Đề Xuất 3/2023 # Bàn Về Khái Niệm Tai Nạn Giao Thông Đường Bộ Ở Việt Nam # Top 6 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 3/2023 # Bàn Về Khái Niệm Tai Nạn Giao Thông Đường Bộ Ở Việt Nam # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bàn Về Khái Niệm Tai Nạn Giao Thông Đường Bộ Ở Việt Nam mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hàng năm tai nạn giao thông (TNGT) đường bộ cướp đi sinh mệnh của 1,3 triệu người, làm hơn 50 triệu người bị thương và gây thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 518 tỉ đô la. Việc phòng ngừa, kéo giảm, hạn chế thấp nhất TNGT xảy ra đã trở thành vấn đề được các quốc gia trên thế giới  và cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm. Tuy nhiên, ở một số quốc gia do nhận thức về TNGT đường bộ có những điểm khác nhau dẫn đến số liệu thống kê chưa phản ánh đúng tình hình TNGT ở đất nước mình, điều này dẫn đến WHO sử dụng số liệu do WHO thu thập, nghiên cứu độc lập để công bố dẫn đến những tranh cãi. Do đó, nghiên cứu khái niệm “TNGT đường bộ” không chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu học thuật mà còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông. Ở các quốc gia, công tác thống kê, báo cáo, đánh giá TNGT đường bộ có vai trò quan trọng trong việc cung cấp kịp thời thông tin tình hình TNGT, qua đó giúp người dân tham gia giao thông an toàn, đồng thời giúp các cơ quan quản lý nhà nước hoạch định chính sách phát triển, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phòng chống thương tích. Vì vậy, thống kê, báo cáo tình hình TNGT là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong công tác quản lý nhà nước về ATGT. Ở nước ta, Nhà nước giao cho Bộ Công an là cơ quan có trách nhiệm thống kê, tổng hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về TNGT đường bộ, cung cấp cho cơ quan tổ chức, cá nhân theo qui định pháp luật (1), trong đó Cục Cảnh sát giao thông là cơ quan được Bộ trưởng Bộ Công an giao nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị, lực lượng thống kê, cung cấp dữ liệu TNGT (2). Ngoài ra, Chính phủ cũng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra và báo cáo kết quả thực hiện hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, trong đó có thống kê về tình hình TNGT ở nước ta (3).

Khám nghiệm hiện trường một vụ TNGT

– Quan niệm về “TNGT đường bộ” ở Việt Nam Ở Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau về “TNGT đường bộ” được đưa ra bởi các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Dưới góc độ quản lý nhà nước và theo chức năng, nhiệm vụ được giao hiện nay có hai khái niệm về TNGT đường bộ được qui định tại Nghị định số 97/2016/NĐ-CP, ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (sau đây viết tắt là Nghị định số 97) và Thông tư số 58/2009/TTBCA(C11), ngày 28/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Công an qui định và hướng dẫn, tổng hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin TNGT đường bộ (sau đây viết tắt là Thông tư số 58). Trong phạm vi của một ngành, hiện có khái niệm TNGT đường bộ do Bộ Y tế đưa ra. Dưới góc độ học thuật, qua tìm hiểu có hàng chục khái niệm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân nêu ra. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập, phân tích các khái niệm về TNGT được qui định tại Nghị định số 97, Thông tư số 58 và khái niệm của Bộ Y tế. Cụ thể: Theo Điều 5 Thông tư số 58 qui định và hướng dẫn, tổng hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin TNGT đường bộ, qui định: “TNGT đường bộ là sự việc xảy ra do người tham gia giao thông đang hoạt động trên mạng lưới giao thông đường bộ vi phạm các qui định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ hay gặp phải sự cố bất ngờ gây ra những thiệt hại nhất định đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Tại tiểu mục 1901 mục 19 – Trật tự, an toàn xã hội và tư pháp, phần phụ lục của Nghị định số 97, qui định: “TNGT là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi các đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng (gọi là mạng lưới giao thông: Đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không), nhưng do chủ quan, vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất không kịp phòng tránh, đã gây ra những thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức khỏe con người hoặc tài sản”. Theo Bộ Y tế thì:“TNGT là sự va chạm bất ngờ nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi các đối tượng tham gia giao thông hoạt động trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dụng hoặc ở địa bàn công cộng nhưng do chủ quan vi phạm luật lệ giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất không kịp phanh, tránh, gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe” (4) Như vậy, các quan điểm trên đều thống nhất cho rằng TNGT có một số đặc điểm chung như: + TNGT là sự việc hoặc sự cố giao thông nằm ngoài mong muốn của người tham gia giao thông. + Sự việc hoặc sự cố giao thông xảy ra trên mạng lưới giao thông đường bộ. + Nguyên nhân của TNGT là do người tham gia giao thông vi phạm các qui định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ hay gặp phải sự cố bất ngờ. + TNGT gây ra những thiệt hại nhất định đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Điểm khác biệt giữa các quan điểm trên đó là: có quan điểm nói rõ hơn TNGT phải xảy ra “trên đường công cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng”. – Quan niệm về TNGT của một số quốc gia trên thế giới: Nghiên cứu quan niệm TNGT của các quốc gia trên thế giới cho thấy: Tại Nhật Bản tại khoản 1, mục 1, Điều 2 Luật GTĐB, định nghĩa: “TNGT là các sự vụ phát sinh gây tử vong hoặc bị thương do TNGT được phát sinh bởi phương tiện giao thông cơ giới hoặc phương tiện đường sắt”.  Tại Liên bang Nga, mục 1.2. giải thích từ ngữ của Luật GTĐB, định nghĩa: “Tai nạn giao thông là sự kiện phát sinh trong quá trình phương tiện giao thông di chuyển trên đường dẫn đến làm chết, bị thương người, làm hỏng phương tiện giao thông, công trình, hàng hóa hay là nguyên nhân gây ra các thiệt hại vật chất khác”. Như vậy, trong khái niệm về TNGT của các quốc gia nói trên có một số đặc điểm đáng chú ý như : + TNGT là vụ va chạm xảy ra trên mạng lưới giao thông đường bộ công cộng. + TNGT đường bộ còn bao gồm “va chạm giữa các phương tiện đường bộ và đường sắt”. + TNGT gây ra thiệt hại về người và tài sản cho người phương tiện tham gia giao thông, công trình giao thông…. Ngoài ra, tùy từng nước, Luật GTĐB có thể quy định các trường hợp được xem là TNGT (như ở Châu Âu) hoặc  qui định các trường hợp tuy có các dấu hiệu như trong khái niệm TNGT nhưng không bị coi là TNGT và phải đưa vào báo cáo thống kê. Điển hình như: Luật GTĐB của Nhật Bản, qui định các trường hợp không phải đưa vào cơ sở dữ liệu và báo cáo gồm có: “(a) Sử dụng xe để tự sát; (b) Các vụ giết người bằng cách cố tình dùng xe để đâm vào xe của đối phương và đâm vào người khác, các vụ gây thương tích và các vụ tấn công; (c) Các vụ tai nạn do vật rơi từ trên không, từ trên các tòa nhà vào xe và người đang lưu thông trên đường; (d) Xe bị mắc kẹt do lở đất và lún đường; (e) Tai nạn do động đất hoặc sóng thần”. Như vậy, có thể thấy, quan niệm về TNGT của Việt Nam và một số nước trên thế giới như đã phân tích có điểm chung là: + TNGT là vụ va chạm giao thông. + Vụ TNGT phải xảy ra trên mạng lưới giao thông. + TNGT gây ra những thiệt hại nhất định đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Điểm khác biệt căn bản trong quan niệm về TNGT của các nước và nước ta ở chỗ: + Các quốc gia cho rằng “Đường” mà phương tiện đang di chuyển phải là “đường công cộng”, “đường công chúng có thể tiếp cận” được. Điều này có nghĩa là “đường” ở đây không chỉ thuộc mạng lưới đường bộ, đường công cộng mà còn phải là “đường” đang khai thác sử dụng và người dân được quyền tham gia giao thông trên đó. Ở Việt Nam thì chưa qui định cụ thể, thống nhất về vấn đề này.  + Qui định cụ thể các trường hợp được xem là TNGT và các trường hợp loại trừ không phải là vụ TNGT, điều này thuận lợi cho các lực lượng chức năng trong việc nhận diện vụ TNGT để đưa vào báo cáo, thống kê nhanh chóng, chính xác, kịp thời. + Qui định vụ TNGT đường bộ còn bao gồm va chạm giữa phương tiện đường bộ và đường sắt. Ngoài ra, Luật GTĐB của các nước còn qui định cụ thể, chi tiết việc phân loại TNGT như: tai nạn về tài sản, tai nạn về con người (tai nạn chết người, tai nạn bị thương nặng, tai nạn bị thương nhẹ) như ở Nhật Bản hay: va chạm giao thông, va chạm giao thông gây thương tích,  va chạm giao thông gây tử vong như ở Châu Âu; tử vong do TNGT,  tử vong trong vòng 24 giờ, tử vong trong vòng 30 ngày, bị thương (bị thương nặng, bị thương nhẹ)…. Các vấn đề này tác giả sẽ đề cập trong bài viết sau. Như vậy, khái niệm “TNGT” ở các nước Nhật Bản, Liên Bang Nga và của Châu Âu chi tiết, cụ thể hơn qui định của nước ta hiện nay. Điều này tạo thuận lợi cho việc nhận diện các vụ TNGT và loại trừ các vụ việc có dấu hiệu tương tự nhưng không phải vụ TNGT.  Hiện nay, công tác chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật GTĐB năm 2008 đang được các cơ quan nhà nước tiến hành. Tác giả cho rằng cần xem xét bổ sung qui định khái niệm “TNGT” đường bộ vào Luật GTĐB để thống nhất về nhận thức và trong công tác thống kê, báo cáo của các cơ quan nhà nước.  Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa quan điểm về TNGT của nước ta và của các nước, tác giả xin đưa ra khái niệm TNGT đường bộ như sau: Các trường hợp không được xem là tai nạn giao thông, bao gồm: (a) Sử dụng xe để tự sát; (b) Các vụ giết người bằng cách cố tình dùng xe để đâm vào xe của đối phương, đâm vào người khác, các vụ gây thương tích, các vụ tấn công; (c) Các vụ tai nạn do vật rơi từ trên không, từ trên các tòa nhà vào xe và người đang lưu thông trên đường; (d) Xe bị mắc kẹt do lở đất và lún đường; (e) Tai nạn do động đất hoặc sóng thần”.

(1)  Xem khoản 6 Điều 38 Luật Giao thông đường bộ năm 2008. (2)  Xem Quyết định số 7836/QĐ-BCA ngày 29/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Công an qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Cảnh sát giao thông. (3)  Xem Nghị định số 97/2016/NĐ-CP, ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. (4)  Cục Cảnh sát giao thông – Bộ Công an (2016), “Báo cáo tổng quan hội thảo Công tác thống kê, báo cáo đánh giá tai nạn giao thông, Thực trạng và những giải pháp kiến nghị”, Hội thảo khoa học “Thống kê, báo cáo đánh giá tai nạn giao thông, Thực trạng và những giải pháp kiến nghị”, Hà Nội, Tr.10. (5)  Chương B, mục chúng tôi Tiêu chuẩn thống kê giao thông của Châu Âu, tái bản lần thứ 4, năm 2009, eurostat.

Trung tá, TS Lê Huy Trí Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ATGT – Học viện CSND

Định Nghĩa Tai Nạn Giao Thông Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Tai Nạn Giao Thông

Một tai nạn được gọi là một sự kiện gây ra thiệt hại không tự nguyện hoặc làm thay đổi trạng thái thông thường của một sự kiện. Quá cảnh, mặt khác, là hành vi quá cảnh (đi từ nơi này đến nơi khác, đi du lịch).

Giả sử một đối tượng bị ngừng tim khi lái xe. Khi anh ta biến mất, anh ta mất kiểm soát phương tiện và chạy qua một người đi bộ . Người lái xe, người không có tiền sử tim mạch, lưu hành tôn trọng luật lệ giao thông, trong khi nạn nhân không vi phạm bất kỳ quy tắc nào. Có thể nói rằng tai nạn giao thông này, do đó, thực sự là tình cờ hoặc nguy hiểm, vì không có hành vi bất cẩn.

Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, tai nạn giao thông xảy ra là kết quả trực tiếp của lỗi con người. Thông thường, chúng được gây ra bởi việc lái xe liều lĩnh, do lái xe thiếu thận trọng hoặc do thiếu sót trong cơ sở hạ tầng đường bộ (tình trạng xấu của đường, thiếu biển báo, v.v.).

Nếu một người đàn ông say rượu ở 180 km mỗi giờ và va chạm với một phương tiện khác, tin tức có thể được trình bày là một tai nạn giao thông hoặc tai nạn đường bộ. Tuy nhiên, thiệt hại gây ra có thể tránh được nếu người lái xe tuân thủ các quy tắc về tiêu thụ rượu khi lái xe và với tốc độ tối đa cho phép khi lái xe.

Một trong những nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông là sự thiếu hụt giáo dục đường bộ mà trẻ em nhận được từ người lớn tuổi. Mặc dù ở nhiều quốc gia, chính phủ yêu cầu công dân phải vượt qua kỳ thi lý thuyết, trong đó họ kiểm tra kiến ​​thức kỹ thuật về quy tắc lái xe và các yếu tố khác nhau của đường công cộng, điều này không xảy ra trên toàn thế giới ; mặt khác, đó là một sự áp đặt tương đối gần đây, đó là lý do tại sao nhiều tài xế trẻ đã không phải tuân thủ nó .

Điều này dẫn đến một tỷ lệ lớn các tài xế không biết sâu về các quy định hiện hành và thay vào đó, ai quyết định dựa trên tiêu chí riêng của họ về cách di chuyển trên đường phố trong thành phố của họ. Điều này không chính xác và, thông thường, thông tin không chính xác sau đó truyền cho con bạn, v.v. Nếu chúng ta thêm hiện tượng này vào sự thiếu kiểm soát tồn tại ở một số quốc gia nhất định, không khó hiểu tại sao có quá nhiều vụ tai nạn giao thông mỗi ngày.

Thống kê của nhiều quốc gia chỉ ra rằng số vụ tai nạn giao thông lớn nhất là do những người lái xe rất trẻ, những người không có nhiều kinh nghiệm lái xe. Nói chung là không bao giờ tốt, nhưng có rất nhiều ví dụ về thanh thiếu niên nhầm lẫn lái xe với một cuộc thi, và bỏ qua trách nhiệm của họ để tham gia vào các cuộc đua đường phố đích thực, gây ra tất cả các loại bất hạnh, gây nguy hiểm cho cả cuộc sống của họ. của bạn bè và tại sao không, của bất kỳ người vô tội nào đi qua con đường của mình.

Xây Dựng Và Hình Thành Văn Hóa Giao Thông Ở Việt Nam Nhằm Nâng Cao Trật Tự An Toàn Giao Thông Đường Bộ

1.1. Khái niệm về văn hóa

Như giới thiệu trong nhiều tài liệu, văn hóa là sản phẩm của con người; là hệ quả của sự tiến hóa nhân loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau về Văn hóa.

Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì ” Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…“[8]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì ” Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng“[9]…

Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ,… đến âm nhạc, pháp luật… Còn các định nghĩa của F. Boas, Nguyễn Đức Từ Chi, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống là văn hóa. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.

Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.

1.2. Người có văn hóa

Con người có văn hóa luôn kết hợp hài hòa hai yếu tố căn bản gồm:

Một – Hành vi ứng xử đúng mực, luôn nhã nhặn lịch thiệp, kính trên nhường dưới, biết tôn trọng thuần phong mỹ tục, cổ vũ cái tốt và đấu tranh chống cái xấu, có trách nhiệm công dân;

Hai – Hành động thiết thực nhằm quảng bá lối sống đẹp, có tri thức cao nhưng phải biết khuếch tán giá trị tri thức với cộng đồng.

Như vậy, tri thức và lối sống tạo nên nhân cách hoàn chỉnh của con người có văn hóa, nhưng cái gốc vẫn là tính nhân bản sâu sắc.

II. VĂN HÓA GIAO THÔNG2.1. Khái niệm về văn hóa giao thông

Khái niệm Văn hoá giao thông tất nhiên là một biểu hiện cụ thể của khái niệm Văn hoá nói chung…Văn hoá giao thông là một khái niệm khá mới mẻ với nhiều cách hiểu khác nhau: có người bảo thực hiện tốt luật lệ giao thông là Văn hoá giao thông, có người lại bảo nội dung Văn hoá giao thông rộng hơn nhiều nội dung luật lệ giao thông, người khác thì nói Văn hoá giao thông là cách ứng xử của mọi người khi tham gia giao thông…

Theo Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia: ” Văn hoá giao thông được biểu hiện bằng hành vi xử sự đúng pháp luật, theo các chuẩn mực của xã hội về lẽ phải, cái đẹp, cái thiện của người tham gia giao thông. Xây dựng Văn hoá giao thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hoá, đúng pháp luật; coi việc tự giác tuân thủ pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông như một chuẩn mực đạo đửc truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại của con người khi tham gia giao thông”. Cũng theo Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, trong Văn hoá giao thông có ba tiêu chí:

Một là, về nhận thức và hành động, hiểu biết đầy đủ và tự giác chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông;

Hai là: có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ người khác;

Ba là, có thái độ ứng xử văn minh lịch sự khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần thượng tôn pháp luật.

Theo báo Văn hoá: ” Văn hoá giao thông là tự giác chấp hành trật tự an toàn giao thông, ngăn chặn các hành vi gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông, tôn trọng, nhường nhịn người khác, tận tình giúp đỡ người tham gia giao thông gặp hoạn nạn, giúp đỡ người tàn tật, trẻ em, người cao tuổi để hướng tới một xã hội giao thông an toàn, thân thiện”.

Theo TS. Nguyễn Thị Hồng: Văn hoá giao thông hiểu theo nghĩa hẹp là cách ứng xử có văn hoá của mọi người khi tham gia giao thông. Đó chính là sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, biết nhường nhịn và giúp đỡ người khác, có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự khi xảy ra va chạm…

Theo chúng tôi Hồ Sĩ Vịnh: ” Văn hoá giao thông là một thành tố của lối sống đô thị, của văn hoá thẩm mỹ, là gương mặt của đô thị. Khi ta nói người Hà Nội văn minh thanh lịch, hiện đại thì tín hiệu đầu tiên gây ấn tượng mạnh đối với khách công vụ hay khách du lịch là Văn hoá giao thông”.

Theo Giáo sư Hoàng Chương: Nhận thức về văn hóa giao thông (VHGT) trong xã hội hiện nay còn chưa thực sự chính xác, dường như chỉ tập trung vào ý thức văn hóa, tinh thần chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông mà chưa quan niệm đầy đủ các thành tố tạo nên văn hóa giao thông cũng như mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố đó. Từ quan điểm lệch lạc đó dẫn đến các nội dung xây dựng Văn hoá giao thông cũng chỉ nhằm vào vận động mọi người chấp hành tốt luật giao thông và ứng xử có văn hóa khi tham gia giao thông. Đây cũng là một trong những lý do khiến việc xây dựng văn hóa giao thông chậm tiến triển, thiếu đột phá. Nói đến Văn hoá giao thông là nói đến cái phải, cái đẹp, cái thiện của con người trong quá trình xây dựng, sử dụng các công trình, phương tiện giao thông, trong xây dựng và thực thi pháp luật về giao thông và trong tham gia giao thông. Văn hóa giao thông vừa là động lực, vừa là mục tiêu tạo nên một hệ thống giao thông hiện đại, văn minh, hiệu quả, một môi trường giao thông an toàn, nhân ái, thân thiện.

Văn hóa giao thông bao gồm cả hai mặt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất bao gồm các hạ tầng kỹ thuật giao thông (các loại đường giao thông, hệ thống chỉ dẫn giao thông), phương tiện giao thông, thiết bị diều hành giao thông. Văn hóa tinh thần bao gồm luật giao thông, cách thực thi luật giao thông, hành vi tham gia giao thông, trách nhiệm và tâm lý tham gia giao thông…

Khi bàn về văn hóa giao thông, lâu nay chúng ta thường chủ yếu nói đến yếu tố, ý thức, tinh thần mà cũng chỉ tập trung đến những yêu cầu, chuẩn mực văn hóa đối với những người trực tiếp tham gia giao thông. Muốn hiểu đúng về Văn hoá giao thông cần nhận thức về văn hóa giao thông với các mặt, các đối tượng các cấp độ. Văn hóa giao thông không chỉ là văn hóa vận hành giao thông mà còn là văn hóa pháp luật giao thông, văn hóa quy hoạch giao thông, văn hóa quản lý, quan trị giao thông.

Theo tác giả của bài báo này thì: Văn hóa giao thông là hành vi có văn hóa của con người khi tham gia hoạt động giao thông.

Văn hóa giao thông nằm trong phạm trù văn hóa chung. Có nghĩa là biểu hiện của văn hóa của con người trong quá trình tham gia hoạt động giao thông (giao thông ở đây bao gồm cả giao thông tĩnh và giao thông động). Đây cũng là nội dung thuộc về yếu tố con người trong chỉnh thể: Hạ tầng – Phương tiện – Con người.

Hành vi là sự biểu hiện của các hiện tượng tâm lý thông qua các thao tác, các hoạt động cụ thể góp phần đáp ứng và làm thỏa mãn nhu cầu của con người.

Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh và thậm chí ngay cả với chính bản thân họ. Hành vi ứng xử văn hóa là kết quả của quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, niềm tin của con người trong quá trình sống, học tập và lao động. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội.

Ứng xử là thể hiện thái độ, hành động thích hợp trước những việc có quan hệ giữa mình với người khác. Là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau.

Những chủ thể (con người) tham gia trong hoạt động giao thông đường bộ:

1) Người tham gia giao thông gồm: Người điều khiển phương tiện, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; Người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ; Người điều khiển phương tiện gồm: người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới. Hành khách là người được chở trên phương tiện vận tải hành khách đường bộ, có trả tiền.

2) Người điều khiển giao thông: Là cảnh sát giao thông. Người được giao nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông, ở bến phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.

3) Người làm công tác quản lý, khai thác hạ tầng giao thông và thanh tra giao thông: Đảm bảo và duy trình khả năng khai thác của hạ tầng giao thông an toàn và đúng quy đinh. Như người quản lý đường hay tuần kiểm viên… thanh tra giao thông.

Văn hóa giao thông được thể hiện qua biểu hiện văn hóa trong các hành vi của các chủ thể nói trên.

Hành vi có văn hóa của người tham gia giao thông được thể hiện ở các nội dung sau:

– Thứ nhất, thể hiện sự hiểu biết nội dung quy định của pháp luật (Luật, nghị định, thông tư…) về loại hình giao thông mà mình tham gia. Giới thiệu, phổ biến cho người thân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen biết khác về những quy định của các văn bản, quy định nêu trên. Thường xuyên cập nhật và nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật giao thông.

– Thứ hai, hiểu đúng, tuân thủ báo hiệu khi tham gia hoạt động giao thông. Hướng dẫn những người cùng tham gia giao thông với mình hiểu, hiểu đúng và tuân thủ báo hiệu giao thông. Thông báo cho cảnh sát giao thông, người quản lý giao thông về những sai sót, khiếm khuyết, chất lượng của báo hiệu (nếu có). Cảnh báo cho người tham gia giao thông khác không rơi vào “bẫy” do lỗi của hệ thống báo hiệu, để vô tình trở thành người vi phạm Luật giao thông. Kiên trì bảo vệ quan điểm của mình khi bị cảnh sát giao thông phạt nếu lỗi do báo biệu giao thông không đúng hoặc không đúng hoàn toàn và kiến nghị CSGT phải có ý kiến với cơ quan quản lý hạ tầng.

– Thứ ba, sử dụng và điều khiển phương tiện an toàn. Có trình độ và kỹ năng sử dụng phương tiện giao thông (đã qua đào tạo tại các sơ sở uy tín và có bằng). Không sử dụng phương tiện không an toàn (kể cả đã đăng kiểm). Thông báo cho người cùng tham gia giao thông về tình trạng mất an toàn nếu có. Giới thiệu và hướng dẫn cho người khác sử dụng phương tiện an toàn. Không tham gia hoạt động mua bán bằng lái xe, hối lộ đăng kiểm.

– Thứ tư, sử dụng hạ tầng giao thông an toàn. Sử dụng đúng làn đường, không vượt quá tốc độ quy định và đi với tốc độ phù hợp với điều kiện đường và thông tin có được về tuyến đường. Khi chuyển làn, chuyển hướng và dừng đỗ phải có tín hiệu theo quy định, không đột ngột và lựa chọn phần xe chạy an toàn để thực hiện hành động này. Không hoặc hạn chế đi vào những đoạn đường có nguy cơ tiềm ẩn cao về tai nạn giao thông. Thông báo cho người cùng tham gia giao thông, cơ quan quản lý giao thông, cảnh sát giao thông về sự hỏng hóc, không an toàn của hạ tầng giao thông.

– Thứ năm, phối hợp với người điều khiển giao thông, cơ quan quản lý giao thông và những người tham gia giao thông khác thực hiện nhiệm vụ đảm bảo giao thông thông suốt và an toàn.

Hành vi có văn hóa của người điều khiển giao thông được thể hiện ở các nội dung sau:

– Chấp hành đúng điều lệnh, tác phong người chiến sỹ công an nhân.

– Tập trung vào nhiệm vụ hướng dẫn giao thông cho người tham gia giao thông hơn tập trung xử phạt vi phạm giao thông.

– Kiên quyết xử phạt nặng nhất với các đối tượng có hành vi cố tình vi phạm giao thông.

– Hướng dẫn và giáo dục tại chỗ đối với người không cố ý vi phạm giao thông.

– Thông báo các vi phạm của người tham gia giao thông về địa phương và cơ quan với người tham gia giao thông vi phạm ( cả cố tình và vô tình).

– Tiếp thu các ý kiến, thông báo của người tham gia giao thông về sự cố giao thông.

– Thông báo cho cơ quan quản lý và khai thác hạ tầng về sự cố, bất cập của hạ tầng giao thông.

– Đối với cán bộ làm công tác điều khiển giao thông của các đơn vị thi công nâng cấp cải tạo, bảo trì trên đường đang khai thác cần

Hành vi có văn hóa của người làm công tác quản lý, khai thác hạ tầng giao thông và thanh tra giao thông được thể hiện ở các nội dung sau:

– Thường xuyên tuần tra, kiểm tra nhằm phát hiện sự cố hỏng hóc, bất cập của hạ tầng có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động giao thông và an toàn đối với người tham gia giao thông.

– Sửa chữa kịp thời các hỏng hóc, bất cập của hạ tầng giao thông tạo điều kiện cho người tham gia giao thông thực hiện hành vi giao thông thuận tiện và an toàn.

– Thanh tra các trường hợp vi phạm và xử phạt nghiêm minh.

– Phối hợp với cho cảnh sát giao thông để xử lý về sự cố, bất cập của hạ tầng để phối hợp hướng dẫn cho người tham gia giao thông được giao thông thuận tiện và an toàn.

2.2. Văn hoá giao thông hiện nay ở Việt Nam

Trong 9 tháng đầu năm 2012, lực lượng cảnh sát giao thông đường bộ toàn quốc đã kiểm tra, lập biên bản gần 5,2 triệu trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông; kho bạc Nhà nước thu 1.668,4 tỷ đồng; tạm giữ 19.091 xe ôtô, 467.865 xe môtô.

Theo phân tích, các hành vi vi phạm của người tham gia giao thông chủ yếu tập trung ở các lỗi vi phạm như chở quá tải; đón, trả khách không đúng nơi quy định; không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy trên đường. Đặc biệt là vi phạm tốc độ; đi không đúng làn đường, tránh, vượt sai, sử dụng rượu, bia thường dẫn đến xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng.

Thực tế ở nhiều nơi, ý thức tự giác chấp hành luật giao thông của người tham gia giao thông cũng chưa cao, có cảnh sát thì người tham gia giao thông chấp hành nghiêm vì sợ bị xử phạt, không có cảnh sát thì không chấp hành mặc dù có tín hiệu đèn giao thông. Trong khi thực tế cảnh sát giao thông cũng không thể bố trí thường xuyên trên tất cả các tuyến, địa bàn để giám sát và xử phạt.

Thêm vào đó, tâm lý đôi khi người điều khiển phương tiện muốn đi nhanh do việc gấp, hay “vui một tý” bằng bia, rượu của người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tham gia giao thông của họ.

Nhìn vào số liệu phân tích tai nạn giao thông 6 tháng đầu năm 2012, tai nạn giao thông do người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới vi phạm đi không đúng phần đường, làn đường chiếm 27,8%; vi phạm tốc độ chiếm 15,1%; vi phạm nồng độ cồn chiếm 4,7% tổng số vụ tai nạn giao thông xảy ra…

Thực tế cho thấy, những người tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm; những người chưa đủ tuổi đi xe gắn máy chở ba – chở bốn ngang nhiên vượt đèn đỏ; đi sai phần đường; đỗ xe không đúng qui định; hành vi uống rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu; đi vào đường một chiều, đường cấm, bóp còi inh ỏi; phương tiện cũ kỹ, hàng hóa chở cồng kềnh; xe buýt tranh giành khách, chở quá số người qui định, chạy quá tốc độ, lên xe khách là chen chúc, xô lấn nhau để tranh chỗ ngồi tốt, móc túi, nói tục, chửi bậy; taxi phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn nhiều và còn xuất hiện những cuộc đua xe với tốc độ cao bất chấp cảnh sát giao thông và người đi đường để lạng lách, đánh võng; đinh tặc vẫn xảy ra thường xuyên… . Đây không đơn thuần là sự yếu kém về văn hóa giao thông mà thực sự là sự suy thoái đạo đức trong văn hóa ứng xử giữa người với người.

Bức tranh Văn hoá giao thông Việt Nam thời kỳ hội nhập rất đa dạng, phong phú, có mặt tích cực và cả mặt tiêu cực (mặt tiêu cực có phần nổi bật hơn). Tìm hiểu vấn đề Văn hoá giao thông ở Việt Nam cần phải có một cái nhìn toàn diện.

Giao thông đô thị ở Việt Nam, nhất là ở những đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… rất dễ nhận ra những hành vi thiếu ý thức, kém văn hoá khi tham gia giao thông như: học sinh không có giấy phép lái xe vẫn sử dụng xe máy; không thắt dây an toàn khi đi xe ôtô; dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe không đúng quy định; đi xe búyt không nhường ghế cho người già, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai, người tàn tật; phóng nhanh; vượt ẩu; đi vào đường ngược chiều; uống rượu, bia trước khi điều khiển phương tiện cơ giới; không có tín hiệu xin đường khi chuyển làn chuyển hướng; không đi đúng phần đường của loại phương tiện điều khiển; đi xe quá tốc độ cho phép; vượt đèn đỏ; lạng lách; không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm mang tính chất đối phó; kẹp ba, kẹp bốn… thậm chí có trường hợp kẹp tám trên xe máy; vừa điều khiển phương tiện giao thông vừa nghe điện thoại, nghe nhạc; làm xiếc khi đi xe máy như đi xe máy một bánh; rúc còi inh ỏi; đua xe trái phép; vượt qua đường sắt khi tàu sắp tới, hành hung cảnh sát giao thông khi bị dừng xe vì vi phạm luật lệ giao thông… Đặc biệt nghiêm trọng là nạn rải đinh trên đường, nhất là đường Pháp Vân – Cầu Giẽ ( Hà Nội), trên đoạn đường Bình Dương ( Thị xã Thủ Dầu Một) và một số tỉnh thành khác; nạn trộm cắp nguyên vật liệu của cơ sở hạ tầng giao thông như nắp hố ga, dây cáp đèn đường…

2.4. Giải pháp xây dựng Văn hoá giao thông ở Việt Nam

Chỉ một va chạm nhỏ trên đường phố, thay vì xin lỗi, cảm ơn…thì người ta quay ra cãi lộn, đánh đấm nhau thậm chí rượt đuổi đâm chém, bắn nhau dẫn đến tử vong.

Ở Việt Nam hiện còn tồn tại rất nhiều hành vi gây cản trở giao thông như họp chợ, buôn bán trái phép, lấn chiếm lòng đường, vỉa hè; Mang vật liệu cồng kềnh quá giới hạn cho phép, gây cản trở tầm nhìn và tầm hoạt động cho các phương tiện khác; Đi bộ sai đường không đúng vạch vôi quy định; Tụ tập đông người dưới lòng đường, vỉa hè trước cửa trường học, bệnh viện,

Theo quan điểm của tác giả cần có những giải pháp cụ thể và bám sát thực tế:

– Xây dựng các phương án tổ chức giao thông hợp lý, phù hợp với điều kiện hạ tầng và lưu lượng, thành phần tham gia giao thông.

– Xây dựng hệ thống báo hiệu đường bộ trong tổ chức giao thông phải rõ ràng thân thiện và thuận tiện với người tham gia giao thông. Tạo điều kiện cho người tham gia giao thông tiếp cận và tuân thủ dễ dàng phương án tổ chức giao thông và người điều khiển giao thông.

– Tiếp tục xây mới, nâng cấp hạ tầng giao thông đường bộ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế, đồng thời xây dựng và phát triển hệ thống vận tải công cộng.

– Khuyến khích người tham gia giao thông sử dụng phương tiện vận tải công cỗng nhằm định hình tính cộng đồng trong ý thức của họ.

– Giáo dục văn hóa và đạo đức của người điều khiển phương tiện thông qua các khóa đào tạo lái xe.

– Công tác tuyên truyền về điều kiện giao thông trên các tuyến đường, tuyến phố và phương án tổ chức giao thông nhằm giúp người tham gia giao thông có được thông tin nhất định trong việc tham gia giao thông.

– Tăng cường công tác hướng dẫn việc giao thông cho người tham gia giao thông. Tăng cường công tác kiểm tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm người cố tình vi phạm trật tự ATGT. Tăng cường sử dụng các công nghệ hiện đại và thông minh như camera, hộp đen giám sát hành trình phương tiện đường dài. Thu tiền phạt tự động qua thẻ, tài khoản ngân hàng…

Quan trọng là xử phạt nghiêm đối với các trường hợp cố tình vi phạm. Đối với các trường hợp vô tình vi phạm thì cần nhắc nhở hướng dẫn không nên nặng về xử phạt. Bổ sung các biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm về trật tự ATGT mang tính nghiêm trọng như thu hồi vĩnh viễn giấy phép lái xe, tạm giữ phương tiện, truy tố trước pháp luật, xét xử công khai nơi công cộng để răn đe, giáo dục các đối tượng khác…

– Tích cực và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá của một bộ phận công chức, viên chức tham gia điều hành, quản lý hệ thống giao thông để tạo ra môi trường văn hoá giao thông trong sạch, an toàn.

Hiện có nhiều quan niệm về Văn hóa giao thông với sự khác biệt lớn. Do vậy việc xây dựng và hình thành văn hóa giao thông sẽ có nhiều phương thức và kết quả là khác nhau. Chính vì vậy việc thống nhất quan niệm về văn hóa giao thông là rất cần thiết.

Tình trạng bất cập về văn hóa giao thông thấp một phần là do có quá nhiều phương tiện cá nhân, thiếu hụt giao thông công cộng. Bản thân người tham gia giao thông sử dụng các phương tiện vận tải hành khách công công sẽ có ý thức cộng đồng cao hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Xây dựng “Văn hóa giao thông” được coi như một giải pháp hữu hiệu vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài nhằm tạo dựng một môi trường giao thông thân thiện, trong đó các chủ thể cùng phối hợp giải quyết những vấn đề giao thông nhằm hạn chế tai nạn, ùn tắc, nâng cao khả năng thông hành trong bối cảnh hạ tầng giao thông còn yếu kém, bất cập.

Cần nghiên cứu cơ sở hình thành hành vi của người tham gia giao thông trên sơ sở tâm sinh lý của con người Việt Nam nhằm xây dựng các giải pháp về văn hóa giao thông đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện đặc thù ở Việt Nam. ■

[1]. Đào tạo tư vấn thẩm tra ATGT đường bộ, 2009, TS. Đào Huy Hoàng.

[2]. Tài liệu đào tạo thẩm tra ATGT Đương bộ, 2012, Trung tâm ĐT&TT – Viện Khoa học và Công nghệ GTVT.

[3] Tài liệu Hội nghị Quốc tế về ATGT tại Việt Nam năm 2012, Ủy ban ATGT Quốc gia

Một Số Khái Niệm Cơ Bản Của Luật Giao Thông Đường Bộ

– Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ.

– Công trình đường bộ gồm đường bộ, nơi dừng xe, đỗ xe trên đường, hệ thống thoát nước, đèn tín hiệu, cọc tiêu, biển báo hiệu, dải phân cách và công trình, thiết bị phụ trợ khác.

– Đất của đường bộ là phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng.

– Hành lang an toàn đường bộ là dải đất dọc hai bên đường để bảo đảm an toàn giao thông và bảo vệ công trình đường bộ.

– Phần đường xe chạy là phần của đường bộ được sử dụng cho các phương tiện giao thông qua lại.

– Làn đường là một phần của phần đường xe chạy được chia theo chiều dọc của đường, có bề rộng đủ cho xe chạy an toàn.

– Khổ giới hạn của đường bộ là khoảng trống có kích thước giới hạn về chiều cao, chiều rộng của đường, cầu, hầm trên đường bộ để các xe kể cả hàng hoá xếp trên xe đi qua được an toàn.

– Đường phố là đường bộ trong đô thị gồm lòng đường và hè phố.

– Dải phân cách là bộ phận của đường để phân chia mặt đường thành hai chiều xe chạy riêng biệt hoặc để phân chia phần đường của xe cơ giới và xe thô sơ. Dải phân cách gồm loại cố định và loại di động.

– Đường cao tốc là đường chỉ dành cho xe cơ giới chạy với tốc độ cao, có dải phân cách chia đường cho xe chạy theo hai chiều ngược nhau riêng biệt và không giao cắt cùng mức với đường khác.

– Bảo trì đường bộ là thực hiện các công việc bảo dưỡng và sửa chữa nhằm duy trì tiêu chuẩn kỹ thuật của đường đang khai thác.

– Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ.

– Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.

– Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm các loại xe không di chuyển bằng sức động cơ như xe đạp, xe xích lô, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.

– Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp có tham gia giao thông đường bộ.

– Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng.

– Người tham gia giao thông đường bộ gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ.

– Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia GTĐB.

– Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới.

– Người điều khiển giao thông là cảnh sát giao thông hoặc người được giao nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông, ở bến phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.

– Hàng nguy hiểm là hàng khi chở trên đường có khả năng gây nguy hại tới tính mạng, sức khỏe con người, môi trường, an toàn và an ninh quốc gia.

– Tai nạn giao thông (TNGT) là sự việc bất ngờ xảy ra khi đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng khác do vi phạm các quy định về an toàn giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất không kịp phòng tránh gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người, đến tài sản và phương tiện.

Theo mức độ thiệt hại trong các vụ tai nạn, người ta chia TNGT thành các loại: va chạm giao thông; tai nạn giao thông ít nghiêm trọng, tai nạn giao thông nghiêm trọng, tai nạn giao thông rất nghiêm trọng và tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng.

– Điểm đen tai nạn giao thông trên tuyến đường bộ là những vị trí nguy hiểm (có thể là nút giao thông cùng mức hoặc đoạn đường bộ có chiều dài dưới 500m) thường xảy ra tai nạn giao thông cao hơn mức bình thường và có tính chất tương đối giống nhau trong khoảng thời gian nhất định.

Phản hồi từ khách hàng

Tin cùng chuyên mục

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bàn Về Khái Niệm Tai Nạn Giao Thông Đường Bộ Ở Việt Nam trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!