Đề Xuất 3/2023 # Bàn Về Cho Vay Bất Động Sản Và Phi Sản Xuất Trong Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng Hiện Nay # Top 11 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 3/2023 # Bàn Về Cho Vay Bất Động Sản Và Phi Sản Xuất Trong Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng Hiện Nay # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bàn Về Cho Vay Bất Động Sản Và Phi Sản Xuất Trong Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng Hiện Nay mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trong thời gian gần đây, quy định về giới hạn tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất so với tổng dư nợ của ngân hàng thương mại (NHTM), khái niệm bất động sản trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng và giải pháp tín dụng ngân hàng để cứu thị trường bất động sản… được đề cập đến khá nhiều trên một số diễn đàn, thu hút sự quan tâm không nhỏ của dư luận. Vậy, những nội dung trên cần được hiểu ra sao và liệu tín dụng ngân hàng có giúp phục hồi được thị trường bất động động sản hay không? Bài viết xin nêu một số suy nghĩ về những khía cạnh như đã đề cập.

Trước hết, cần nhận thức bất động sản là gì và phi sản xuất được hiểu ra sao? Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Bất động sản” là: “Tài sản không chuyển rời đi được, như đất cát, nhà cửa,…”. Cũng theo cuốn từ điển này, từ “phi” có nghĩa là “trái với, không phải”. Trên cơ sở đó, nếu lắp ghép với từ sản xuất thì chúng ta có “phi sản xuất” có nghĩa là: không phải sản xuất, trái với sản xuất, hay không phải lĩnh vực sản xuất.

Một sự liên hệ khác, đó là Bộ luật Dân sự. Tại Chương 2, Điều 181, của Bộ luật này có quy định, “Bất động sản” đó là “Tài sản không di, dời được bao gồm:

1- Đất đai.

2- Nhà ở, công trình gắn liền với đất đai; kể cả tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó.

3- Các tài sản khác gắn liền với đất đai.

4- Các tài sản khác do pháp luật quy định.”

Như vậy, tại Bộ luật Dân sự, danh từ “Bất động sản” được giải thích cụ thể hơn, chi tiết hơn.

Trong tiếng Anh, cụm từ Real Estate được dịch là bất động sản hay tài sản bất động. Trong tiếng Pháp, từ Immobilié cũng được dịch là Bất động sản. Tại Trung Quốc, người ta sử dụng thuật ngữ địa sản, tức là tài sản gắn liền với đất đai…

Qua nghiên cứu và tham khảo nhiều tài liệu khác nhau có thể thấy, hầu hết các nước đều coi Bất động sản là đất đai và những tài sản có liên quan đến đất đai, không tách rời với đất đai, được xác định bởi vị trí địa lý của đất. Nội dung này được thể hiện tại Điều 517, 518 Luật Dân sự Cộng hoà Pháp; tại Điều 86 Luật Dân sự Nhật Bản; tại Điều 130 Luật Dân sự Cộng hoà Liên bang Nga và tại Điều 94, 96 Luật Dân sự Cộng hoà Liên bang Đức…Song trong Luật của CHLB Nga thì lại quy định cụ thể hơn, bất động sản là “mảnh đất” chứ không phải là đất đai nói chung. Việc ghi nhận này là hợp lý bởi đất đai nói chung là bộ phận của lãnh thổ, không thể là đối tượng của giao dịch dân sự.

Cũng dựa trên kết quả tìm hiểu quy định trong luật của một số nước như đề cập ở trên thì mỗi nước lại có quan niệm khác nhau về những tài sản “gắn liền” với đất đai được coi là Bất động sản. Ví dụ như tại Điều 520 Luật Dân sự Pháp quy định “mùa màng chưa gặt, trái cây chưa bứt khỏi cây là BĐS, nếu đã bứt khỏi cây được coi là động sản”. Tương tự, quy định này cũng được thể hiện ở Luật Dân sự Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Sài Gòn cũ. Trong khi đó, Điều 100 Luật Dân sự Thái Lan quy định: “Bất động sản là đất đai và những vật gắn liền với đất đai, bao gồm cả những quyền gắn với việc sở hữu đất đai”. Luật Dân sự Đức đưa ra khái niệm bất động sản bao gồm đất đai và các tài sản gắn với đất.

Như vậy, có hai cách diễn đạt chính: thứ nhất, miêu tả cụ thể những gì được coi là “gắn liền với đất đai”, cũng được coi là Bất động sản; thứ hai, không giải thích rõ về khái niệm này và dẫn tới các cách hiểu rất khác nhau về những tài sản “gắn liền với đất đai”.

Nhìn chung, pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều thống nhất ở chỗ coi “Bất động sản” gồm: đất đai và những tài sản gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có những nét đặc thù riêng thể hiện ở quan điểm phân loại và tiêu chí phân loại, tạo ra cái gọi là “khu vực giáp ranh giữa hai khái niệm bất động sản và động sản”.

Từ cách hiểu, cách diễn đạt nói trên quay trở lại quan niệm hiện hành về “Bất động sản” gắn với thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng ở nước ta hiện nay xem có phải là lĩnh vực phi sản xuất không; mở rộng ra cần xem xét đối tượng nào là phi sản xuất, đối tượng nào là vay tiêu dùng!

Một là, trường hợp doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho hàng, bến bãi, cơ sở nghỉ mát, nghỉ dưỡng, bệnh viện, phòng khám bệnh, trường học, cơ sở đào tạo nghề, khách sạn, nhà hàng, nhà để xe ô tô…, nếu chiếu theo giải thích thuật ngữ nói trên thì là bất động sản, tức là đất đai hoặc các công trình xây dựng gắn liền với đất nhưng thực tế không thể coi là phi sản xuất được, bởi vì nó được đưa vào phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ, đem lại giá trị gia tăng cho chủ đầu tư.

Hai là, doanh nghiệp vay vốn và sử dụng vốn vay đầu tư xây dựng chung cư cao tầng, căn hộ, nhà liền kề, biệt thự… để bán. Cũng theo giải thích thuật ngữ nói trên thì là bất động sản, nhưng xét ở góc độ nhà đầu tư, nhà kinh doanh, thì đó là sản phẩm đầu tư ra để bán, nó có quá trình kết tinh giá trị mới của nhà đầu tư, nên cần coi đó là lĩnh vực sản xuất kinh doanh.

Ba là, doanh nghiệp vay vốn và sử dụng vốn vay đầu tư xây dựng trụ sở văn phòng của doanh nghiệp, cho thuê văn phòng, cho thuê mặt bằng kinh doanh. Đây cũng là bất động sản, nhưng là sản phẩm sử dụng trong kinh doanh của chính doanh nghiệp, cho thuê, đem lại nguồn thu nhập cho doanh nghiệp, tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy cần xem đây là lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Bốn là, doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng hạ tầng trong khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, cụm công nghiệp… sau đó cho doanh nghiệp khác thuê lại. Ở góc độ tài sản hay khái niệm tài sản thì đó là bất động sản, nhưng ở góc độ kinh doanh thì cần coi đó là đầu tư cho sản xuất kinh doanh.

Năm là, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn đầu tư xây dựng khu tập luyện thể thao hay chơi thể thao, nơi vui chơi giải trí,…đưa vào kinh doanh, cho thuê kinh doanh. Đây thực chất cũng là lĩnh vực bất động sản, nhưng có tính chất sản xuất kinh doanh vì doanh nghiệp kỳ vọng có nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên từ khách hàng, nên cần coi đây là đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Sáu là, hộ gia đình, cá nhân bên cạnh vốn tự có thì vay vốn NHTM, sử dụng vốn vay để sửa chữa nhà hay xây dựng nhà để ở, mua nhà để ở, có nguồn trả nợ chính là tiền lương và thu nhập khác ổn định trong nhiều năm. Đối tượng sử dụng vốn vay chính là bất động sản và đúng là thuộc lĩnh vực tiêu dùng, song đó cũng là nhu cầu chính đáng, hợp lý và người vay chứng minh được nguồn thu nhập ổn định để trả nợ. Vì vậy không nên cứng nhắc cấm đoán, hạn chế cho vay. Miễn là người vay vốn không phải là để đầu cơ bất động sản, với nguồn trả nợ không phải là trông chờ vào bán nhà đất sau khi giá tăng, chênh lệch so với thời điểm mua vào.

Bảy là, hộ gia đình, cá nhân vay tiền để cho con em đi du học, đi chữa bệnh ở nước ngoài, đi du lịch nước ngoài, mua sắm phương tiện sinh hoạt đắt tiền,…nguồn trả nợ là tiền lương, tiền cho thuê nhà hay cho thuê cửa hàng, các nguồn thu nhập ổn định khác. Đây cũng chính là lĩnh vực tiêu dùng nhưng cũng cần được xem xét cho vay vì không phải là đầu cơ, hay trông chờ vào nguồn thu nhập kỳ vọng bấp bênh trong tương lại để trả nợ, mà từ nguồn thu nhập thực tế.

Nói tóm lại, nếu doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân vay vốn đầu tư vào việc hình thành các tài sản trên đất đai, nâng cao giá trị của tài sản cố định đó, đồng thời tài sản đó được đưa vào sản xuất kinh doanh, tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, đem lại nguồn thu nhập thường xuyên cho người vay vốn thì hoàn toàn có thể vận dụng cho vay được dưới hình thức đầu tư cho sản xuất kinh doanh, chứ không thể coi là phi sản xuất, đành rằng đó là bất động sản. Hay nói cách khác, khái niệm về bất động sản không có gì thay đổi, nhưng cần được nói rõ là bất động sản tham gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phục vụ nhu cầu sinh hoạt, đời sống của chính người vay chứ không phải là đầu cơ chờ tăng giá.

Tuy nhiên không phải là bất động sản nào đưa vào sản xuất kinh doanh, hay có mục đích sản xuất kinh doanh nào cũng được mở rộng cho vay, được nới rộng tín dụng, mà cần chú ý, hạn chế những trường hợp cụ thể sau đây:

Doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu đô thị mới, sau đó bán nền nhà, bán lô đất cho xây dựng nhà ở, chứ không phải là xây dựng nhà ở, thì đây chính là lĩnh vực bất động sản cần xem xét không cho vay vốn. Hoặc là doanh nghiệp vay vốn để đền bù giải phóng mặt bằng, lấy đất để chờ giá tăng thì lĩnh vực bất động sản này cũng không thể cho vay.

Những dự án của nhiều địa phương được giao cho doanh nghiệp triển khai xây dựng cảng biển, sân bay, một số cơ sở hạ tầng khác… được thực hiện theo kiểu phong trào, thực hiện tràn lan, dự báo không có hiệu quả thì cũng cần được đưa vào lĩnh vực bất động sản hạn chế cho vay.

Đối với hộ gia đình và cá nhân, sử dụng vốn vay đầu tư bất động sản chờ tăng giá để bán và nguồn trả nợ chủ yếu là kỳ vọng vào bán bất động sản khi giá tăng thì cũng cần cấm đoán hay hạn chế cho vay.

Cũng trong nhóm bất động sản cần được coi là lĩnh vực sản xuất kinh doanh đề cập ở phần đầu bài viết, nhưng một số lĩnh vực cần hạn chế cho vay, nhất là trong giai đoạn hiện nay, cụ thể như doanh nghiệp đầu tư xây dựng chung cư, biệt thự, căn hộ liền kề… Bởi vì đây là phân khúc thị trường bất động sản được phát triển quá nóng thời gian qua, mang tính chất đầu cơ chờ tăng giá chiếm tỷ trọng lớn, còn nhu cầu đích thực không nhiều. Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu Vietnam Report công bố thời điểm đầu năm 2011, trong số gần 500 mẫu điều tra tại thị trường Hà Nội, số người mua bất động sản phục vụ mục đích đầu tư chiếm tỷ lệ 61,9%, chỉ có 38,1% mua để phục vụ nhu cầu ở và sinh hoạt của gia đình. Có đến 47,7% trong số 61,9% nhà đầu tư mua bất động sản phục vụ mục đích đầu tư là dành cho đầu tư ngắn hạn, lướt sóng kiếm lời. Được biết trong số hơn 38 % có nhu cầu đích thực thì không phải ai cũng có đủ vốn tự có, có nguồn lực tài chính đầy đủ của gia đình, mà tỷ lệ quan trọng là phải vay bổ sung từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng qua kênh tiêu dùng. Cũng trong phân khúc thị trường bất động sản này giá tăng quá ảo thời gian qua, tập trung là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, vì vậy cần để cho thị trường điều chỉnh làm sao cho giá cả trở lại mức mà nhiều người có nhu cầu đích thực có thể chấp nhận được. Tiếp tục bơm vốn tín dụng ngân hàng thương mại cho lĩnh vực này sẽ có nguy cơ tiếp tục đem lại rủi ro đối với người cho vay.

Nhóm đầu tư bất động sản là khu công nghiệp, khu chế xuất, mục đích cũng là sản xuất kinh doanh. Song tình trạng đầu tư tràn lan theo kiểu phong trào ở nhiều địa phương dẫn đến kết quả cho thuê mặt bằng đạt tỷ lệ thấp, nên nguy cơ phát sinh đọng vốn đối với cả chủ đầu tư và bên cho vay. Được biết đến nay, cả nước có 223 Khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), Khu công nghệ cao ( KCNC), phân bố trên 56 tỉnh, thành phố, trong đó 171 KCN đã đi vào hoạt động; 52 KCN đang và sẽ xây dựng. Chỉ có 7 tỉnh không có KCN. Song theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX, Khu công nghệ cao rất thấp, chỉ 46%; có tỉnh tỷ lệ bình quân chỉ 10%. Tại vùng đồng bằng sống Cửu Long (ĐBSCL) có tới 17.690 ha trong tổng số 19.102 ha đất bị bỏ trống tại các khu, cụm công nghiệp, chiếm hơn 92,6% tổng diện tích của các khu đó. Ở miền Trung, tỷ lệ lấp đầy cũng rất thấp, bình quân 30%. Tại Hà Nội có 19 KCN với diện tích gần 8.000 ha nhưng chỉ có 8 KCN hoạt động… Tỉnh Bình Thuận quy hoạch 8 KCN với quy mô 4.284 ha nhưng theo kết luận của Thanh tra Chính phủ năm 2010, tỷ lệ sử dụng đất ở các KCN của tỉnh rất thấp, chỉ 16%. Còn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 14 KCN với diện tích 8.800 ha, mặc dù có đủ điều kiện hạ tầng nhưng các KCN trên địa bàn chỉ mới lấp đầy hơn 24%. Vì vậy, trong định hướng tín dụng ngân hàng cần hạn chế cho vay lĩnh vực này.

Tương tự, nhóm đầu tư bất động sản khác đưa vào sản xuất kinh doanh: khách sạn, văn phòng cho thuê,… phải dựa trên khả năng thu hồi vốn, khả năng thu hút khách thì mới có thể cho vay, chứ về mặt chính sách tín dụng không thể mở rộng tràn lan được.

Hoạt Động Cho Vay Và Hình Thức Cho Vay Cơ Bản Của Ngân Hàng

1. Khái niệm về hoạt động cho vay.

Nhà kinh tế pháp Louis Baundin, đó định nghĩa tín dụng như là “Một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây, chúng ta thấy yếu tố thời gian đó xen lẫn vào còng vì có sự xen lẫn đó, cho nên có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng.

Tại Việt Nam các quyết định 1627/2001_QĐ_NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc ngân hàng về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và hưíng dẫn thực hiện số 49/QĐ_HĐQT ngày 31/05/2002 của NHCT Việt Nam , quyết định số 106/QĐ_HĐQT_NHCT ngày 20/08/2002 về việc cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam, phân tích đánh giá doanh nghiệp dưới góc độ tài chính _ ngân hàng.

Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

Định nghĩa trên được các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác áp dụng để làm tiền đề căn bản cho các hoạt động cho vay của mình.

2. Đặc điểm của một hoạt động cho vay.

* Tính pháp lý của nghiệp vụ cho vay: Cho vay của ngân hàng là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý. Các hành vi cho vay của ngân hàng có một logic kinh tế, hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh , cầm cố…).

Luật ngân hàng các nước định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ tác động nào, qua đó một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này nhưng đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp xét về tính chất pháp lý, các nghiệp vụ cho vay ngân hàng về cơ bản là:

– Cho vay ứng trước (cho vay trực tiếp).

– Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.

– Cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký).

* Các khoản vay đều phải theo một quy trình cho vay, thu nợ nhất định.

Thông thường gồm 5 bước:

Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị vay.

Bước 2: Phân tích tín dụng.

Bước 3: Quyết định cấp tín dụng cho vay.

Bước 4: Giải ngân.

Bước 5: Giám sát thu nợ và thanh lý hợp đồng cho vay.

* Lãi suất trong hợp đồng cho vay theo thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng cho vay. (Ví dụ: Lãi suất cố định, lãi suất thả nổi,…).

* Các khoản cho vay có hoặc không có tài sản đảm bảo tuỳ vào việc đánh giá và xếp hạng khách hàng của ngân hàng cho vay.

Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến dịch vụ viết thuê luận văn để giúp mình hoàn thành những bài luận đúng deadline? Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.

* Khi kết thúc hợp đồng khách hàng có nghĩa vụ trả gốc và lãi hoặc một số thoả thuận khác nếu được ngân hàng cho vay chấp nhận. Trường hợp khách hàng không thực hiện hợp đồng hay không có một điều khoản nào khác thì tài sản đảm bảo thuộc quyền quyết định của ngân hàng cho vay.

3. Những yếu tố cấu thành hoạt động cho vay.

3.1. Các bên tham gia.

– Người cho vay: Là một định chế tài chính hay một người nào đó cho người vay vay một khoản tiền nào đó trên cơ sở hợp đồng cho vay đó được thỏa thuận các điều kiện về mức vay, thời hạn vay, lãi suất, hình thức trả gốc và lãi, tài sản đảm bảo …

– Người vay: Là người có phương án, dự án cần có vốn để thực hiện nó bao gồm:

+ Các pháp nhân: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 của bộ luật dân sự.

3.2 Điều kiện của chủ thể vay vốn:

Có năng lực chủ thể: Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự (Điều 16,18, 96 – Bộ luật dân sự) chịu trách nhiệm pháp lý trong kinh tế và dân sự.

– Các cơ quan quản lý nhà nước: Là các cơ quan công quyền như ngân hàng nhà nước, cơ quan công chứng, tòa án, thuế quan … Những cơ quan này có trách nhiệm kiểm soát việc tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời công nhận tính hợp pháp của các giao dịch cho vay, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản và xét xử giải quyết tranh chấp.

Tùy theo mỗi hình thức cho vay mà các chủ thể trên có liên đới tham gia với mức độ nhất định hoặc không tham gia vào hình thức cho vay nào đó. Kết quả những tác động qua lại giữa các bên là hợp đồng cho vay (hợp đồng tín dụng)

4. Vai trò của hoạt động cho vay.

4.1. Vai trò đối với nền kinh tế.

* Cho vay góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Do đặc điểm cho vay là quy mô rộng, khách hàng đa dạng mặt khác nó là hình thức kinh doanh chủ yếu của ngân hàng. Với vai trò là trung gian tài chính ngân hàng đóng vai trò là cầu nối vốn cho nền kinh tế, giữa người thừa vốn và người cần vốn để đầu tư.

“Tiền có giá trị theo thời gian” các nguồn vốn nhàn rỗi được tập hợp và đầu tư cho các phương án, dự án kinh doanh khác nhau đang cần vốn để thực hiện dự án. Đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án nghĩa là phương án, dự án đó được giải quyết về vấn đề vốn. Đây là yếu tố khó khăn, Quan trọng để biến ý tưởng kinh doanh thành thực tế. Và chính nó giải quyết được các vấn đề kinh tế xã hội như tăng trưởng, phát triển kinh tế. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động…

* Hoạt động cho vay góp phần mở rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật…

Việc vay vốn không những giải quyết được nhu cầu vốn kinh doanh mà còn làm thay đổi cách nghĩ, cách làm … làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế và vấn đề phần mì rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật sẽ làm tiền đề cho sự phát triển có hiệu quả đó. Trong đó vốn quyết định mọi vấn đề trong kinh doanh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập nền kinh tế thị trường thì đây là vấn đề quan trọng cần giải quyết của các doanh nghiệp Việt Nam.

4.2. Vai trò đối với người đi vay.

Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có các kỳ hạn khác nhau.

Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bên cạnh đó lãi suất linh hoạt cố định hay thả nổi… vì thế khách hàng tùy ý lựa chọn kỳ hạn vay và thỏa thuận hình thức lãi suất vay phù hợp với mục tiêu kinh doanh của mình.

Mặt khác việc vay vốn ngân hàng giúp khách hàng tập chung được vốn kinh doanh đồng bộ, giảm chi phí huy động và chủ động trong việc hoàn trả gốc và lãi theo hợp đồng. Bên cạnh đó việc thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng khi hết hợp đồng cho vay tạo điều kiện cho khách hàng kinh doanh tiếp… như trợ giúp vốn, gia hạn hợp đồng.

4.3 Lợi ích của ngân hàng

Hoạt động cho vay là hoạt động chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhưng nó lại là hoạt động chính của ngân hàng cho vay. Bên cạnh rủi ro tiềm ẩn thì ngân hàng cho vay thu được lãi suất phù hợp với các khoản vay đó và đó cũng là thu nhập chính của ngân hàng cho vay.

Đối với ngân hàng.

Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng, việc ngân hàng không thu hồi được vốn, có thể là do ngân hàng buông láng quản lý, cấp tín dụng không minh bạch, áp dụng một chính sách tín dụng kém hợp lý, hay do nền kinh tế đi xuống không lường trước hay do nguyên nhân chủ quan từ phía hach hàng …

5. Các hình thức cho vay cơ bản của các ngân hàng

5.1. Phương thức cho vay từng lần:

Là một phương thức cho vay mà mỗi lần vay khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và kí kết hợp đồng tín dụng.

Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc khách hàng mà ngân hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát kiểm tra quản lý việc sử dụng vốn vay chặt chẽ an toàn.

Ưu điểm: Phương thức này là linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng. Khi nào khách hàng có nhu cầu vay vốn, ngân hàng mới xem xét đáp ứng (mỗi lần vay ngân hàng đều định thời hạn cho khoản vay đó, đến thời hạn trả nợ người vay phải có trách nhiệm trả nợ ngân hàng). Do đó, qua phương thức cho vay này ngân hàng kiểm tra chặt chẽ được từng món vay, tính toán được hiệu quả kinh tế của từng đối tượng cho vay từ đó đảm bảo được khả năng an toàn vốn cho ngân hàng.

Nhược điểm: Cho vay từng lần thủ tục rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người vay. Mỗi lần vay tiền, người vay phải làm đơn xin vay gửi tới ngân hàng xem xét quyết định cho vay.

Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay nhanh thì doanh nghiệp sẽ sử dụng món vay đó vào nhiều mục đích mà ngân hàng không kiểm soát được điều này gây nên tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ, ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng.

5.2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (cho vay luân chuyển)

Là cách thức cho vay bằng cách ngân hàng xác định cho khách hàng của mình một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định để làm căn cứ cho việc phát tiền vay.

Phương thức này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định vay vốn trả nợ thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Trách nhiệm của kế toán phải theo dõi chặt chẽ dư nợ của tài khoản cho vay để dư nợ của tài khoản cho vay không vượt quá hạn mức tín dụng đã kí kết.

Ưu điểm: Trước hết nó tiết kiệm vốn tối đa cho người vay vì khi mua nguyên liệu hàng hoá thì vay, bán hàng là ghi thẳng vào bên Có để trả nợ không phải vừa vay vừa đọng tiền gửi như lối cho vay từng lần.

Thứ hai là cán bộ ngân hàng dễ nắm tình hình đơn vị vay vì doanh số cho vay thể hiện doanh số mua vào, doanh số thu nợ thể hiện doanh số bán ra. Từ đó biết tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tương đối chính xác đặc biệt là khả năng tài chính của khách hàng.

Nhược điểm: Do ngân hàng và khách hàng cùng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định nên ngân hàng luôn phải duy trì một số vốn nhất định để sẵn sàng giải ngân cho người vay làm cho ngân hàng bị đọng vốn sử dụng, nếu khoản vay lớn có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của ngân hàng bởi đó là những khoản vốn chết đã không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà ngân hàng còn phải trả lãi huy động cho những khoản vốn đó.

5.3. Phương thức cho vay theo dự án đầu tư

Ngân hàng nông nghiệp cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án đời sống.

Phương thức cho vay này áp dụng cho các trường hợp cho vay vốn trung và dài hạn.

5.4. Phương thức cho vay trả góp.

Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời kỳ cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay sau khi trả đủ nợ gốc và lãi.

Những ưu điểm của cho vay trả góp:

– Người vay không cần thế chấp tài sản đảm bảo: Khác hoàn toàn với vay thế chấp, khách hàng không phải thế chấp bất cứ tài sản cố định nào: giấy tờ xe hơi, sổ đỏ nhà đất.

– Thủ tục hồ sơ đơn giản: Khách hàng chỉ cần cung cấp cho ngân hàng những giấy tờ tùy thân, thủ tục nhanh gọn hơn nhiều so với vay thế chấp.

– Ngân hàng không cần quan tâm đến chi tiết mục đích vay: mà họ chỉ quan đến đến khả năng thanh toán, trả lãi suất ngân hàng của bạn có đúng hạn hay không. Để xác nhận điều đó ngân hàng sẽ kiểm tra thu nhập, việc làm kinh doanh của bạn.

– Số tiền vay cao: Bạn dễ dàng vay một khoản có thể lên tới 500 triệu đồng để phục vụ cho mục đích của mình

Nhược điểm của cho vay trả góp:

– Điểm tín dụng là điều mà ngân hàng đánh giá xem khách hàng có được vay hay không. Do vậy khi bạn có một điểm tín dụng xấu thì nguy cơ bị ngân hàng từ chối cho vay là điều khó tránh khỏi.

– Mỗi ngân hàng lại có những thủ tục vay tiêu dùng khác nhau như thời hạn vay, cách thức vay, số tiền vay… nên cần nhiều thời gian tìm hiểu về nó.

– Đa số các khoản vay tiêu dùng không thế chấp đều có các loại phụ phí đi kèm. Nên trước khi vay bạn phải tỉnh táo để tìm hiểu các khoản này.

– Khi vay bạn nên xác định khả năng trả nợ theo từng tháng. Khi xác định rõ khoản tiền mà bạn có thể trả hàng tháng, thì cần báo cho ngân hàng xác định khoản vay thời hạn trả nợ hợp lí.

– Những khoản trả phí các lãi suất là tương đương nhau, tuy nhiên sự khác nhau là ở giá trị lãi suất. Do đó cần tìm hiểu kỹ cách tính các khoản lãi suất.

5.5. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng

Ngân hàng nơi cho vay chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lí của Ngân hàng.

Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, Ngân hàng nơi cho vay và khách hàng phải tuân theo các quy định của chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

5.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.

Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 27 Thông tư 39/2016/TT-NHNNquy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành như sau:

Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi mức cho vay dự phòng đã thỏa thuận. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay dự phòng nhưng không vượt quá 01 (một) năm.

Ưu điểm : Đây là phương thức cho vay năng động, linh hoạt đáp ứng được kịp thời nhu cầu của người vay bởi thủ tục vay vốn đơn giản, thuận tiện.

5.7. Cho vay hợp vốn.

Cho vay hợp vốn được định nghĩa tại Khoản 2 Điều 27 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành như sau:

Cho vay hợp vốn: Là việc có từ hai tổ chức tín dụng trở lên cùng thực hiện cho vay đối với khách hàng để thực hiện một phương án, dự án vay vốn.

Định nghĩa khác:

Lợi ích cho vay hợp vốn: nhiều ngân hàng cho vay lớn hơn hẳn mức cho vay của một ngân hàng. Khi cần rút vốn vay ngân hàng làm đầu mối đảm bảo khoản vay và thu xếp các ngân hàng khác tham gia. Giải quyết các thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, hiệu quả.

5.8. Phương thức cho vay khác.

Các phương thức cho vay khác do Ngân hàng Nông nghiệp quy định.

Việc áp dụng phương thức cho vay nào phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh nhu cầu về vốn của đối tượng cho vay. Trong giai đoạn hiện nay phần lớn các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng nước ta áp dụng hai phương thức cho vay chủ yếu đó là phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.

Hoạt Động Ngân Hàng Là Gì? Khái Quát Về Hoạt Động Ngân Hàng?

Hoạt động ngân hàng là gì? Đặc điểm của hoạt động ngân hàng? Khái quát về hoạt động ngân hàng? Hệ thống ngân hàng theo quy định của Luật ngân hàng Việt Nam?

Như ta đã biết ngân hàng là một tổ chức kinh tế có đối tượng trong các giao dịch nghề nghiệp là tiền tệ.

Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua năm 1997, ngân hàng được hiểu là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

+ Hoạt động nhận tiền: Theo khoản 13 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

Việc nhận tiền gửi được thực hiện diễn ra liên tục và thường xuyên nhất tại Ngân hàng, việc nhận tiền gửi là một trong những hoạt động giúp cho ngân hàng huy động được nguồn tiền, nguồn vốn để duy trì hoạt động khác của ngân hàng.

+Hoạt động cấp tín dụng: Theo khoản 14 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, việc cấp tín dụng cho một tổ chức hay cá nhân được phép sử dụng được hiểu như một giao kết qua lại giữa các bên khách hàng và ngân hàng đó

+ Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Căn cứ theo khoản 15 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản được hiểu là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.

– Hoạt động ngân hàng lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh trực tiếp

– Hoạt động ngân hàng chỉ do các tổ chức tín dụng thực hiện

– Chủ thể quản lý nhà nước là ngân hàng nhà nước

– Hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bằng Luật Ngân hàng

– Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc thù, tính đặc thù thể hiện ở chỗ rủi ro cao, khó quản lý, khó giám sát..

+ Ngân hàng thương mại( thương mại nhà nước, thương mại cổ phần…)

+ Ngân hàng chính sách(Ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng phát triển)

+ Ngân hàng hợp tác quỹ tín dụng

– Tổ chức tín dụng phi ngân hàng

+ Công ty tài chính: không nhận được tiền gửi của cá nhân, không làm dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

– Quỹ tín dụng nhân dân với mục đích tương trợ giữa các thành viên, cho các thành viên cay hoặc các đối tượng ngoài thành viên gửi.

5. Các loại hình ngân hàng tại Việt Nam hiện nay và những hoạt động tại ngân hàng

+ Ngân hàng chính sách xã hội :

Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng do Nhà nước thành lập để cho những người thuộc đối tượng chính sách vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng phục vụ người nghèo có chức năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước , tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho người nghèo vay, thực hiện chương trình của Chính phủ đối với người nghèo. Hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo , không vì mục đích lợi nhuận , thực hiện việc bảo toàn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay trực tiếp đối với hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát triển sản xuất,không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định.

Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn giảm thuế doanh thu (thuế giá trị gia tăng) và thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) , để giảm lãi suất cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro bất khả kháng trong quá trình hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo được bù đắp bằng quỹ bù đắp rủi ro theo quy chế tài chính của Bộ Tài chính.

Hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.

+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngân hàng nhà nước Việt Nam có tư cách pháp nhân, cố vốn pháp định, tổ chức thành hệ thống tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các văn phòng đại diện ở trong nước, ở ngoài nước và các đơn vị trực thuộc. Theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam là người lãnh đạo, điều hành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và là thành viên của Chính phủ.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có chức năng ngân hàng trung ương, thực hiện các hoạt động kinh doanh vừa là cơ quan của Chính phủ. Kể từ sau cải cách hệ thống ngân hàng theo cơ chế kinh tế thị trường, Ngân hàng nhà nước Việt Nam không còn thực hiện hai chức năng cơ bản là quản lý nhà nước về ngân hàng và chức năng ngân hàng trung ương của đất nước.

Với chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng như: cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng, cấp thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức khác, quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Với chức năng là ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các hoạt động như phát hành, điều hòa lưu thông tiền tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng.

+ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn:

Ngân hàng thương mại Nhà nước chuyên doanh tiền tệ , tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn.

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn do Nhà nước đầu tư 100% vốn thành lập và thuộc sở hữu nhà nước. Thực hiện chủ trương cải cách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, ngày 26.3.1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành nghị định số 53/HĐBT quy định lại cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng chuyên nghiệp được đổi thành ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng nông nghiệp.

Trên cơ sở pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 400-CT ngày 14.11.1990 về việc thành lập Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam trong đó quy định rõ; Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là ngân hàng thương mại quốc doanh, có tư các pháp nhân thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, ngư diêm nghiệp.

Chức năng chủ yếu của Ngân hàng này là kinh doanh, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng, cho tập thể, cá nhân vay tiền với lãi suất thấp nhất nhằm phát triển trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế hợp tác xã,kinh tế hộ gia đình, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nông dân và nhân dân nói chung, góp phần hiện đại hóa nông nghiệp.

Ngân hàng kinh doanh tiền tệ vì mục đích lợi nhuận.

Ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng để cấp tín dụng và thực hiện nghiệp vụ chiếu khấu và làm phương tiện thanh toán. Với tư cách là tổ chức kinh doanh, hoạt động của ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở chế độ hoạch toán kinh tế, nhằm mục đích là có lợi nhuận. Ngân hàng thương mại được pháp luật cho phép thực hiện rộng rãi các loại nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như: nhận tiền gửi có kì hạn, nhận tiền gửi không kỳ hạn; thực hiện nghiệp vụ chiết khấu; dịch vụ thanh toán ; huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ nhận nợ…

Theo quy địnhcủa Luật tổ chức các tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức các tín dụng ban hành năm 2004, ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

+Về loại hình kinh doanh có: ngân hàng thương mại bán buôn, ngân hàng thương mại bán lẻ; ngân hàng thương mại vừa bán buôn vừa bán lẻ.

+Về tiềm năng kinh doanh có: ngân hàng thương mại trung tâm, ngân hàng thương mại khu vực, ngân hàng thương mại địa phương.

+Về hình thức tổ chức có: ngân hàng thương mại cơ sở, ngân hàng thương mại chi nhánh, ngân hàng thương mại chấp hữu.

+Về hình thức sở hữu có: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại liên doanh.

+Về đối tượng kinh doanh có: ngân hàng thương mại công thương, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng ngoại thương…

Ngân hàng thực hiện các hoạt động của Nhà nước về tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, giữ vai trò trung tâm của hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính chính thức của một quốc gia.

Chức năng phổ biến của ngân hàng, trung ương trên thế giới là thực hiện chức năng công quyền về ngân hàng như: phát hành đồng tiền quốc gia, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền đó, điều hòa lưu thông tiền tệ ở một quốc gia hoặc trong một liên minh giữa một số quốc gia. Khác với các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương hoạt động chủ yếu nhằm mục đích thực hiện chính sách tiền tệ của một quốc gia hoặc của liên minh một số quốc gia. Ngoài ra, ngân hàng trung ương có thể có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, ban hành các quy chế quản lý hoạt động ngân hàng, cũng như chịu trách nhiệm về hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.

Bất Động Sản Là Gì? Tìm Hiểu Về Bất Động Sản Và Các Đặc Trưng Cơ Bản

Hiện nay, cụm từ “bất động sản” đã trở nên quen thuộc với mỗi người. Tuy nhiên, để thực sự hiểu rõ bất động sản là gì hay các đặc trưng cơ bản của bất động sản thì không phải ai cũng hiểu rõ. Cùng tham khảo bài viết sau đây để có cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề nói trên.

Ở mỗi quốc gia khái niệm bất động sản là gì có sự khác nhau và có đặc thù riêng

Bất động sản là một thuật ngữ pháp luật, trong đó, ở mỗi quốc gia khái niệm bất động sản là gì có sự khác nhau và có nét đặc thù riêng. Tuy nhiên, các nước trên toàn cầu vẫn thống nhất chung khái niệm bất động sản là toàn bộ đất đai và những phần tài sản gắn liền với đất đai.

Bất động sản tiếng Anh là gì?

Trong tiếng Anh, cụm từ “bất động sản” được viết thành “real property” hay “real estate”. Bất động sản mang tính chất trái ngược với “động sản” – “Personal property”.

Nếu một ngôi nhà được tiến hành sang nhượng (mua bán, ký tặng,…) cho người sở hữu mới, thì việc sang nhượng sẽ bao gồm cả căn nhà và phần đất xây dựng bên dưới – bất động sản.

Bds là gì?

Rất đơn giản, bds là cách viết tắt của cụm từ bất động sản.

Địa ốc là gì? Nhà đất là gì?

Kinh doanh bất động là gì?

Kinh doanh bất động sản là gì? Cụm từ này chỉ các hoạt động đầu tư vốn nhằm thực hiện trao đổi, mua bán, chuyển nhượng, xây dựng, cho thuê, môi giới bất động sản hay các dịch vụ tư vấn – hỗ trợ bất động sản. Các hoạt động nói trên đều có mục đích chính là đem về những lợi ích về kinh tế cho người thực hiện.

Hiện nay, kinh doanh bất động sản đang là lĩnh vực hot, thu hút nhiều nhà đầu tư

Thị trường bất động sản

Là thị trường thực hiện mua bán hoặc cho thuê tài sản bất động sản. Bao gồm có người mua, người bán, các nhà đầu tư, người môi giới hay chuyên viên về bất động sản.

Giá bất động sản

Trên thị trường luôn tồn tại song song hai loại giá trị bất động sản bao gồm: giá nhà nước và giá bất động sản thị trường.

Giá nhà nước: là mức giá được UBND tỉnh – thành phố ban hành, được thay đổi theo từng năm, dùng làm cơ sở tính thuế trong việc chuyển nhượng nhà đất, đất đai.

Giá thị thường: được hình thành và thay đổi dựa trên những biến động của thị trường, quy luật cung – cầu, quy luật giá trị,… và các yếu tố quản lý của nhà nước. Giá trị trường thường có sự thỏa thuận nhất định giữa người mua và người bán.

Dịch vụ bất động sản là gì?

Hỗ trợ cho thuê/mua nhà đất, địa ốc, đất đai,…

Dịch vụ cung cấp thông tin, pháp lý, tài chính, thẩm định giá.

Dịch vụ thanh toán trung gian.

Dịch vụ sửa chữa bất động sản.

Phân loại bất động sản

Hiện nay, bất động sản được chia thành ba loại hình dựa trên đặc điểm tính chất. Bao gồm:

Bất động sản xây dựng

Bất động sản cơ sở hạ tầng.

Bất động sản về trụ sở làm việc.

Bất động sản về công trình thương mại – dịch vụ, nhà xưởng, nhà kho,…

Nhóm bất động sản này có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của đất nước. Đây cũng là nhóm bất động sản chiếm tỷ lệ cao trong các giao dịch trên thị trường bất động sản tại nước ta.

Bất động sản không đầu tư xây dựng

Chủ yếu là các loại đất nông nghiệp dưới dạng tư liệu sản xuất, chưa được đầu tư xây dựng quy mô. Cụ thể như đất rừng, đất hiếm, đất nuôi trồng thủy hải sản, đất chưa qua sử dụng,…

Đất chưa qua sử dụng là loại tài sản thuộc nhóm bất động sản không đầu tư xây dựng

Bất động sản đặc trưng

Bao gồm nhóm các công trình có tính chất văn hóa, di sản như công trình bảo tồn quốc gia, đền miếu, chùa chiền, nhà thờ,… Nhóm bất động sản này gần như không tham gia vào thị trường giao dịch hoặc có tỷ lệ tham gia rất thấp.

Những đặc điểm của bất động sản

Bên cạnh khái niệm bất động sản là gì, phân loại ra sao, để tìm hiểu về bất động sản một cách rõ nét, không thể không nhắc đến những đặc điểm cơ bản của loại hình này.

Tính chất cá biệt và khan hiếm

Do không thể di dời bất động sản, kết hợp với sự khan hiếm khiến chúng được còn coi là “hàng hóa” có tính cá biệt. Bên cạnh đó, sự cá biệt còn bởi vị trí, các yếu tố tác động tới từng tài sản bất động sản là khác nhau, tính chất bất động sản cũng là không tương đồng.

Tính lâu bền

Tuổi thọ kinh tế ngắn hơn so với tuổi thọ vật lý, có thể chấm dứt ngay trong hoạt động bình thường của thị trường bất động sản.

Tuổi thọ vật lý mang lại lợi ích dài hạn và giá trị kinh tế cao hơn. Vì nó chỉ chấm dứt khi công trình hay các kết cấu kiến trúc bị hư hỏng, không thể khắc phục.

Nhờ đặc tính bền lâu, tài sản bất động sản được ứng dụng với nhiều mục đích khác nhau, phong phú, đa dạng và không bao giờ vơi cạn.

Với đặc tính lâu bền, bất động sản có thể dễ dàng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau

Tính tương tác và chịu ảnh hưởng lẫn nhau

Ví dụ: Trong một dự án nhà đất, khi hệ thống cầu đường, cảnh quan được sửa chữa, nâng cấp, tăng tính tiện nghĩ sẽ giúp giá mua/bán địa ốc tại khu vực đó thu hút khách hàng và có mức giá hấp dẫn hơn.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bàn Về Cho Vay Bất Động Sản Và Phi Sản Xuất Trong Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng Hiện Nay trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!