin từng phê phán những toan tính xem xét chủ nghĩa Mác bên ngoài văn hoá nhân loại. Cần phân tích một cách phân minh, rõ ràng những đóng góp và những hạn chế mang tính lịch sử của các học thuyết triết học. Ngược lại, sự mơ hồ, lẫn lộn, sự đánh giá thái quá, theo hướng “tả khuynh” lẫn “hữu khuynh” đối với các học thuyết triết học, hoặc chủ trương “triết lý cái búa” trong sự đánh giá lịch sử, hoặc coi các nhận định trong lịch sử tư tưởng đều là những chân lý tuyệt đỉnh, “dành cho mọi thời đại và mọi dân tộc”, là trái với bản chất của triết học, và đều đáng bị phê phán như nhau. Ph.Ăngghen (F. Engels) đã phê phán trường hợp tương tự ở vị giáo sư cơ học Đuyrinh (Duhring) trong tác phẩm Chống Đuyrinh14. Phân tích cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng cơ bản trong triết học không chỉ nhằm làm sáng tỏ tính quy luật trong sự phát triển của tri thức triết học, mà còn chứng minh rằng sự phản biện lẫn nhau giữa các khuynh hướng ấy là tất yếu, góp phần vào sự phát triển chung của tư tưởng triết học. Bài học Trung cổ Tây Âu, mà nhiều nhà tư tưởng xem như “đêm trường Trung cổ”, là ở chỗ, một khi triết học chịu sự chế ngự vô điều kiện của uy quyền, của tín điều, không cần đến hệ thống phản biện xã hội, thì nó cũng tự tuyên bố mình như một thứ “giáo điều triết học”, một thứ thần học bán chính thức, hay tệ hại hơn, một thứ nô lệ của “thần học vạn năng”. 11

Sđd, tr. 167. Sđd, tr.166. 13 V.I.Lênin, Toàn tập, t.29, Tiến bộ, M, 1981, tr. 293. 14 Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 1994, tr. 124. 12

17

Ngoài việc thừa nhận tính quy định (chế định) lịch sử – xã hội đối với các học thuyết triết học, cần vạch ra những quy luật cơ bản trong quá trình vận động của tri thức triết học IV. “ĐƯỜNG LỐI ĐÊMÔCRÍT” VÀ “ĐƯỜNG LỐI PLATÔN” TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI V.I.Lênin cô đọng cuộc tranh luận về thế giới quan giữa CNDV và CNDT trong triết học Hy Lạp cổ đại (và cả toàn bộ lịch sử triết học) bằng hình ảnh “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn”. Vấn đề là ở chỗ chủ nghĩa Makhơ – hình thức thứ hai của chủ nghĩa thực chứng, do Ô.Côntơ (A.Comte) sáng lập – vào những năm đầu thế kỷ XX đã tuyên bố về sự không thích hợp của việc sử dụng các phạm trù triết học truyền thống, đặc biệt phạm trù “vật chất” để thể hiện bức tranh vật lý về thế giới, thay vào đó là cụm từ “các yếu tố cảm giác được của thế giới”, nhằm hướng nhận thức đến đối tượng trực tiếp, loại trừ sự “khảm nhập” của kinh nghiệm, là cái làm cho nhận thức bị “ô nhiễm”. Thực ra toan tính này không mới, vì trước đó Côntơ từng tuyên bố về sự cải tổ triết học, xác lập “con đường thứ ba”, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, loại trừ các khái niệm “mơ hồ” của Siêu hình học cổ điển. Chỉ khác ở chỗ Côntơ thay Siêu hình học cũ bằng chủ nghĩa thực chứng xã hội học, gắn kết các vấn đề của triết học với các vấn đề của khoa học chuyên biệt, còn Makhơ và những người theo Makhơ ở Nga đem chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán gắn kết với “triết học phê phán” của Kant và chủ nghĩa duy tâm chủ quan Béccli (Berkeley), với luận đề “tồn tại của thế giới chỉ là tổ hợp các cảm giác”, hay “tồn tại nghĩa là được tri giác”. Bác bỏ quan niệm này, Lênin viết: “Phải chăng trong hai nghìn năm phát triển của triết học cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, cuộc đấu tranh giữa xu hướng hay đường lối của Platôn và của Đêmôcrít trong triết học, cuộc đấu tranh giữa khoa học và tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa việc phủ nhận và việc thừa nhận chân lý khách quan, cuộc đấu tranh giữa những người theo thuyết nhận thức siêu cảm giác và những người chống lại họ, đã có thể cũ đi rồi sao? Vấn đề thừa nhận hay gạt bỏ khái niệm vật chất… là vấn đề không thể nào cũ đi được!”15. Như chúng ta biết, từ việc khắc phục tính trạng khủng hoảng thế giới quan trong vật lý học, V.I.Lênin đã nêu ra định nghĩa có tính kinh điển về vật chất,

15

V.I.Lênin, Toàn tập, t. 18, Tiến bộ, M, 1980, tr. 151 – 152.

18

mà Ăngghen từng phác thảo trong Biện chứng của tự nhiên16. 1. “Đường lối Đêmôcrít”, hay CNDV trong triết học Hy Lạp cổ đại Quá trình hình thành các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại diễn ra thông qua sự phê phán thuyết nhân hình hóa, vật linh thuyết, xác lập hệ thống phạm trù trừu tượng hóa đầu tiên, nghĩa là thay thế phương thức tư duy hình tượng bằng tư duy mang tính khái niệm, chưa hẳn là những khái niệm chặt chẽ như ở các thời đại sau. Trong cuộc tranh luận về cơ sở ban đầu của mọi tồn tại, hay bản nguyên thế giới, các nhà triết học đã đến gần với các khái niệm cơ bản của triết học như “vật chất” (trong tiếng Hy Lạp chỉ có khái niệm tương tự như vật chất, chẳng hạn “hyle”, hiểu như “thể chất”) và hình thức (mô thức), ý niệm và sự vật, linh hồn và trí tuệ, thống nhất và đa dạng, chuẩn mực và số mệnh, tồn tại và hư vô. Điều cần lưu ý ở đây là: các nhà triết học đầu tiên thuộc trường phái Milê (Miletos) với nỗ lực vượt qua tư duy huyền thoại đã giải thích bản nguyên thế giới từ các yếu tố vật chất sẵn có của thế giới (đất, nước, lửa…). Ho không chỉ là những nhà triết học đầu tiên, mà còn là những nhà duy vật tự phát đầu tiên. Cuộc tranh luận đầu tiên xoay quanh câu hỏi, mà việc giải đáp nó đáp ứng khao khát hiểu biết của thời đại: thế giới xuất hiện từ đâu và đi về đâu? (hoặc “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?) Đó là câu hỏi về sự bắt đầu của những sự bắt đầu, nguyên nhân của mọi tồn tại, bản nguyên của thế giới. Từ quan niệm về vũ trụ như thực tại vật thể cảm tính Talét (Thales, 624 – 547 TCN) đưa ra nhận định rằng mọi thứ đều bắt đầu từ nước và trở về nước. Lần đầu tiên nước được hiểu như cái tuyệt đối, cái phổ biến đơn giản. Anaximăngđơ (Anaximandros,Anaximander, 610 – 546 TCN), học trò và người kế tục Talét, đã hỏi Talét: “Vậy nước bắt đầu từ đâu?” – một câu hỏi đủ khả năng lật đổ cả một quan điểm tưởng chừng dứt khoát và chắc chắn. Nước, cũng như các hành chất vũ trụ khác, theo Anaximăngđơ, không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của sự phối hợp các yếu tố nhất định. Đi xa hơn Talét, Anaximăngđơ xem apâyrôn (apeiron), hiểu như cái “bất định, vô hạn, vô cùng, vĩnh cửu”, là nguyên nhân của sự sinh thành, tồn tại và diệt vong. Như vậy ông đã đem đến cho khái niệm bản nguyên (archè) nội dung mới, đến gần với khái niệm bản thể, bản chất, thực thể (substance). Anaximăngđơ giải thích 5 đặc tính của bản nguyên apâyrôn: – apâyrôn mang tính vật chất, tồn tại với tính cách là cái thâm nhập vào tất cả; – apâyrôn vô hạn, làm cơ sở cho mọi sự chuyển hóa 16

Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, sđd, t.20, tr.751.

19

lẫn nhau của các sự vật; – apâyrôn vô cùng, không trải qua sự sinh diệt; apâyrôn vĩnh cửu, trường tồn, làm nên điểm bắt đầu của mọi sự sinh thành; apâyrôn bất định, làm cầu nối liên kết những cái xác định. Tất cả những đặc tính ấy đều quy về đặc tính chung nhất là vận động. Bản nguyên apâyrôn được Anaximăngđơ dùng để giải thích nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Tuy nhiên cách tiếp cận như thế về bản nguyên tỏ ra xa lạ với người Hy lạp. Anaximen (Anaximenes, 585 – 524 TCN), đại diện thứ ba của trường phái Milê, cố gắng dung hòa hai đại diện đầu tiên, nghĩa là nguyên nhân ban đầu của thế giới là một yếu tố vật chất vừa cụ thể, vừa năng động. Bản nguyên giờ đây là apâyros (apeiros), khí, xét theo khuynh hướng chung của trường phái Milê là một yếu tố vật lý, ngầm hiểu không khí. Quá trình vũ trụ diễn ra phụ thuộc vào sự “tán” và “tự” của apâyros. Khi nóng chảy khí trở thành lửa, khi đông đặc – thành nước, đất, các sự vật. Nhà triết học xứ Ephesơ Hêraclít (Heraklitos, 520 – 460 TCN) là hiện tượng đặc biệt của triết học Hy Lạp, đáng được C. Mác nhắc đến như một trong những nhân vật tiêu biểu của thế giới cổ đại phương Tây. Ông vừa là nhà duy vật, vừa là nguời đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về thế giới, đồng thời lại là người khai mở xu hướng nhân bản hóa trong triết học. “Triết học hiện đại, – Mác viết, – chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt mở đầu mà thôi”. Đối với Hêraclít lửa là bản nguyên năng động nhất của thế giới, cơ sở ban đầu của mọi tồn tại. Tất cả bắt đầu từ lửa và chịu sự phán quyết của lửa bằng đại hỏa tại vũ trụ, chấm dứt một chu kỳ và mở đầu chu kỳ mới. Là nguyên nhân của vũ trụ “lửa luôn luôn đã, đang và sẽ là ngọn lửa sống động vĩnh cửu, là sinh thành và hủy diệt, chở che và phán quyết”. Khá nhiều ý tưởng trong diễn đạt này: phủ nhận thuyết nguồn gốc thần linh của vũ trụ (vũ trụ không phải là sản phẩm của vị hóa công vũ trụ nào), có cả yếu tố vật hoạt luận (ngọn lửa sống động, vĩnh cửu), có cả tư tưởng về dòng chuyển biến vô cùng, cái đã qua (quá khứ), cái đang tồn tại (hiện tại), cái sẽ đến, hay cái đang mở ra (tương lai). Lửa của Hêraclít rất vũ trụ, nhưng cũng rất thần linh và rất nhân tính. Chương sử mới trong CNDV Hy Lạp cổ đại gắn liền với phương án “đa nguyên”, tức giải thích bản nguyên thế giới căn cứ vào không phải một, mà nhiều yếu tố vật chất. Phương án này hợp lý và uyển chuyển hơn phương án “nhất nguyên” ở chỗ, một là, nó tạo ra khả năng giải thích tính đa dạng của thế giới; hai là, tính bao quát của cách tiếp cận “đa nguyên” cho phép làm sáng tỏ các vấn đề của sự sống, từ đơn giản đến phức tạp, từ những mầm mống của thế

20

giới hữu cơ đến xã hội loài người, mặc dù còn ở trạng thái chất phác, ngây thơ. Phương án “đa nguyên” đánh dấu sự phát triển của tư tưởng duy vật, thể hiện những biến đổi của ý thức trong khuôn khổ chế độ chiếm hữu nô lệ. Anaxago (Anaxagoras, khoảng 500 – 428 TCN) và Empeđốc (Empedocles, khoảng 490 – 430 TCN) là những đại diện đầu tiên của phương án “đa nguyên”. Tuy nhiên cách xác định bản nguyên của họ rất khác nhau – một người chủ trương về một hợp chất đã trừu tượng hóa, người khác kế thừa cách tiếp cận cụ thể cảm tính, vốn chiếm vị trí thống trị trong triết học thời sơ khai. Nếu trường phái Elê (Elea) đưa ra cách phân tích về lượng vấn đề tồn tại, thì Anaxago lại chú trọng chất của tồn tại, cấu tố của nó. Theo ông, cơ sở của mọi cái đang tồn tại là homeomeria – “những chất đồng dạng”, hay “những cái tương tự”, những mầm sống, hay hạt giống. Có thể phân chia những chất ấy đến vô cùng, bởi lẽ “trong cái bé không có cái bé nhất, nhưng luôn có cái bé hơn”. Anaxago xuất phát từ nguyên tắc “tất cả trong tất cả”, nghĩa là mỗi sự vật đều chứa đựng trong mình chất của tất cả các sự vật. Homeomeria có tính thụ động. Trí tuệ thế giới (Nous) mới là bản nguyên tích cực, làm cho thế giới vận động và nhận thức thế giới trong tính toàn vẹn của mình. Cách lý giải ấy chứng tỏ nỗ lực trình bày về mặt cơ cấu tồn tại của thế giới, cảm nhận tính vô hạn và tính vĩnh cửu của nó. Cũng vẫn theo phương án “đa nguyên” song Empeđốc xem các yếu tố vật chất cụ thể phổ biến – nước, khí, lửa đất – là những bản nguyên đồng cấp độ đối với quá trình hình thành vũ trụ. Quá trình vũ trụ được giải thích từ thuyết nhân hình hóa với việc tưởng tượng ra hai đối cực – Tình yêu và Thù hận – quy định sự hợp nhất và tách biệt các sự vật, hiện tượng. Empeđốc là nhà triết học cuối cùng của chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn chịu ảnh hưởng của tư duy huyền thoại. Ngoài thuyết nhân hình hóa, trong quan điểm triết học của Empeđốc còn chứa đầy yếu tố của thuyết luân hồi. Ông cho rằng linh hồn có thần tính, do phạm tội mà chịu kíp đoạ đày vào thân xác, đầu thai, luân hồi “ba lần mười ngàn năm”, nhờ sám hối, thanh tẩy mà trở lại nơi cư ngụ thần linh. Tìm lại kiếp xưa trở thành nổi ám ảnh của nhà triết học xứ Agrigentơ, đảo Xixin. “Xưa ta là đứa trẻ vị thành niên, cũng có thể là thiếu nữ, thậm chí là cây cỏ, chim muông, là cá của đại dương câm lặng” (Thanh tẩy, câu 117). Vì thế các nhà nghiên cứu lịch sử triết học nhất trí cho rằng không phải Empeđốc, mà Anaxago mới tạo tiền đề cho triết học tự nhiên Hy Lạp cổ đại vươn đến đỉnh cao và chấm dứt ở đó. Nguyên tử luận, do Lơxíp (Leucippos, khoảng 500 – 440 TCN) sáng lập,

I. Sự Ra Đời Và Các Thời Kỳ Của Triết Học Hy Lạp

I . Sự ra đời và các thời kỳ của triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại

1. Sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại

a) Điều kiện kinh tế, xã hội dẫn đến sự ra đời triết học Hy Lạp cổ đại

Hy Lạp và La Mã đại diện cho thế giới phương Tây cổ đại, trong đó Hy Lạp là chiếc nôi của văn minh phương Tây. Lãnh thổ Hy Lạp xưa kia rộng lớn hơn so với hiện nay gấp nhiều lần, bao gồm phần đất liền cùng vô số hòn đảo trên biển Egiê, vùng duyên hải Bancăng và Tiểu Á. Từ cuộc di thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII – VI TCN, người Hy Lạp chiếm thêm miền nam Ý, đảo Xixin, vùng ven biển Đen, lập nên Đại Hy Lạp. Những cuộc viễn chinh toàn thắng của Alếchxăngđơ xứ Maxêđoan vào cuối thế kỷ IV TCN đã đưa đến sự ra đời các quồc gia Hy Lạp hóa trải rộng từ Xixin ở phía Tây sang An Độ ở phía Đông, từ biển Đen ở phía Bắc đến khu vực tiếp giáp sông Nin ở phía Nam. Tuy nhiên trung tâm của Hy lạp cổ đại, trải qua bao thăng trầm, vẫn là vùng biển Egiê, nơi nhà nước và nền văn hóa Hy Lạp đạt tời sự phồn thịnh cao nhất của mình. Nơi đây những nền móng đầu tiên của tri thức khoa học và triết học đã hình thành từ rất sớm.

Vào thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN) ở Hy Lạp đã chớm bắt đầu quá trình tan rã của công xã thị tộc, được thúc đẩy bởi sự phân công lao động, diễn ra trong nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi. “Pôlít” (Polis), khái niệm dùng để xác định nhà nước đặc trưng của người Hy Lạp dưới hình thức các thị quốc (thành bang), vào thời Hôme chỉ là những cụm dân cư, tương đối độc lập, có thành lũy bao bọc xung quanh. Song sự phân hóa xã hội cũng đã bắt đầu và ngày càng trở nên gay gắt. Bước sang thế kỷ VIII TCN kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục phát triển với nhịp độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nông và tiến những bước đáng kể. Hình thức tổ chức quyền lực mang tính nhà nước đã xuất hiện, thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng cũng tạo nên sự phân hóa sâu sắc trong đời sống xã hội. Sự hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình vượt biển tìm đất mới, dẫn đến những cuộc di thực ồ ạt, xâm chiếm các khu vực làng giềng, bắt người làm nô lệ.

Tóm lại, sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của nền kinh tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các lực lượng xã hội, sự thôn tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế độ công xã thị tộc, là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến chỗ suy vong, và bị thay thế bởi một thiết chế xã hội mới, phù hợp với những quan hệ xã hội mới. Nói cách khác, nhà nước đã ra đời như một tất yếu trên con đướng phát triển lịch sử của nhân loại. Ph. Ăngghen viết:”Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định”.

Cùng với sự hình thành các thị quốc, nền văn hóa mới cũng được xác lập, trở thành bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thàn ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù đạo đức – chính trị cao qúy nhất…Sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy lạp là sự kế thừa các giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo, trong những mầm mống của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành tố không tách rời của nền văn hóa mới ấy.

Như vậy, sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ diễn ra cùng với những biến đổi chăn bản trong ý thức, trước hết là nhu cầu lý giải nghiêm túc những vấn đề tự nhiên, xã hội. Triết học ra đời theo Arixtốt, làm cho sự ngạc nhiên trước thế giới rộng lớn và bí hiểm được giải quyết bằng những nỗ lực của lý trí truy tìm nguyên nhân đích thực của vạn vật. Theo sử liệu học Pitago (570 – 496 TCN), hoặc có thể Hêraclít (khoảng 544 – khoảng 483 TCN),là người đầu tiên tự gọi mình là philosophos, sau đó xuất hiện thuật ngữ philosophia, dịch thành triết học, mặc dù Talét (khoảng 624-547 TCN) mới là triết gia đầu tiên của Hy Lạp. Như vậy “Philosophia” (philo – yêu mến, sophia – sự thông thái) biểu thị khát vọng của con người vươn tới hiểu biết thực sự về mối quan hệ giữa con người với thế giới và với chính mình, vượt qua ảnh hưởng của tư duy huyền thọai, đi vào chiều sâu nhận thức thông qua khái niệm ngày càng đạt được tính trừu tượng hóa cao.

b) Con đường từ tư duy biểu tượng đến tư duy khái niệm, hay tiền đề tinh thần của triết học

Ngạc nhiên làm nảy sinh triết lý, triết lý của con người về thế giới ở buổi đầu lịch sử thể hiện trong huyền thoại, nhất là trong các câu chuyện thần thoại và sinh hoạt tín ngưỡng nguyên thuỷ. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh.

Thần thoại (xuất phát từ tiếng Hy Lạp mythologia, trong đó mythos là câu chuyện, truyền thuyết, logos là lời nói, học thuyết) là hình thức tư duy phổ biến của người nguyên thủy, cùng với thuyết nhân hình, vật linh thuyết, vật hoạt luận…Trong thần thoại các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và tưởng tượng, tự nhiên và siêu nhiên còn chưa bị phân đôi. . Tuy nhiên tư duy huyền thoại cũng trải qua những bước phát triển nhất định, thể hiện sự phát triển của ý thức. Có thể nhận thấy điều này trong thần thoại Hy Lạp. Đỉnh cao của thần thoại cũng cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc hơn của con người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN) với việc xóa bỏ dần hố sâu ngăn cách giữa thần và người, nêu ra các ý tưởng sơ khởi về hỗn mang, về các hành chất, về nguồn gốc thế giới, và cả những thông điệp của con người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu hướng này được tiếp tục ở Hêsiốt. Trong “Thần hệ” của Hêsiốt các trạng thái vũ trụ được mô tả thông qua các thế hệ thần linh, từ Hỗn mang đến thần Dớt – biểu tượng của trật tự, ánh sáng và sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng Prômêtê lấy trộm lửa của thần Dớt đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa sâu xa: lửa – biểu tượng của sức mạnh và lý trí – không còn là đặc quyền của thần linh như trước, mà đã cố hữu nơi con người. Con người trở nên tự chủ hơn trong quan hệ với thế giới xung quanh.

Vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI TCN, các thị quốc bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và sự ra đời đồng tiền kim khí đã tạo nên những biến đổi lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở bình diện văn hóa tinh thần “bảy nhà thông thái” xuất hiện, mở đường cho một nền triết học thực sự. Trong số họ Talét được Arixtốt gọi là nhà triết học đầu tiên của thế giới phương Tây.

Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hêghen, là con đường đi từ lý tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tượng đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm (G. W. F. Hêghen,toàn tập, t. IX, Moskva, 1934, tr. 14 ). Triết học ra đời không có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, nhưng được xem xét ở bình diện khác – bình diện giá trị. Đằng sau những câu chuyện thần thoại là cả một triết lý sống, thể hiện những chuẩn mực, những giá trị, những bài học đạo đức, nhân văn.

c) Ảnh hưởng của văn hoá phương Đông đến sự hình thành tư duy triết học và khoa học Hy Lạp

Trong quá trình xây dựng các học thuyết triết học và khoa học người Hy Lạp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc phương Đông, vốn hình thành sớm hơn, đồng thời tạo cho mình một phong cách và sắc thái tư duy độc đáo, tạo nên truyền thống đặc trưng được tiềp tục bổ sung, phát triển ở các thời đại sau.

Thông qua những chuyến vượt biển tìm đất mới, quan hệ buôn bán, giao lưu, người Hy Lạp tiếp thu chữ viết, thành quả khoa học, và cả yếu tố huyền học (occultism) ở các nền văn minh phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đông và Bắc Phi. Chữ viết tượng hình xuất hiện tại Ai Cập, Mesopotamie và một số dân tộc khác từ khoảng 2700 TCN. Đến thế kỷ VIII TCN người Phenicie, sau đó người Hy Lạp tiếp thu, cải biến và hoàn thiện thêm. Các lĩnh vực tri thức ở phương Đông như toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp, các mầm mống của y học, các khoa học về sự sống đáp ứng phần nào khát vọng khám phá của người Hy Lạp, do đó được họ đón nhận một cách nhiệt tình, thúc đẩy quá trình hình thành những phác thảo đầu tiên về thế giới quan vào thế kỷ VII – VI TCN. . Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp đều có kiến thức khoa học vững vàng nhờ thường xuyên giao lưu với phương Đông dưới các hình thức khác nhau. Người Ai Cập tính được số pi, diện tích hình tam giác, hình chữ nhật,, hình thang, hình bình hành, hình tròn. Hệ thống lịch pháp được xác lập vào đầu thiên niên kỷ II TCN. Từ phát minh của người Ai Cập ra cách tính thời gian một năm (365 + ¼ ngày đêm) sớm nhất thế giới, Babylon hoàn thiện thêm một bước về tháng bổ sung, để đưa năm âm lịch (12 tháng với 354,36 ngày đêm) đến gần với năm dương lịch (365,24 ngày đêm). Cách tính giời hiện nay cũng cũng xuất phát từ cách tính của Babylon. Tuy nhiên, dù đi trước Hy Lạp ở trình độ phát triển, song tại các nước phương Đông láng giềng triết học đúng nghĩa vẫn chưa xuất hiện. Ở phương diện lý luận tại Ai Cập và Babylon các yếu tố huyền học và thuật chiêm tinh đan xen với các mầm mống của triết lý vũ trụ, nhân sinh, nhưng mặt thứ hai này còn khá mờ nhạt, bị lấn át bởi cách tiếp cận nhân hình hóa. Tại Babylon chiêm tinh chiếm vị trí cao trong thang bậc tinh thần, nhà chiêm tinh được tham dự vào cả công việc triều chính, giúp nhà vua vạch ra các kế hoạch đối nội, đối ngoại, tiến cử nhân sự. Tại Ai Cập, những pho tượng khổng lồ đầu người mình thú, đặt bên cạnh những kim tự tháp uy nghi, tráng lệ, cho thấy người Ai Cập quan tâm đến thế giới “bên kia” vĩnh cửu. Với thời gian, trong tư duy của người Ai Cập xuất hiện một số cách ngôn chứa đựng các yếu của chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa khắc kỷ cổ sơ, như “Tôi là tôi”, “Đã vào cõi tử làm sao trở về”, “Đừng uổng phí thời gian”. Những cách ngôn đó bị xã hội xem là báng bổ thế giới thiêng liêng. Tại Babylon, sau thời kỳ hưng thịnh, những đô thị giàu có và sa đoạ bắt đầu suy vong, và sau cùng lùi về dĩ vãng. Sự kiện Babylon sa đoạ và sụp đổ đã được nêu ra trong Kinh Thánh Kytô giáo.

Các yếu tố huyền học, khi được du nhập vào Hy Lạp, chúng vẫn phải đóng vai trò giá đỡ cho tinh thần phóng khoáng, tự do của người Hy Lạp. Liên minh Pitago là một điển hình. Ở đó các yếu tố duy tâm, tôn giáo, vốn được tiếp thu từ phương Đông, không che khuất các yếu tố khoa học, duy lý. Có thể khẳng định rằng, dù đi sau phương Đông về văn minh, nhưng Hy Lạp không đơn giản làm công việc của người kế thừa. Ngược lại, sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp là kết quả phát triển nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện sinh động trong huyền thoại, trong văn hóa, trong tín ngưỡng nguyên thủy, chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế và xã hội. Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tinh thần phương Đông, người Hy Lạp tạo nên phong cách tư duy đặc trưng của mình, trở thành cái nôi của triết học và khoa học phương Tây. Vào năm 525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm chiếm. Ach thống trị của Ba Tư đã đẩy văn minh Ai Cập, cũng như Babylon trước đó, lùi về phía sau, nhưng ngọn lửa trí tuệ đã được nhen nhóm lên và rực sáng ở một vùng đất khác.

2. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại

Triết học Hy Lạp – La Mã trải qua ba chặng đường lớn, phản ánh sự hình thành, phát triển, khủng hoảng và sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ.

Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn, hay thời kỳ Hy Lạp – La Mã, bắt đầu từ thế kỷ III TCN đến thề kỷ V CN. Thời kỳ Hy Lạp hóa được bắt đầu từ khi Alécxanđơ xứ Maxêđoan thông qua các cuộc viễn chinh đã phổ biến Ảnh hưởng của Hy Lạp ở phương diện chính trị lẫn văn hóa đến các nước trong vùng. Tinh thần Hy Lạp hoá đó vẫn tiếp tục lan truyền ngay cả khi Hy Lạp bị mất chủ quyền về tay La Mã (khoảng 143 TCN). La Mã đô hộ Hy Lạp về quân sự và chính trị, nhưng về văn hóa Hy Lạp đã Ảnh hưởng một cách tích cực đến La Mã và toàn bộ đế chế La Mã. Những thành tựu văn hóa, khoa học của Hy Lạp được dịp phổ biến rộng rãi, từ từ khu vực Địa Trung hải đến Bắc Phi và vùng Trung Cận Đông; tiếng Hy Lạp được sử dụng chính thức. Nét đặc trưng của triết học thời kỳ hậu Hy Lạp là bên cạnh những vấn đề phổ quát, siêu hình, các triết gia chú trọng nhiều hơn đến thế giới nội tâm của cá nhân, tìm kiếm phương thức giải thóat khỏi những vướng bận của đời thường, hoặc chủ trương đối thoại giữa con người với vũ trụ, thần linh. Trừ phái Êpiquya, phần lớn các nhà triết học thời kỳ Hy Lạp hóa là những người đề cao vai trò của thần trong đời sống tâm linh của con người.

Sự khủng hoảng của tư tưởng triết học Hy Lạp – La Mã xuất phát từ bản chất của chế độ chiếm hữu nô lệ, khi một bộ phận quần chúng đông đảo trong xã hội bị tướt bỏ quyền làm người, đưa đến những xung đột gay gắt, những cuộc khởi nghĩa của nô lệ và những cuộc chiến tranh triền miên. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của Kytô giáo (Christianity, Christianisme), với tư cách là tôn giáo nhất thần, thay thế tôn giáo đa thần, với thuyết giáo và biểu tượng mới, cũng góp phần báo trước cái chết tất yếu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Ở buổi đầu lịch sử Kytô giáo là tôn giáo của quần chúng bị áp bức, chống lại ách thống trị của đế chế La Mã bằng hình thức ôn hòa, tuyên truyền cho lối sống dân chủ, bình đẳng, không phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, nam nữ, trở thành chỗ dựa, hay liệu pháp tâm lý, tinh thần của nô lệ và người nghèo. Sau hai thế kỷ bị đàn áp, năm 324 Kytô giáo được công nhận là quốc giáo. Từ thời điểm này, nó trở thành một định chế vững vàng trong xã hội đang đi vào qũy đạo của chế độ phong kiến. Năm 476 Tây bộ đế quốc La Mã bị sụp đổ do những mâu thuẫn bên trong và sự tấn công của các sắc tộc “man di”từ phương Bắc. Năm 529 trường phái Platôn tại Aten chính thức bị đóng cửa, chấm dứt một thiên niên kỷ tồn tại và phát triển của triết học cổ đại Hy Lạp – La Mã, triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ. Phong cách tư duy Hy Lạp – La Mã được thay thế bằng phong cách tư duy dựa vào một hệ quy chiếu duy nhất, chịu sự chi phối của Kinh Thánh ở bình diện thế giới quan, nhận thức luận và nhân sinh – xã hội. Triết học Kytô giáo chiếm vị trí độc tôn trong sinh hoạt tư tưởng, tinh thần, thủ tiêu đa nguyên triết lý, vốn là đặc trưng của tư duy cổ đại.

Cái Tên Julia Từ Tiếng Hy Lạp Có Nghĩa Là Gì. Ý Nghĩa Của Cái Tên Julia, Nguồn Gốc, Tính Cách Và Số Phận Của Cái Tên Julia

Tham vọng, nhưng đồng thời rụt rè, dí dỏm và dễ xúc động, lãng mạn và dễ cáu kỉnh. Cái tên Julia, được đặt cho cô gái, tạo nên một bản chất mâu thuẫn, nhưng rất phi thường.

Nguồn gốc và lịch sử của cái tên Julia

Trong lịch của nhà thờ, cái tên thế tục Julia tương ứng với tên Julia của Cơ đốc giáo. Nó được tìm thấy lần đầu tiên vào nửa sau của thế kỷ thứ 3. Các vị thánh bảo trợ của phụ nữ mang tên này là trinh nữ Julia của Carthage (29 tháng 7) và Julia của Ankyra (19 tháng 11, 31 tháng 5). Theo đó, vào những ngày này, theo lịch Chính thống, Julia có Ngày Thiên thần.

Ý nghĩa của cái tên Julia, được mã hóa bằng chữ cái

Người ta tin rằng những cái tên có 4 chữ cái trong thành phần của chúng đặc trưng cho một người thông minh, thực tế. Các phẩm chất khác bao gồm tính cách điềm đạm, đĩnh đạc. Nếu chúng ta tiến hành phân tích ngữ nghĩa-ngữ âm và xem xét riêng ý nghĩa của từng chữ cái tạo nên cái tên này, chân dung của Julia sẽ trông như thế này:

Lá thư ” YU“. Lãng mạn, đa tình, dễ bị tổn thương về cảm xúc, khả năng hy sinh bản thân, có xu hướng hành động bốc đồng.

Lá thư ” L“. Khả năng hiểu và đánh giá cao cái đẹp, khả năng sáng tạo nghệ thuật, tính nghệ thuật.

Lá thư ” VÀ“. Thực tế và hoài nghi lành mạnh, tốt bụng, phấn đấu cho sự hài hòa, nhạy cảm, hòa nhã, tâm linh.

Lá thư ” Tôi“. Khả năng đạt được những gì bạn muốn, ý thức về phẩm giá của bản thân, mong muốn giành được tình yêu và sự tôn trọng, hiểu biết và đánh giá đúng về cảm xúc, mong muốn, nguyện vọng của bạn.

Tính cách và số phận của Julia: phẩm chất cá nhân

Người phụ nữ này, như một quy luật, được phân biệt bởi một khiếu hài hước tinh tế, óc quan sát, nhạy bén, hoạt bát và ham học hỏi. Cô ấy là người tháo vát, thậm chí là tháo vát. Họ thường nói về những người như vậy – “nó sẽ khô khỏi nước.”

Đồng thời, cô ấy là người rụt rè, không quá dứt khoát, bí mật. Julia luôn cố gắng kiểm soát tốt cảm xúc của mình, kìm nén nỗi sợ hãi, che giấu cảm xúc. Vì điều này, anh ấy đôi khi gây ấn tượng là quá lạnh lùng và kiêu ngạo. Đồng thời, cô ấy có thể quá cáu kỉnh, không luôn luôn kiềm chế, cô ấy có thể đưa ra những quyết định quá vội vàng và hấp tấp, rủi ro và một số tính thích phiêu lưu không phải là xa lạ với cô ấy. Khi một tình huống căng thẳng xảy ra, cô ấy có thể phản ứng với tốc độ cực nhanh, khá gay gắt – cảm giác sợ hãi sẽ đến với cô ấy sau đó. Đây là một người phụ nữ có ý chí mạnh mẽ, tuy nhiên, nếu không có nhu cầu nghiêm túc, cô ấy không muốn thể hiện những mặt như vậy của mình. Nhưng nếu nhu cầu này đã xuất hiện, tốt hơn là đừng cản đường cô ấy – Julia sẽ quét sạch mọi trở ngại để đạt được mục tiêu của mình.

Julia là người sở hữu một trực giác phát triển tốt. Anh ấy giỏi lắng nghe người đối thoại của mình, và điều quan trọng chính là nghe và hiểu anh ấy. Khác ở tính trung thực, biết cách chịu trách nhiệm. Điều mà cô ấy dứt khoát không chấp nhận là quan điểm của ai đó được áp đặt lên cô ấy. Khó có thể tha thứ cho sự phản bội hay phản bội, cô ấy có đặc điểm là oán hận, tàn nhẫn.

Cô ấy rất tham vọng, luôn cố gắng trở thành người giỏi nhất trong mọi việc, bất kể cô ấy làm gì, dù là nghề nghiệp, gia đình hay làm mẹ. Cô luôn sẵn sàng giúp đỡ người thân, bạn bè, cho mượn một bờ vai. Nhưng cô ấy hiếm khi yêu cầu giúp đỡ, vì cô ấy rất khó làm điều này.

Thông thường, một phụ nữ có tên này có sở thích sáng tạo. Cô ấy thích chụp ảnh, thêu thùa, sẽ không từ chối đến thăm một nhà hát hoặc một cuộc triển lãm thú vị.

Julia, sinh vào mùa xuân, khác nhau ở các phẩm chất sau:

Tính nghệ thuật;

Tình cảm;

Mơ mộng;

Khát khao những nghề sáng tạo;

Tính cách vui vẻ và dễ tính.

Julia, sinh vào mùa hè, thông thường:

Hòa đồng;

Hợp lý;

Thích động vật;

Không dung thứ cho thói đạo đức giả và dối trá.

Cho mùa thu Julia là đặc điểm:

Khoa Khoa học;

Tính nghiêm túc;

Một trách nhiệm;

Tình cảm.

Julia mùa đông:

Huyền bí;

Yêu mọi thứ bí ẩn;

Có biệt tài kể chuyện;

May mắn trong thương mại.

Tên Julia có ý nghĩa gì đối với một cô gái

Cô bé Julia là một người hay thay đổi thực sự, một đứa trẻ có tính cách rất hay thay đổi, thường xuyên thay đổi tâm trạng. Giờ thì khóc, rồi vui, rồi ồn ào không thể đo được, rồi chợt buồn. Rất khó để tranh luận với cô ấy, và gần như không thể tranh luận với cô ấy. Đây là một cô gái năng động và tình cảm, dễ xúc động, nhưng tốt bụng, nhanh nhẹn, rất có năng lực. Luôn cố gắng để trở thành người giỏi nhất trong số các bạn cùng lứa tuổi của mình. Nhưng sự lười biếng lại cản trở sự cải thiện của nó. Yulia chán làm một việc trong một thời gian dài. Vì vậy, ví dụ, trong những năm học của cô ấy, rất khó để cô ấy ngồi cả ngày vào bàn học. Cha mẹ nên chú ý đến đặc điểm này để kịp thời sửa sai – phát hiện ra điều gì và làm thế nào để hớp hồn, thích thú với chú nhóc thần tài này. Cô gái không bị cuốn hút mạnh mẽ vào việc học, nhưng cô học giỏi, vì cô hiểu rằng điều này là cần thiết. Ngoài ra, cô ấy thông minh, có một trí nhớ tuyệt vời và khả năng khái quát. Anh ấy thích khoa học viễn tưởng, siêu nhiên, thích đọc sách.

Julia luôn có đủ bạn bè, nhưng rất có thể cô ấy sẽ không trở thành người chỉ huy chính. Nhưng cô ấy biết làm thế nào để thích nghi với bất kỳ công ty và tâm trạng, có thể cần thiết cho tất cả mọi người, nhưng đồng thời cô ấy không nổi bật nhiều.

Ở tuổi thiếu niên, Julia điềm tĩnh, kiềm chế, ôn hòa và hay quan tâm. Cô ấy thể hiện tốt bản thân trong học tập, cho cha mẹ lý do để tự hào, cho thấy khả năng tổ chức tốt. Nhưng cô ấy vẫn thiếu bản lĩnh của một nhà lãnh đạo.

Ý nghĩa của tên Julia đối với một người phụ nữ (tình yêu, gia đình, tình bạn)

Julia trưởng thành trung thực trong các mối quan hệ. Mong đợi điều tương tự từ một người đàn ông. Người phụ nữ này khá kiềm chế, thế nhưng, khi đã tìm được nửa kia, cô ấy sẵn sàng thể hiện hết sự gợi cảm của mình. Tuy nhiên, nếu một người đàn ông không thể thường xuyên thu hút sự chú ý của cô ấy, anh ta sẽ che giấu tất cả những cảm xúc sống động đằng sau lớp mặt nạ lạnh lùng giả tạo. Đồng thời, nhận ra sự nữ tính và hấp dẫn của mình, Julia đôi khi sử dụng điều này để điều khiển phái mạnh hơn.

Cô ấy có thể tìm kiếm một trong những lựa chọn của mình trong một thời gian dài. Một trong những lý do là đòi hỏi quá mức và không muốn nhượng bộ. Mặt khác, Julia cả tin, nhìn thấy những phẩm chất tích cực ở người bạn đời tiềm năng và không để ý đến những khuyết điểm nên đã có nhiều thất vọng, những chia tay khó khăn và đau khổ trong cuộc đời. Nhưng, cuối cùng đã gặp được định mệnh của mình, cô ấy có thể toàn tâm toàn ý cho mối quan hệ này.

Công việc nội trợ không mang lại cho cô nhiều niềm vui. Để làm tốt mọi việc, Julia cần có một tâm trạng nhất định. Những công việc thường ngày chắc chắn không dành cho cô. Nhưng cô ấy rất hiếu khách, luôn vui vẻ với bạn bè, những người mà cô ấy biết cách chấp nhận tốt và cho ăn ngon. Nhân tiện, Julia là một người bạn rất đáng tin cậy; cô ấy có thể duy trì mối quan hệ thân thiện từ thời thơ ấu và trong suốt cuộc đời của mình. Cô ấy không có nhiều bạn, nhưng đây chính xác là những người mà cô ấy hoàn toàn tin tưởng.

Trong vấn đề làm mẹ, cái tên Julia không chỉ có nghĩa là một người mẹ yêu thương mà còn gần như là một người mẹ cuồng tín. Sau vẻ ngoài của bé sẽ dễ dàng làm lu mờ sự nghiệp xuất thân, thứ chính là gia đình. Cô ấy cũng sẽ trở thành một người bà tốt, cô ấy sẽ vui lòng giúp đỡ những đứa con và đứa cháu của mình đã trưởng thành, nâng niu những chiếc bánh nướng và dưa muối tự làm.

Cái tên Julia có nghĩa là gì: năng lượng, sức khỏe

Khi còn nhỏ, Julia dễ mắc các bệnh về đường hô hấp. Cô thường bị viêm thanh quản và viêm họng, có thể trở thành mãn tính theo tuổi tác. Đủ sớm, chủ sở hữu của tên này có thể phát triển các vấn đề về răng miệng.

Nếu nói về nghị lực của cái tên Julia, thì chúng ta không nên quên về nguồn gốc nam giới của anh ta. Điều này có thể để lại dấu ấn trong nhân vật, khiến cô gái có tính kiên trì, ham muốn quyền lực và mong muốn làm mọi thứ theo cách riêng của mình.

Các loại đá bùa có tên này là:

Ngọc (giúp đạt được mục tiêu);

Lapis Lazuli (hạnh phúc);

Sapphire (tăng cường trực giác);

Amber (giúp tìm kiếm tình yêu).

Cây linh vật:

Cây nho;

Hướng dương.

Linh vật động vật:

Chuồn chuồn (phản ứng nhanh);

Deer (độ tinh khiết).

Tính cách và số phận của Julia: phẩm chất nghề nghiệp, sự nghiệp

Nhà phê bình nghệ thuật;

Nữ diễn viên;

Luật sư;

Nhân viên y tế;

Họa sĩ;

Lập trình viên.

Cô ấy là người chăm chỉ, rất nghĩa vụ, ngăn nắp. Tuy nhiên, anh ấy cố gắng tránh bất kỳ nhiệm vụ khó khăn nào trong công việc của mình. Cô ấy không thích được dạy dỗ, nhưng bản thân cô ấy không tìm cách đọc những lời dạy đạo đức cho bất cứ ai. Khó khăn trải qua sự lừa dối, thất bại, thái độ không trung thực với bản thân. Nhưng anh ấy chắc chắn sẽ che giấu cảm xúc của mình, bề ngoài vẫn bình tĩnh và thản nhiên. Đối với Julia, ý kiến u200bu200bcủa xã hội là rất quan trọng, cô ấy không ác cảm với việc tắm rửa để có ấn tượng tốt về bản thân. Nếu có vấn đề gì xảy ra, cô ấy dễ tìm cơ hội để đổ lỗi cho người khác, nhưng cô ấy sẽ luôn biện minh cho mình.

Nói chung, tên này đi kèm với sự may mắn và thành công trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động. Điều này được tạo điều kiện bởi những đặc điểm tính cách của Julia như một nỗ lực không ngừng để hoàn thiện và cống hiến.

Julia là một trong những cái tên cổ xưa được chọn cho các bé gái ngay cả bây giờ. Theo một phiên bản, cái tên Julia xuất phát từ cái tên Iulos trong tiếng Hy Lạp cổ đại, có nghĩa là “xoăn”, “bông”, tương ứng với tên của người phụ nữ xinh đẹp này. Theo phiên bản Latinh, đây là phiên bản nữ của tên nam giới. Theo phiên bản thứ ba, nó xảy ra ở Scandinavia, nơi nó có nghĩa là “sinh vào ngày Giáng sinh”.

Trên thế giới nó được lan truyền dưới tên tiếng Anh là Julia, còn có các lựa chọn khác: Đức – Julia, Pháp – Julie, Tây Ban Nha – Julia, Bồ Đào Nha – Julia, Ý – Julia, Corsican – Julia. Provencal – Julio, Ukraina – Julia, Séc – Julie, Đan Mạch – Julie, Ailen – Julia, Hy Lạp -.

Hình thức trìu mến của tên: Yula, Yulchik, Yulia, Yulechka, Yulenka, Yulia, Yulchanka, Yulia, Yulchonok, Yulchonochek, Yusya, Yuska, Yulia.

Ở Nga, nó là một cái tên phổ biến cho phụ nữ, đàn ông hiếm khi được gọi cái tên mỹ miều này.

Theo lịch Chính thống giáo, Julia kỷ niệm ngày của thiên thần hai lần một năm:

Ngày 31 tháng 5 – sự bảo trợ của Trinh nữ Julia của Ankyra, người tử vì đạo.

Ngày 29 tháng 6 – bổn mạng của Trinh nữ Julia của Carthage, người tử vì đạo.

Tính cách

Một đặc điểm khác biệt của Julia là tính bướng bỉnh, thích sờ soạng. Thuở nhỏ khó tranh cãi với cô, cô sẽ làm mọi việc theo cách của mình. Bùng nổ, bốc đồng, nhưng nhanh chóng khởi hành và người đầu tiên xuất hiện. Trong những năm đi học, tính cách của Yulia trở nên dịu dàng hơn, điều này giúp cô dễ dàng kết bạn. Khi trưởng thành, Julia được bao quanh bởi những người bạn thích tính hài hước, bản tính nhẹ nhàng và hòa đồng.

Số phận

Số phận của Julia phần lớn phụ thuộc vào thời điểm trong năm sinh.

Winter – Một người phụ nữ thông minh, có mục đích, đối xử lạnh lùng với đàn ông, chỉ sử dụng họ như một đối tượng tình dục. Nhưng, đã yêu không còn ký ức, cô ấy sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì đối tượng của mình.

Spring – Người sáng tạo và giỏi giang, luôn được bạn bè vây quanh. Chồng cô ấy sẽ phải chấp nhận thực tế rằng bạn bè của cô ấy đang ở một vị trí quan trọng.

Summer – Người phụ nữ tình cảm và nhẫn nại, chu đáo với những người thân yêu của mình. Luôn đứng lên vì kẻ yếu. Tuân thủ các nguyên tắc sống.

Autumn – Một người phụ nữ không sâu sắc và thu mình, mắc sai lầm trong các mối quan hệ cá nhân, vì những điều đó họ không thể cộng thêm với cô ấy.

Một gia đình

Mục tiêu của Julia là một cuộc hôn nhân hạnh phúc, vì vậy cô rất chọn lọc đàn ông và không cho ai đến gần mình. Julia loại bỏ những đứa con trai của bà mẹ yếu đuối ngay từ khi mới bắt đầu giai đoạn tán tỉnh. Người chồng tương lai sẽ cần phải cố gắng rất nhiều để làm Julia yêu mình, nhưng đối mặt với cô, anh ấy sẽ nhận được một người vợ đáng tin cậy, một người nội trợ tuyệt vời và một người mẹ tuyệt vời.

Julia có một đầu óc nhạy bén, cô ấy có thể đạt được nhiều thành tựu trong nghề, nhưng vì lợi ích của chồng con, Julia có thể hy sinh sự nghiệp của mình. Do logic phát triển, cô ấy thông thạo thương mại, ngân hàng và có thể trở thành một diễn viên nổi tiếng. Lựa chọn tốt nhất cho cô ấy là kinh doanh cá nhân, lợi thế chính của nó là lịch trình miễn phí.

Sức khỏe

Mặc dù có cơ thể rắn chắc và khỏe mạnh, Julia rất dễ bị cảm lạnh. Điểm yếu thứ hai là răng. Từ nhỏ, Julia gần như không thể kéo đến nha sĩ, đó là lý do tại sao họ thường gặp vấn đề về răng khi trưởng thành.

Bạch Dương – Thích được chú ý, phấn đấu vì sự nổi tiếng. Biết cách thao túng mọi người, tính cách nhanh chóng thay đổi từ một con mèo trìu mến thành một con sư tử cái giận dữ. Thích khi đàn ông tặng quà cho cô ấy.

Kim Ngưu là người ích kỷ, quyết đoán và biết cách lợi dụng người khác để đạt được những mục tiêu đầy tham vọng của mình. Anh ấy luôn mang kế hoạch của mình đến cùng. Anh ta lấy đi mọi thứ của đàn ông, không cho lại gì.

Song Tử – Một người phụ nữ lập dị có khiếu nghệ thuật, yêu thích cuộc sống đầy giải trí. Không một công việc kinh doanh đáng giá nào kết thúc. Anh ta thay đổi đàn ông như găng tay, không dừng lại ở một trong một thời gian dài.

Cự Giải – Một người phụ nữ bảo thủ, hơi lo lắng, khó cảm nhận những thay đổi trong cách sống thông thường. Thường thì trường hợp không được hoàn thành do chậm. Nó phổ biến với nam giới.

Leo – Rất xinh đẹp, có khả năng đạt được thành công trong công việc kinh doanh đã định. Dễ dàng đạt được sự tôn trọng của người khác dành cho mình. Cô ấy luôn được bao quanh bởi những người hâm mộ, nhưng chỉ có một người đàn ông có bản lĩnh sắt đá mới có thể thuần hóa cô ấy.

Xử Nữ – Khôn ngoan, có trách nhiệm với hành động của mình, biết cách đứng vững trên đôi chân của mình, đảm bảo về tài chính. Thường thì anh ấy tự đề cao mình hơn tất cả mọi người. Đàn ông khó đạt được điều đó vì những yêu cầu được đánh giá quá cao đối với họ.

Libra – Tính cách điềm đạm, dịu dàng, yêu tự do, phụ nữ. Bất kỳ người nào cũng dễ dàng loại bỏ giao tiếp thú vị và dễ dàng. Thường thì lòng tốt này chỉ là mặt nạ của một người phụ nữ cứng rắn.

Scorpio – Bản chất không thân thiện, khó gần, chỉ có một người đàn ông mạnh mẽ mới có thể hòa hợp. Cô ấy đi đến mục tiêu đã định “vượt qua các xác chết”, không có ai, đó là lý do tại sao cô ấy không có bạn bè. Họ sợ cô ấy không chỉ ở nhà, mà còn ở nơi làm việc, bất chấp thái độ kiên quyết của cô ấy, cô ấy làm công lý.

Nhân Mã – Độc lập, tiến về phía trước mà không cần nhìn lại. Cô ấy được yêu mến ở nhà và ở nơi làm việc, mặc dù tính cách thẳng thắn của cô ấy. Trong tình yêu, cô ấy cởi mở, không đòi hỏi gì đáp lại.

Ma Kết – Bản tính chăm chỉ, không thích giao lưu, không để bạn bè xen vào cuộc sống cá nhân của mình. Trước khi đưa ra quyết định, bạn sẽ phải mất nhiều thời gian để cân nhắc giữa ưu và nhược điểm. Hầu như không bao giờ mắc sai lầm trong việc chọn nghề và bạn đời.

Bảo Bình – Không cho ai vào thế giới nội tâm của mình, cô ấy dễ bị trầm cảm. Những người khác không thích cô ấy vì sự thẳng thắn của cô ấy. Chỉ một người kiên nhẫn, quan tâm, yêu thương cô ấy mới có thể trở thành chồng của cô ấy.

Song Ngư – Được trời phú cho trí tưởng tượng tuyệt vời, trực giác nhạy bén, giúp cô ấy đưa ra lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống. Anh ta cố gắng tránh những công việc thường ngày. Nó sẽ chỉ hòa hợp với một người đàn ông cân bằng.

Khi chọn tên này cho con gái, cha mẹ cảm nhận nó là một âm thanh trìu mến và đẹp đẽ. Sinh ra một đứa trẻ bằng tên này hay tên khác, chúng ta đã định trước số phận của nó.

Trong thời thơ ấu, không có ai nhạy cảm và dễ tổn thương hơn Julia. Nhưng sự bất bình của cô ấy nhanh chóng qua đi – và bây giờ một lần nữa mặt trời lại tỏa sáng trên bầu trời thanh bình của cô ấy!

Cô gái không biết tủi thân lâu chưa, nhưng vì điều này cô cần mọi thứ xung quanh mình phải vui vẻ, hạnh phúc.

Cô ấy sợ những câu chuyện đen tối và kinh dị, không nên cho cô ấy xem những bộ phim buồn, điều này có thể gây mất ngủ.

Khi còn nhỏ, Yulechka là một cô gái khiêm tốn, cố gắng trốn ở đâu đó trong góc, vì cô ấy không thể chịu thua.

Trong bất kỳ cuộc thi nào, cô ấy chỉ cần một chiến thắng! Và nếu cô ấy bị cuốn theo một số công việc kinh doanh, cô ấy chắc chắn sẽ trở thành người đầu tiên trong đó.

Khi Yulia đến trường, việc học hành không khiến cô quá hứng thú, mặc dù cô sẽ học giỏi. Sự thay đổi tâm trạng đột ngột sẽ thay thế nhau, nhưng bề ngoài cô gái sẽ tỏ ra bình tĩnh và cân bằng.

Trong thời gian ngắn, cô ấy sẽ nhanh chóng trở thành một nhà lãnh đạo không chính thức. Sự kiềm chế bên trong dẫn đến việc cô gái bị bí bách. Đối với giao tiếp, cô chỉ chọn những người nửa ẩn nửa ý hiểu cô.

Cha mẹ nên biết rằng áp lực đặt lên trẻ sẽ phản tác dụng.

Họ sẽ phải kiên nhẫn và nhân từ, học cách đưa ra lời giải thích hợp lý cho nhiều sự việc và hành động, thể hiện sự khôn khéo và ngoại giao.

Con gái tôi có ít bạn bè, nhưng hầu hết họ sẽ vẫn như vậy trong suốt cuộc đời. Nếu bạn kịp thời thuyết phục Yulechka cống hiến hết mình cho thể thao, cô ấy sẽ thành công trong lĩnh vực này.

Ở tuổi vị thành niên, Julia sẽ có một phần của sự ích kỷ và bướng bỉnh lành mạnh. Cô ấy sẽ thất thường một chút và sẽ có thể đạt được những gì cô ấy muốn, bất kể nó phải trả giá như thế nào!

Yulia đơn giản không phải là một người bình thường, những người có tài năng và tính cách lập dị luôn chủ động tìm đến cô.

Vị tha không phải là đặc điểm của cô ấy, giúp đỡ người gặp khó khăn không phải là công việc của cô ấy. Bây giờ, nếu cô ấy cần một người vì lý do nào đó, cô ấy sẽ cho anh ta thấy dấu hiệu của sự chú ý.

Điều này không có nghĩa là Julia tính toán đến từng chi tiết nhỏ nhất. Thường thì một cô gái dấn thân vào những cuộc phiêu lưu không có ý thức chung và chịu tổn thất.

Về mối quan hệ xã hội, Julia rất kén chọn, trong số những người quen của cô là những người nổi tiếng và giàu có. Cô gái sẽ không tha thứ cho việc bỏ bê bản thân từ phía họ.

Nếu ai đó trở nên bất lịch sự trong một thời gian, họ sẽ bị loại khỏi số những người thân thiết. Trong số những nét tính cách mới ở cô, người ta có thể nhận thấy sự nổi loạn và đồng thời là bản chất tốt.

Đây là một người rất có trách nhiệm và nghiêm túc. Cô ấy sẽ cẩn thận chọn một nơi làm việc, và khi cô ấy làm được, cô ấy sẽ giữ lấy nó.

Cô ấy sẽ tiến đến hôn nhân với tất cả sự nghiêm túc: không chắc Yulia sẽ kết hôn vì tình yêu bất ngờ và nồng nàn với tính cách hạn chế và khả năng phân tích của cô ấy.

Nhưng với chồng và với đồng nghiệp trong công việc, cô luôn trung thực và đúng mực. Không ai có thể đoán được rằng cô ấy có một đặc điểm như tình cảm.

Julia sẽ luôn yêu cầu mọi người chấp nhận con người của cô và không tham gia vào quá trình cải tạo của cô. Đây là một người có khiếu hài hước tuyệt vời.

Nhưng chủ nghĩa phiêu lưu sẽ ở lại với cô ấy đến cuối đời, và những quyết định vội vàng đưa ra không phải lúc nào cũng đúng.

Julia rất tiết kiệm và cần kiệm. Cô ấy rất có trách nhiệm với gia đình và những người thân yêu của mình.

Mọi việc trong gia đình cô đều được sắp xếp chỉn chu, chồng chỉn chu, con cái ngoan ngoãn, căn hộ sạch sẽ, trong tủ lạnh luôn có rất nhiều thức ăn ngon.

Tên phụ nữ Julia xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại Julia và được dịch theo nghĩa đen là “xoăn” hoặc “gợn sóng”. Một biến thể phổ biến khác của nguồn gốc là từ Julius La Mã, ý nghĩa của tên Julius từ tiếng Latinh là tháng bảy.

Các biến thể của tên: Yuliana, Julia, Yulia, Yulisa, Yusichka, Yulchatay, Yula, Yulka, Yulia, Ylyusichka, Yusya, Yulchik, Yuska. Ngày tên được tổ chức hai lần một năm – vào ngày 29 tháng 7 – Thánh Julia của Tử đạo Corsican và vào ngày 31 tháng 5 – Trinh nữ Julia của Corinth.

Hiển thị tất cả

Thời thơ ấu

Julia thể hiện tính cách khó gần từ khi còn trong nôi và không có dòng dõi cha mẹ. Cô ấy thất thường và cần tăng cường chú ý. Nếu người thân không chiều chuộng ý thích bất chợt của bé, bé sẽ đạt được điều mình muốn với sự trợ giúp của nước mắt và những tiếng la hét cuồng loạn: chẳng hạn bé có thể ngã xuống sàn trong cửa hàng và đập chân, đòi mua đồ chơi khác.

Cô gái lấy tất cả mọi thứ để làm trái tim. Ngay cả sự đau buồn của người khác cũng có thể đẩy cô ấy vào nỗi buồn sâu sắc. Cô ấy từ bi và tốt với người khác, không bao giờ tham lam và luôn hỗ trợ trong hoàn cảnh khó khăn.

Cô gái không thích mất thời gian vui chơi với bạn bè đồng trang lứa, cô thích cô đơn, có thể bình tĩnh đọc sách. Lao vào đọc tác phẩm văn học yêu thích của mình, cô quên đi mọi thứ, tưởng tượng mình là nữ chính của một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu. Julia có ít bạn bè, vì cô gái không phải lúc nào cũng có thể tìm được ngôn ngữ chung với những người bạn đồng trang lứa: cô coi họ là người ngu ngốc và hời hợt.

Julia có nhiều tài lẻ. Cô ấy có thể làm thơ từ khi còn nhỏ, vẽ đẹp, cô ấy có một tai nghe tuyệt vời về âm nhạc và cách cư xử tuyệt vời. Cô là người quý phái, duyên dáng, thích những thứ xa hoa và đẹp đẽ, vì vậy cô chỉ đòi hỏi những điều tốt nhất từ u200bu200bcha mẹ mình. Không ngạc nhiên khi cái tên Julia được dịch là “xoăn” – mọi người đều ghen tị với mái tóc của cô ấy, bởi vì chúng là niềm tự hào thực sự của cô gái. Cô ấy thích làm những kiểu tóc phức tạp và ngưỡng mộ các bạn cùng lớp.

Cô gái thành công với các môn học về nhân văn, yêu thích ngoại ngữ và văn học, nhưng môn toán lại khó đối với cô. Yulia thích học, cô ấy thích học những điều mới, nhận được đánh giá cao và lời khen ngợi từ giáo viên. Cô ấy có thể dễ dàng học một bài thơ lớn thay vì một đoạn văn nhất định.

Làm thế nào để xác định xem một chàng trai có phù hợp với một cô gái hay không – khả năng tương thích tên trong tình yêu và hôn nhân

Thiếu niên

Cuộc sống của Julia trẻ đầy rẫy những trò giải trí. Cô ấy thích thu hút sự chú ý, luôn chỉn chu và xinh đẹp. Cô có rất nhiều người hâm mộ tặng hoa và tặng hoa cho cô với những lời khen ngợi. Cô có một số người bạn chung thủy mà cô dành thời gian rảnh rỗi. Yulia thích những bữa tiệc ồn ào, những cơ sở xa hoa và nghỉ ngơi tốt. Về bản chất, cô ấy là một nhà thám hiểm không thể sống một ngày mà không phiêu lưu.

Một cô gái có thể không chú ý đến việc học của mình, điều này có thể dẫn đến xung đột với cha mẹ. Cô ấy đã quen với những hành động bồng bột, ngay cả khi sau này cô ấy hối hận vì những gì mình đã làm. Cô ấy bướng bỉnh và tự phụ, thích làm mọi thứ bất chấp và không nghe lời ai. Julia có thể hung hăng và nóng tính nếu không thực hiện được kế hoạch của mình. Cô ấy có xu hướng sống độc lập và thường rời khỏi nhà của cha mẹ khi còn nhỏ.

Julia không biết nói dối, cô là một cô gái chân thành và công bằng. Tuy nhiên, nếu tiếp xúc với công ty không tốt, bạn sẽ dễ bị ảnh hưởng tiêu cực của người khác.

Tính cách của một cô gái phụ thuộc vào thời điểm trong năm khi cô ấy được sinh ra:

Mùa

Mô tả nhân vật

Mùa hè

Cô ấy giàu tình cảm và cực kỳ kiên nhẫn, đánh giá cao các mối quan hệ chân thành và kính trọng cha mẹ của mình. Cô ấy không thờ ơ với những vấn đề của người khác, luôn sẵn sàng giúp đỡ. Julia hơi ngây thơ, tin vào tình yêu đích thực không vị kỷ và đang chờ đợi chàng hoàng tử trong truyện cổ tích của mình

Mùa thu

Cô ấy thực tế và lạnh lùng với người khác, kiềm chế và không thể hiện cảm xúc thật của mình. Không thể hiểu cô gái này đang có suy nghĩ gì, cô ấy khó đoán và có một bí ẩn hấp dẫn.

Mùa đông

Thông minh và sáng suốt, cô ấy coi trọng phẩm chất tinh thần trên tất cả. Julia lãng mạn, dịu dàng và quyến rũ, cần được chăm sóc và hỗ trợ thân thiện

Mùa xuân

Người gợi cảm và rất sáng tạo, cô ấy thích tạo ra những thứ đẹp đẽ bằng chính tay mình. Cô ấy luôn được bao quanh bởi những người đàn ông, nhưng với họ cô ấy chỉ được kết nối bằng những mối quan hệ thân thiện.

Song tử nam – đặc điểm của cung hoàng đạo, khả năng tương thích

Số phận

Số phận của Julia có thể diễn ra theo nhiều cách khác nhau. Tất cả phụ thuộc vào sự giáo dục và giá trị tinh thần mà cha mẹ cô đã truyền cho cô.

Một người phụ nữ cảm thấy tuyệt vời trong vai trò của một người nội trợ, cô ấy là người canh giữ lò sưởi và hoàn thành xuất sắc công việc thường ngày. Cô ấy biết nấu ăn và thích nấu ăn, khiến gia đình ngạc nhiên với những món ăn tinh tế và đa dạng.

Yêu và quý

Julia tin vào tình yêu sét đánh, cô ấy bị thu hút bởi những người đàn ông mạnh mẽ và mạnh mẽ, những người mà cô ấy có thể cảm thấy như một cô gái nhỏ bé và dễ bảo. Cô ấy chọn người bạn đời tương lai của mình trong một thời gian dài, sự lãng mạn và cách tán tỉnh đẹp đẽ là rất quan trọng đối với cô ấy. Đàn bà yêu bằng tai nên những lời khen có thể khiến trái tim cô ấy tan chảy.

Trong việc chọn người yêu, chủ nhân của cái tên này hoàn toàn dựa vào trực giác của mình, không nghe lời khuyên của bất kỳ ai. Yêu bằng cả trái tim, Julia sẵn sàng hy sinh mọi thứ vì người đàn ông của mình.

Hôn nhân và gia đình

Julia không đổi trong tình cảm của mình, cô trung thành và trung thành với người đã chọn cho đến cuối ngày của mình.

Julia đang mong đợi một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Cô ấy cần được khen ngợi và quan tâm thường xuyên, thích những cuộc trò chuyện thân mật và không chấp nhận những xô xát, cãi vã trong gia đình. Một người phụ nữ thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tận tâm, không chuyển trách nhiệm cho chồng. Julia rất yêu trẻ con. Cô ấy là một người mẹ chu đáo và tốt, luôn cố gắng mang đến cho con mình những điều tốt nhất. Thể hiện sự kiên nhẫn, không quát mắng trẻ và rất vui khi được nuôi dạy chúng.

Một người phụ nữ thích tiếp khách, cô ấy biết cách gây bất ngờ cho những người thân yêu của mình và làm bừng sáng không gian nhàn hạ đơn điệu. Cô ấy tài năng và sáng tạo, luôn đưa ra một hoạt động vui nhộn cho cả gia đình.

Nghề nghiệp

Chủ nhân của cái tên này có thể đạt được những đỉnh cao trong hoạt động nghề nghiệp, nhưng cô ấy không phải là người thích ca tụng, thích giá trị gia đình hơn vật chất.

Cô ấy là người điều hành và chăm chỉ, có xu hướng chỉ huy, khéo léo điều khiển mọi người. Cô ấy sẽ đạt được sự chấp nhận chung bằng mọi cách. Nhân viên tôn trọng ý kiến u200bu200bcủa Julia và tuân theo cô ấy. Cô ấy không tiếc tiền thưởng cho một nhân viên có lương tâm, cô ấy sẽ luôn vào vị trí và cho cô ấy đi làm sớm.

Bí ẩn về cái tên Julia

Bảng đặc điểm kỹ thuật và khả năng tương thích:

Kiểu nhân cách

Sầu muộn

Phẩm chất cơ bản

Tinh tế, tốt bụng, hào phóng, nhạy cảm, nóng nảy, quý tộc, trung thực

Mặt tích cực

Công lý, đáp ứng, trách nhiệm, quyến rũ, từ bi, quyết tâm, độc lập, chân thành, tận tâm

Luân lý

Một người phụ nữ có những nguyên tắc đạo đức và không bao giờ đi chệch hướng khỏi chúng. Cô có một tâm hồn nhân hậu, nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo khó, bất hạnh, chia sẻ mọi thứ mình có, trân trọng những phẩm chất thiêng liêng ở con người. Cô là một người vợ thủy chung, người mẹ yêu thương, chăm sóc và hiếu kính cha mẹ

Mặt tiêu cực

Sự cứng rắn, lòng thù hận, sự hung dữ, ngây thơ, bướng bỉnh, bi quan

Psyche

Julia có tâm lý không ổn định, cô ấy dễ bị thay đổi tâm trạng đột ngột, thường buồn và thích suy nghĩ về cuộc sống hàng ngày. Cô ấy đánh giá thực tế năng lực của mình, nhưng cô ấy có thể mơ hàng giờ liền, có trí tưởng tượng không thể chê vào đâu được và tiềm năng sáng tạo vô tận. Cô ấy dễ bị xúc phạm và tức giận, vì Julia khó kiểm soát cảm xúc của mình

Suy nghĩ

Tư duy sáng tạo vượt trội, trí nhớ phi thường. Nếu đam mê điều gì đó hoặc đang thực hiện một nhiệm vụ quan trọng, Julia không để ý đến bất cứ điều gì xung quanh, hoàn toàn tập trung vào quá trình làm việc

Khả năng trực quan

Cô ấy có một trực giác cao, một người phụ nữ lắng nghe cảm xúc bên trong của mình và luôn đưa ra quyết định, tin tưởng vào linh cảm nữ tính của mình

hữu nghị

Julia có ít bạn bè, nhưng cô ấy rất coi trọng tình bạn của mình với họ và sẽ không bao giờ phản bội họ. Tình bạn là điều thiêng liêng đối với cô, cô sẽ luôn ra tay giải cứu và đặt lợi ích của những người bạn thân lên trên lợi ích của mình. Rất khó để tìm được tiếng nói chung với một người phụ nữ và giành được sự tin tưởng của cô ấy, nhưng người làm được điều này sẽ rất may mắn, vì Julia biết cách giữ bí mật và đưa ra những lời khuyên có giá trị.

Kinh doanh

Julia không thích phục tùng mà thích lãnh đạo và chỉ trích cấp dưới. Cô ấy sẽ có thể quản lý doanh nghiệp của mình và trở thành một nữ doanh nhân thành đạt nếu cô ấy học cách khéo léo quản lý tiền bạc và đầu tư nó một cách khôn ngoan

Tình dục

Hành vi của cô ấy trên giường chỉ phụ thuộc vào tâm trạng của người phụ nữ. Cô ấy có thể là một con hổ cái đam mê, thoải mái và nóng bỏng, để đáp ứng mọi ý tưởng bất chợt của nam giới. Nó cũng có thể là một chú mèo con nhỏ và lông tơ cần được âu yếm và trìu mến. Những thú vui tình dục đối với Julia không đến trước, cô ấy thích sự kết nối tâm linh

Nghề nghiệp

Nữ diễn viên, người mẫu, nhà thiết kế, ca sĩ, nhà thơ, nhà ngôn ngữ học, nhà triết học, nhà tâm lý học, giáo viên, nhà báo, vận động viên, tiếp viên, người dẫn chương trình truyền hình

Sức khỏe

Có vấn đề về thị lực, dạ dày và cổ họng. Một người phụ nữ quan tâm đúng mức đến sức khỏe của mình, ăn uống đúng cách, chăm chỉ rèn luyện thân thể và chăm chỉ nên hiếm khi bị bệnh nhiễm vi rút.

Sở thích

Văn học, nấu nướng, Thủ công mỹ nghệ, rạp hát, bức vẽ, Rạp chiếu phim, Yoga, thể dục, khiêu vũ, ca hát, làm thơ, đi du lịch, thiết kế nội thất, thời trang, ngoại ngữ, tâm lý học, Tâm linh

Khả năng tương thích tên nam

Egor, Boris, Nikolay, Vladimir, Roman, Trofim, Artem, Sergey, Alexey, Robert, Maxim, David, Victor, Eugene, Pavel, Mikhail, Dmitry, Eldar, Timofey

Không tương thích với tên nam

Anton, Vladislav, Yaroslav, Stanislav, Albert, Arthur, Oleg, Georgy, Innokenty, Prokhor, Daniel, Konstantin, Zakhar, Alexander, Ivan, Igor

Khả năng tương thích với dấu hiệu Astral

Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Bảo Bình

Không tương thích với các dấu hiệu hoàng đạo

Hổ Cáp, Bạch Dương, Ma Kết, Song Tử, Kim Ngưu

Julia – đúng với cái tên này, cái nóng giữa trưa mùa hè và vẻ nữ tính đầy mê hoặc dường như lẩn khuất. Nhưng ý nghĩa thực sự của cái tên Julia tương ứng với ấn tượng đầu tiên về anh ấy đến mức nào? Câu trả lời được lịch sử và giải mã của từ này là gì?

Nguồn gốc của cái tên Julius, các nhà nghiên cứu về cái tên này dẫn đầu cả từ Hy Lạp cổ đại và từ La Mã cổ đại. Bản dịch từ tiếng Hy Lạp cổ đại cho người phụ nữ mang tên Julia, đặc điểm “xoăn” hoặc “bông”.

Từ tiếng Latinh, từ này được dịch là “tháng bảy”, vì vậy liên tưởng đến cái nóng mùa hè không phải là không có cơ sở. Ngoài ra, ở La Mã cổ đại có một chi Julian, họ không chỉ gọi con trai mà cả con gái theo cách này. Từ xa xưa, ý nghĩa của cái tên Julia cũng là sự uy nghiêm và quý tộc.

Julia như một cái tên đầy đủ thì rất thú vị, tuy nhiên, có hơn một từ nhỏ được bắt nguồn từ anh ta: đó là Yulechka và Yulenka, Yulia và Yula, Yulek và Liana. Một cái tên nhỏ bé, và thậm chí không phải một, – khác xa với tất cả những thay đổi mà từ “Julia” đã trải qua. Trong các ngôn ngữ châu Âu, Julia và Julie, Julia và Julianne, Julien và Gillian được hình thành từ anh ta.

Mô tả về cái tên cho biết: Julia thể hiện những nét chính của cô ấy khi còn nhỏ, và theo thời gian, tính cách của cô ấy không thay đổi quá nhiều. Do đó, điều quan trọng cần lưu ý là:

Những đặc điểm nào sẽ thống trị Yulenka bé nhỏ?

Cái tên này có ý nghĩa gì đối với số phận của một người phụ nữ trưởng thành?

Mối quan hệ của một quý cô với người khác giới sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?

Những tên nam nào sẽ thích hợp với cô ấy nhất?

Bộ chữ và âm này sẽ mang lại điều gì cho cuộc sống gia đình của chủ nhân?

Điều tốt nhất để cô ấy làm trong cuộc sống là gì?

Làm thế nào để duy trì sức sống?

Khi nào kỷ niệm ngày của thiên thần Julia?

Sự nhanh nhẹn của trí óc và sự tự tin

Đặc điểm của cái tên Julia cho chủ nhân của nó trong thời thơ ấu ngụ ý một tính cách sôi nổi và vui tươi. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là đơn giản và rõ ràng: một em bé bề ngoài có thể trông rất bình tĩnh và kiềm chế, nhưng đồng thời cũng trải qua những cảm xúc mâu thuẫn nhất trong tâm hồn. Đối với một cô gái, một số sự oán giận cũng có thể là đặc điểm, theo quan điểm của cô ấy, điều này có cơ sở nghiêm trọng, và do đó, điều rất quan trọng là cha mẹ phải hiểu tình hình.

Đối với Yulia, điều quan trọng là cô ấy được hiểu và tôn trọng không chỉ bởi các bạn cùng trang lứa mà còn cả những người lớn. Do đó, Julia không chấp nhận những điều cấm, nghĩa là cô ấy không hiểu – bạn cần nói chuyện với cô ấy và giải thích động cơ hành động của bạn. Julia chấp nhận những lập luận logic, và phong cách giáo dục độc đoán sẽ không mang lại hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, Yulia bắt đầu hình thành quan điểm của riêng mình từ sớm và học cách bảo vệ nó một cách kiên trì.

Khả năng trí tuệ của một cô gái như vậy thường cao hơn đáng kể so với mức trung bình, vì vậy cô ấy học tốt ở trường, mặc dù cô ấy không thích gánh nặng cho mình bài tập về nhà quá nhiều. Ngoài ra, ở trường, Julia thường bắt đầu lấn lướt các bạn cùng lứa tuổi, vì vậy cha mẹ cần giải thích cho con gái hiểu rằng sự quan tâm và nhiệt tình từ nhóm không phải là tất cả những gì nên phấn đấu.

Nhưng bí mật của cái tên Julia nằm ở chỗ, khả năng lãnh đạo của cô gái được thể hiện ở cả tuổi thiếu niên và trưởng thành. Cô gái tự tin vào bản thân và thế mạnh của mình, cô ấy vui vẻ và có thể xoay chuyển hầu hết mọi tình huống có lợi cho mình. Đồng thời, Julia rất thích viển vông, và điều quan trọng là những tưởng tượng của cô không giúp cô nhận thức rõ hơn về thực tế.

Hồi nhỏ, Julia thường thích thể thao hoặc khiêu vũ, và cách giải thích về cái tên này cho thấy: cô gái lớn lên thành một phụ nữ có dáng người đẹp thể thao. Phong cách thời trang của cô gần như không chê vào đâu được, Julia thu hút ánh nhìn của cả nam và nữ. Có người ngưỡng mộ cô, có người ghen tị với cô, nhưng Julia biết chính xác cô muốn gì và đi đến mục tiêu của mình.

Tình yêu và thực tế

Sự ngưỡng mộ và chú ý đến con người của Julia dẫn đến thực tế là trong bầu không khí thờ phượng và tôn thờ, cô cảm thấy mình như cá gặp nước. Tuy nhiên, cô ấy thường dùng thái độ này để truyền cảm hứng cho người khác. Cô ấy rất sexy và gợi cảm, nhưng không dễ dàng để cô ấy tìm được một người bạn đời tự tin vào bản thân, đồng thời không cố gắng tạo áp lực và “giáo dục lại” cô ấy.

Việc giải thích tên cho thấy sự tương thích của tên Julia sẽ khá cao với những tên nam như Eugene và Pavel, Alexander và Roman, Maxim và Artem, Igor và Sergey, Vladimir và Ivan, Dmitry và Andrey.

Tuy nhiên, bản thân chị rất cần sự quan tâm của chồng. Khi sự quan tâm này là đủ, cả con cái và chồng đều được bao bọc bởi sự quan tâm và ấm áp. Khi chưa đủ, vợ hoặc chồng xui xẻo rất dễ trở thành đối tượng của cơn ghen bùng phát – ngay cả khi chẳng có lý do gì.

Đối với sức khỏe và tâm trạng của Julia, việc ngủ đủ giấc là rất quan trọng đối với cô. Khi không có đủ thời gian để ngủ, tâm trạng kém có thể ảnh hưởng đến mọi người trong gia đình. Do đó, nếu một người phụ nữ nói rằng cô ấy cần ngủ đủ giấc, bạn cần để cô ấy làm điều đó.

Ngoài ra, để duy trì sức khỏe, chủ sở hữu của cái tên này rất quan trọng để thường xuyên theo dõi tình trạng răng của cô ấy – thường Yulia chỉ đơn giản là ngại đến gặp nha sĩ. Và việc thuyết phục cháu chữa răng đúng hẹn có thể sẽ cần sự kiên trì của gia đình.

Tuy nhiên, một người phụ nữ như vậy không nên bị hạ thân nhiệt – dù yêu thích thể thao hay khiêu vũ, cơ bắp phát triển tốt, Julia không chịu được sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, đặc biệt là từ nóng sang lạnh. Vì vậy, ví dụ, một chiếc khăn dệt kim dài vào mùa đông sẽ không chỉ mang lại cho người phụ nữ sự quyến rũ mà còn giúp cô ấy khỏi bệnh tật.

Tập trung chuyên nghiệp

Đối với số phận của Yulia, sự tự nhận thức chuyên môn của cô ấy cũng rất quan trọng. Cô ấy biết cách làm việc rất tận tâm, có thể thực hiện công việc được giao một cách chính xác và đúng thời gian. Khả năng thiết lập mối quan hệ với mọi người cùng với sự chăm chỉ góp phần vào việc, nếu muốn, một người phụ nữ có thể dễ dàng có được vị trí cao hơn.

Julia biết rất rõ ràng cô ấy muốn gì trong cuộc sống và sẽ đạt được mục tiêu ấp ủ bằng mọi cách có sẵn cho cô ấy – kể cả trong việc xây dựng sự nghiệp. Điều duy nhất không nên đòi hỏi ở một người phụ nữ tận tâm và điều hành là làm thêm giờ và cuối tuần. Khoảng thời gian này chỉ thuộc về cô và gia đình cô.

Tư duy logic và khả năng toán học của Julia là lý do chính đáng để cô gái chọn nghề tài chính, ngân hàng, sản xuất hoặc kiểm toán. Tuy nhiên, một người phụ nữ cần học cách không chi tiêu nhiều hơn những gì cô ấy kiếm được – và khi đó cuộc sống của cô ấy sẽ bình lặng và an toàn về tài chính.

Ngày chính của năm

Ngày của thiên thần Julia có thể rơi vào một trong 16 ngày trong năm khi cái tên này được nhắc đến trong lịch. Theo lịch của nhà thờ, những ngày tưởng niệm các vị thánh trùng tên rơi vào ngày 3, 9 và 15 tháng Giêng, 17 tháng Ba, 2 tháng Tư, 16 và 31 tháng Năm, 15 tháng Sáu, 5 tháng Bảy, 19 và 29, 30 và 31 tháng Tám, 14 tháng Mười Một, cũng như 10 và 17 tháng 12.

Để xác định thời điểm kỷ niệm ngày lấy tên của Julia, bạn cần xem theo lịch Chính thống giáo thì ngày của các vị thánh trùng tên ngay sau ngày sinh của một phụ nữ hoặc bé gái. Ngày hôm sau sẽ là ngày của thiên thần.

Nhưng có thể xảy ra trường hợp một người cụ thể muốn chọn một vị thánh khác làm bổn mạng của mình. Điều này cũng được phép, chỉ bạn cần xác định chính xác theo lịch của nhà thờ khi ngày của vị thánh được chọn được cử hành – đây sẽ là ngày trùng tên.

Về tên rửa tội, lúc trước khi rửa tội, Julia thường được gọi là Julia, bây giờ được phép gọi là Julia trong lễ rửa tội.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!