Đề Xuất 3/2023 # Chân Lý (Truth) Là Gì? Ý Nghĩa Của Chân Lý Trong Cuộc Sống # Top 11 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 3/2023 # Chân Lý (Truth) Là Gì? Ý Nghĩa Của Chân Lý Trong Cuộc Sống # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Chân Lý (Truth) Là Gì? Ý Nghĩa Của Chân Lý Trong Cuộc Sống mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trong cuộc sống, chúng ta luôn phấn đấu để hướng tới những điều tốt đẹp. Hay nói cách khác, con người không ngừng cải thiện bản thân để hành động vì mục đích chân lý. Chân lý là gì? Tại sao yếu tố này lại có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của chúng ta như vậy?

Chân lý là gì?

Hiểu 1 cách chính xác, chân lý (Truth) là những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan. Sự phù hợp của những tri thức này đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Chẳng hạn, Trái Đất quay quanh mặt trời; mặt trời mọc ở đằng Đông, lặn ở đằng Tây,… đều là những chân lý có cơ sở. Người ta đã chứng minh những nhận định kể trên là chính xác, phù hợp với thực tiễn.Mọi chân lý đều có tính khách quan và cụ thể. Có nghĩa là, những chân lý được tìm ra đều phù hợp với thực tại trên góc độ khách quan. Không thể dựa vào ý kiến chủ quan để kết luận chân lý.

Mỗi chân lý đều rất cụ thể, vì chúng phản ánh sự vật, hiện tượng trong điều kiện không gian, thời gian xác định. Các điều kiện này cũng chính là cơ sở để chỉ ra sự phù hợp của chân lý với thực tiễn.Chân lý thường tồn tại ở dạng tương đối và tuyệt đối. Chân lý tương đối chưa phản ánh đầy đủ thực tại khách quan, trong khi đó, chân lý tuyệt đối lại phản ánh đầy đủ.

Ý nghĩa của chân lý trong cuộc sống

Chân lý đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống khoa học, xã hội cũng như đối với cá nhân mỗi người.

Chân lý hỗ trợ con người thực hiện hoạt động thành công, hiệu quả

Chân lý là những điều đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Do đó, con người có thể ứng dụng những chân lý đó trong những lĩnh vực cuộc sống. Đây là chìa khoá giúp chúng ta dễ đạt được thành công và sự hiệu quả cao hơn.

Chân lý góp phần phát triển thực tiễn

Chân lý và thực tiễn gắn liền với nhau. Giữa 2 khái niệm này có sự liên kết chặt chẽ. Vì thế, chân lý phát triển nhờ thực tiễn và ngược lại. Muốn thúc đẩy thực tiễn phát triển tích cực theo thời gian, không thể bỏ qua yếu tố chân lý.

Chân lý là cốt lõi phát triển tri thức, nhân cách con người

Nếu như thái độ, hành vi của con người được xây dựng dựa trên chân lý, thì tri thức, nhân cách của họ cũng sẽ phát triển theo hướng tích cực. Tất nhiên, điều này còn tuỳ thuộc vào mức độ vận dụng của mỗi người.

Chân lý là những tri thức phù hợp với thực tiễn, đã được chứng minh, kiểm nghiệm. Tuy nhiên, vẫn có những thành phần bác bỏ hoặc không công nhận chân lý. Điều này đi ngược lại quy luật thực tiễn, kìm hãm sự phát triển của khoa học – xã hội.

Vì thế, bảo vệ chân lý như là cách để bảo vệ công trình nghiên cứu, kiểm nghiệm, phát triển chân lý trong thực tiễn của con người.

Chân lý trở thành kim chỉ nam cho thái độ sống, hành vi của mỗi con người trong cuộc sống. Vì thế, hiểu được chân lý là gì cũng như không ngừng theo đuổi để bảo vệ lẽ phải là mấu chốt cốt lõi mà con người nên hướng đến. Hi vọng, bạn cũng sẽ tìm được con đường riêng để theo đuổi và bảo vệ chân lý của mình.

Concept là gì? Gợi ý cách lên concept hay

Thực dụng là gì? Người thực dụng là người thế nào?…

Nhân văn (Humanities) là gì? Làm sao để nhân văn? Ý…

Chân Lý Là Gì? Chân Lý Có Những Tính Chất Chung Nào? Thế Nào Là Chân Lý Tương Đối Và Chân Lý Tuyệt Đối? Chân Lý Có Vai Trò Gì Đối Với Thực Tiễn?

– Khái niệm chân lý

Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm chân lý dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.

Ví dụ, hiểu biết sau đây là một chân lý: “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”.

– Các tính chất của chân lý

Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

+ Tính khách quan của chân lý là nói: tính phù hợp nữa tri thức và thực tại khách quan; không phụ thuộc ý chí chủ quan.

Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “quả đất có hình cầu chứ không phải hình vuông” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn năm trước thời Phục hưng.

+ Tính cụ thể của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,…).

Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều kiện xác định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,…

+ Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất dịnh, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tại khách quan.

Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt đối bằng 2 vuông (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có độ cong khác 0) thì định lý đó không còn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới (sự phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn – tức chân lý tuyệt đối).

– Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan; còn chân lý tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý tuyệt đối chính là tổng số của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại.

Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt.

– Vai trò của chân lý đối với thực tiễn

Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn. Đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quantrong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.

Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con ngưòi cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.

Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.

chúng tôi

Nhận Thức Về Chân Lý Trong Phật Giáo

NSGN – Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật. Thực sự, đây là vấn đề bận tâm nhất của Phật. Trong kinh điển, chúng ta thường thấy xuất hiện nhiều từ ngữ như sacca, yathābhūtam, bhūtaṃ, tacchaṃ atthasaṃhitaṃ, tatva, tathatā, dharmatā… là để nói về chân lý, hay sự thật, hay những gì phù hợp với thực tế.

Ngoài ra, Đức Phật còn cho thấy Ngài đã vận dụng rất nhiều phương cách (phương tiện, cách nói) nhằm diễn đạt chân lý. Ngài từng nói rằng chân lý mà Ngài chứng ngộ là rất vi diệu, cao siêu, tịch tịnh, khó thấy, khó hiểu, chỉ có bậc Thánh mới thấu hiểu. 1 Do vậy, Đức Phật từng do dự trong việc thuyết giảng giáo pháp sau khi chứng ngộ và có ý định nhập Niết-bàn vì nhận thấy rằng không có ai đủ khả năng lĩnh hội chân lý đó. Ngài nói rằng những vị đạo sư từng hướng dẫn cho Ngài trước đó có thể lĩnh hội được thì đều đã qua đời.

Tuy nhiên, sau khoảng thời gian do dự, Ngài dùng tuệ nhãn để quan sát và nhận thấy rằng có những chúng sanh có trí tuệ, ít phiền não nghiệp chướng có thể lĩnh hội giáo lý đó, nhưng phải bằng phương tiện khéo léo giảng nói họ mới có thể hiểu được. Liền sau đó Đức Phật đã quyết định giảng dạy chân lý mà Ngài đã chứng ngộ sau nhiều lần thỉnh cầu của Phạm thiên. Sự kiện này được nêu rõ trong nhiều kinh điển từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa.

Theo đó, chân lý mà Đức Phật giảng dạy là như thế nào và liệu người đời sau có hiểu sai hay giải thích sai lời dạy của Ngài hay không? Đây là vấn đề đã tạo ra rất nhiều thắc mắc cho người nghiên cứu. Nhiều người khi mới tìm hiểu đạo Phật đã vội vã cho rằng kinh điển đạo Phật thật là rối rắm, khó hiểu, nhiều mâu thuẫn, thiếu nhất quán… Bởi lẽ, có khi Đức Phật nói có nhân có ngã, khi lại nói là vô nhân vô ngã; khi thì nói các pháp hiện hữu, khi lại dạy là không hiện hữu v.v… Điều đó đã tạo ra rất nhiều nhầm lẫn cho người học Phật vì họ không hiểu được mục đích sử dụng giáo pháp của Phật. Thật ra, Đức Phật đã tùy vào khả năng của từng đối tượng nghe pháp để giảng dạy cho phù hợp.

Chính vì lẽ đó mà trong kinh chúng ta thường thấy Đức Phật dùng nhiều ngôn từ, thí dụ, ẩn dụ, so sánh, đối chiếu, quy nạp, loại suy, hoặc là các trạng thái tâm giải thoát khác nhau để giải thích về chân lý. Tuy vậy, chính Đức Phật đã nói trong kinh Tập rằng chân lý chỉ có một và chánh kiến là phương tiện để nhận biết về chân lý đó. Tuy nhiên, ở nơi khác, ta lại thấy Ngài nói chân lý có hai (Nhị đế), có bốn (Tứ đế), rồi các trường phái nói có ba (Duy thức, Trung quán), cho đến nhiều chân lý (như 10 chân lý trong Bồ-tát địa luận của ngài Vô Trước) 2.

Ảnh: Đinh Quang Trung

Như vậy làm sao để hiểu được chân lý như được giải thích theo nhiều cách thức như thế? Thực sự, vấn đề nhận thức chân lý trong đạo Phật là một trong những vấn đề phức tạp nhất, bởi vì giáo lý đạo Phật không phải là nền tảng giáo điều đóng khung cái nhận thức của chúng ta, cũng không phải là sự cứng nhắc trong cách lý giải. Bởi lẽ, không có một chân lý cố định nào để giải thích cho các vấn đề thế gian vốn vô thường, giả tạm, sai biệt và không thật!

Chân lý là sự thật phù hợp với điều kiện thực tế

Đức Phật dạy rằng tri thức đúng đắn về thực tại là chân lý và trí tuệ là để nhận biết sự vật đúng như thật. Một tuyên bố được cho là thật khi nó phù hợp với điều kiện thực tế, bởi vì điều kiện thực tế là đối tượng của tri thức nhận lãnh. Từ ngữ Sanskrit biểu thị cho ý nghĩa đó là yathābhūtam. Kinh Trường bộ nói rằng, hễ điều gì được cho là yathābhūtam thì điều đó phải là chân thật và tương ứng với thực tại ( bhūta). 3 Do đó, tri thức về sự vật hiện tượng đúng như thật bao gồm việc nhận thức rằng, “Những gì hiện hữu thì cho là hiện hữu và những gì không hiện hữu thì cho là không hiện hữu”. 4 Nhận thức này cũng xuất phát từ kinh Apaṇṇaka:

Khi sự thật là có một thế giới khác, và niềm tin khởi lên trong ta là không có một thế giới khác, thì đó là một niềm tin sai lạc; khi mà thực tế có một thế giới khác, và niềm tin khởi lên trong ta là có một thế giới khác, thì đó là một niềm tin chân thật.5

Kinh Pháp cú cũng nói rằng:

Những gì không thật mà cho là chân thật, những gì chân thật mà cho là không thật, thì đó là tư duy và hành động sai lầm, và vì vậy mà những người này không thể đạt đến chân thật. Những gì chân thật thì cho là chân thật, những gì không thật thì cho là không thật, thì đó là tư duy và hành động chính xác, và vì vậy mà những người này có thể đạt đến chân thật.6

Ngoài ra, Đức Phật cũng nói trong kinh Tương ưng bộ rằng:

Này các Tỳ-kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Tại sao vậy? Này các Tỳ-kheo, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời. Cái gì người có trí ở đời chấp nhận là “có”, Ta cũng nói là “có”; cái gì người có trí ở đời chấp nhận là “không”, Ta cũng nói là “không”. Đó là, người trí ở đời chấp nhận sắc là vô thường, không thường hằng, không thường trú, chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là “có”; người có trí ở đời không chấp nhận sắc là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là “không”.7

Đức Phật cho biết rằng việc nhận biết sự vật đúng như thật là sự nhận biết cao nhất. Tất cả những gì Đức Phật dạy đều là thực tại như thật. Ngài nói rằng dù Như Lai có thuyết giảng hay không thuyết giảng giáo pháp cho các đệ tử thì giáo pháp ấy vẫn y như vậy. 8 Chẳng hạn như, chân lý ở đời là sự thật về khổ, và đó là chân lý, bởi vì Đức Phật chỉ muốn nói lên sự thật mà thôi. Khổ là sự thật rõ ràng và hiển nhiên không chối cãi được; do đó cần phải nhận thức rõ ràng sự thật đó để có giải pháp đoạn trừ.

Cần hiểu rằng, khổ là sự thật nên mới gọi là chân lý, chứ không phải khổ là chân lý để cần phải đạt được chân lý đó, và cần phải tu tập và thể nghiệm nó. Hơn nữa, khi Đức Phật nói sự thật về khổ, Ngài cũng nói sự thật về nguồn gốc của khổ, sự thật về sự diệt khổ và sự thật về con đường đưa đến sự diệt khổ, đó chính là Tứ Thánh đế hay còn gọi là Bốn chân lý, Bốn sự thật.

Tuy nhiên, các nhà Phật học không cho rằng Phật giáo Nguyên thủy chủ trương học thuyết về chân lý chỉ như những gì phù hợp với điều kiện thực tế (pragmatic theory of truth), vì điều này thực sự không thỏa mãn được các vấn đề đặt ra về chân lý.

Chân lý là logic và nhất quán

Dĩ nhiên chân lý là phải logic, nhất quán, và không chống trái. Tuy nhiên, tính chất nhất quán lại chưa đủ để tạo thành chân lý. Đó chỉ là yếu tố cần cho việc phán đoán một điều gì đó là đúng sự thật nhưng chưa phải là điều kiện đủ; bởi lẽ, thực tế là có những điều nhất quán, hợp lý nhưng lại không đúng sự thật (vì tiền đề của nó là sai và không đưa đến mục tiêu thiết thực lợi ích). Đây là lý do khiến Đức Phật phản bác những lý thuyết chỉ dựa vào lập luận đơn thuần không thỏa mãn mục đích thực tế. Bởi vì lý luận có thể có giá trị hay vô giá trị, thậm chí là có giá trị đi nữa như trong ý nghĩa của sự nhất quán nội tại, thì nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với thực tế. Đây cũng là ý nghĩa của bài kinh Sandaka trong Trung bộ kinh, nơi mà Đức Phật đã bác bỏ các lập luận có vẻ logic của những giáo điều chỉ dựa trên cơ sở lập luận và tự biện đơn thuần.

Ngoài ra, một yếu tố căn bản khác mà Đức Phật luôn quan tâm đó là sự nhất quán giữa lời nói và hành động. Ngài chỉ trích những đạo sư, nhà ngoại đạo, nhà tranh luận nói và làm không hợp nhất, trước sau không giống nhau, ngụy biện, quanh co với mục đích tự khen mình chê người để thu hút quần chúng. 9 Đây cũng chính là lý do tại sao Ngài tuyên bố rằng: “Ta làm những gì Ta giảng nói và giảng nói những gì Ta làm” (tri hành hợp nhất), 10 và Ngài cũng mong muốn đệ tử của mình hãy thực hành y như Ngài.

Đức Phật đưa ra ví dụ rằng, nếu như Ta thuyết giảng những gì chống lại điều ác của việc uống rượu mà Ta lại đi uống rượu thì rõ ràng là Ta đã không chứng minh đầy đủ sự thật về những gì Ta nói. Vì vậy, nếu ai đó khẳng định một tuyên bố là sự thật nhưng hành động như thể nó là sai hay chỉ đúng một phần thì hành động đó được xem là mâu thuẫn với tuyên bố đã đặt ra.

Mặc dù tính nhất quán là đặc điểm xuyên suốt trong kinh điển Nikāya, song các học giả không cho rằng Phật giáo Nguyên thủy tin vào lý thuyết thực tiễn về chân lý (pragmatist theory of truth). 11

Chân lý là tính thiết thực lợi ích

Tính chất nhất quán của chân lý được thực nghiệm bằng tri thức thực chứng trong lời dạy của Đức Phật được cho thấy là phổ biến và xuyên suốt, nhưng Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng sẽ là sai nếu điều đó không đưa đến việc đoạn trừ khổ đau.

Trong kinh Vương tử vô úy ( Abhayarājakumāra), Đức Phật cho biết rằng, “Như Lai không nói một lời mà Ngài biết là không thật, sai lầm, vô ích, và khó chịu đối với người khác. Ngài cũng không nói một lời mà Ngài biết là thật, hiện hữu, nhưng vô ích, khó chịu và không ưa thích đối với người khác. Đức Phật tuyên bố đúng lúc một lời mà Ngài biết là thật, hiện hữu, có ích, nhưng khó chịu và không ưa thích đối với người khác. Ngài không tuyên bố một lời mà Ngài biết là không thật, sai lầm, vô ích, nhưng thích thú và dễ chịu đối với người khác. Đức Phật cũng không nói một lời mà Ngài biết là thật, hiện hữu, vô ích, nhưng thích thú và dễ chịu đối với người khác. Đức Phật tuyên bố đúng thời một tuyên bố mà Ngài biết là thật, hiện hữu, có ích, thích thú và dễ chịu đối với mọi người.” 12

Như vậy, trong đoạn văn trên, chúng ta thấy tuyên bố được liệt kê theo mối liên hệ giữa chân lý và giá trị của chúng, giữa có ích và vô ích, giữa ưa thích và không ưa thích. Chúng có 6 loại như sau:

1. Không thật, sai lầm, vô ích, và khó chịu đối với người khác.

2. Thật, hiện hữu, nhưng vô ích, và khó chịu đối với người khác.

3. Thật, hiện hữu, lợi ích, nhưng khó chịu đối với người khác.

4. Không thật, không hiện hữu, vô ích, nhưng dễ chịu đối với người khác.

5. Thật, hiện hữu, nhưng vô ích, và dễ chịu đối với người khác.

6. Thật, hiện hữu, lợi ích, và dễ chịu và ưa thích đối với người khác.

Ở đây chúng ta thấy rằng Đức Phật chỉ tuyên bố điều thứ 3 và thứ 6 khi đúng thời đúng lúc, và những điều đó là thật, lợi ích, được chấp thuận và đưa đến an lạc cho mọi người. Như vậy, có ba điều kiện mà Phật nói ra là: 1. Đúng sự thật; 2. Đúng thời; 3. Lợi ích, (nghĩa là, có nhắm đến một mục đích nào đó, ví dụ cảm hóa người nghe), dù người nghe có ưa thích hay không ưa thích, có dễ chịu hay khó chịu.

Giáo lý được cho là thực tiễn này xuất phát từ trong nhiều kinh điển mà Phật nói ra; như kinh Malunkyaputta kể ví dụ về một người bị trúng mũi tên độc, hay những câu hỏi siêu hình thuần lý thuyết không được Phật trả lời, hay là kiểm chứng sự thật (test of truth) trong kinh Kamala thuộc Tăng chi bộ, tất cả đều mang tính kiểm chứng cái tri thức thực nghiệm làm suối nguồn cho việc phát triển nhận thức đúng đắn.

Ví dụ, một đoạn trong kinh Kamala (kinh này tương ứng với kinh Canki thuộc Trung bộ) dạy rằng: “Đừng dựa trên những điều không đáng tin cậy như truyền thống, báo cáo, hay bởi những lời đồn đoán, bởi những điều quyền uy trong kinh điển tôn giáo, hay điều thuần túy lý luận; cũng đừng dựa trên sự tin cậy của nhiều người, cũng không phải vì sự kính trọng một vị thầy mà tin.” Thay vào đó, “Hãy tin tưởng những gì quan sát với sự kiểm chứng bằng kinh nghiệm và sự thực chứng, để tự mình xác định những gì là đúng sự thật, là thiện hay bất thiện”.

Kinh và luận cũng sử dụng rất nhiều phương pháp luận lý để vận dụng vai trò của nhận thức đúng đắn đối với nhận thức chân lý. Một trong những triết gia Phật học lừng danh thế kỷ thứ VI đã vận dụng vai trò của phương pháp luận lý đối với nhận thức đúng đắn là Pháp Xứng (Dharmakīrti) khi ngài viết trong tác phẩm Nyāya-bindu của mình rằng: “Mọi hành động thành công của con người đều mở đầu bằng nhận thức đúng đắn”. 14 Hay trong nhiều câu nói khác, Pháp Xứng cũng cho chúng ta thấy nhận thức luận Phật giáo rất gần gũi với thực tiễn và thực tại. Như Pháp Xứng nói rằng, “Bản chất của thực tại chính là tính hiệu năng” ( arthakriyākaritra). 15

Do đó, đối với các nhà Nhân minh học Phật giáo, sự hiện hữu, hiện hữu chân thật, hay hiện hữu rốt ráo không khác gì ngoài tính hiệu năng của nó. Theo họ, tính hiệu năng này mới là chân thật. Những gì không có tính hiệu năng thì không thật. Ví dụ, trí tưởng tượng hay cấu trúc của tư tưởng là không thật, không phải là thực tại rốt ráo. Ngài Pháp Thượng (Dharmottara), nhà sớ giải Nyāya-bindu, thì giải thích ‘ngọn lửa thực tại’ là ngọn lửa có thể đốt cháy, nấu chín thức ăn, thắp sáng; chứ ‘ngọn lửa tưởng tượng’, không thực tại, không thể đốt cháy, nấu chín và thắp sáng được.

Chân lý là hòn đảo tự thân hay ngọn đèn cho chính mình

Trong kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật dạy: “Hãy là hòn đảo tự thân, này Ananda! Hãy tự mình nương tựa chính mình; không nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm nơi nương tựa. Không nương tựa một gì khác.” Hay là, “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỳ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.” 16

Ngoài ra, Đức Phật còn nói rằng, không phải sau khi Như Lai qua đời thì hàng đệ tử được tự do và lời dạy của Như Lai trở thành quá khứ, mà chính những Pháp và Luật (Dhamma Vinaya) mà Như Lai đã giảng dạy chính là thầy của các chúng đệ tử. 17 Đức Phật do đó cũng khẳng định rằng, dù cho Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện thì Pháp ấy cũng y như vậy, tức là không có thay đổi. 18

Ngài xuất hiện ở đời là để giảng dạy, khai ngộ; mọi việc Như Lai đã làm xong nên Ngài vào Niết-bàn, rồi tự bản thân mỗi người hãy nương vào đó để tu tập, vì Ngài có ở đời hay không thì những gì cần nói Ngài đã nói hết. Ngài cũng không giấu giếm điều gì. Tư tưởng này đã xuất hiện rất nhiều trong kinh luận Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Phát triển, và các nhà Đại thừa sau này đã diễn dịch chữ Pháp này là Pháp tánh ( Dharmatā), Chân đế ( paramārthasatya), Chân như ( Tathatā), Bồ-đề ( Bodhi), Niết-bàn ( Nirvāṇa), và là mục đích tối hậu trong việc tu tập.

Có nhiều câu hỏi đặt ra đối với Đức Phật là tại sao có rất nhiều vị thầy ai cũng tự cho rằng chân lý của mình mới là đích thực, được Phật trả lời rằng: “Tất cả chân lý đều do nhận thức mà ra”. 19 Rồi Phật nói rằng “Chúng ta giới hạn thế giới chúng ta bởi tư tưởng”. 20 Lúc khác, có người hỏi Đức Phật định nghĩa thế nào là người hoàn hảo, Ngài trả lời: “Đó chính là người đã chiến thắng tham ái”, là “người đó không còn lo sợ thế giới đã bắt đầu như thế nào, cũng không lo về hiện tại được đặt để ra sao… Bậc Thánh an tịnh rõ ràng đã vượt qua thời gian”. 21

Chỗ khác thì nói rõ hơn: “Bậc Thánh đã giải thoát khỏi tất cả các kiến chấp, đã buông bỏ gánh nặng, và không còn bị thời gian chi phối nữa.” 22 Rồi thế nào là người thấy biết chân thật: “Người nào đã thấy chân lý, đã nhập vào chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy không còn do dự. Với trí tuệ chân chính, người ấy thấy đúng như thật (yathà bhùtam)”. 23 Từ những trích dẫn như vậy có thể thấy rằng, chân lý chính là sự tịnh lạc, tự tại giải thoát khỏi các kiến chấp, lỗi lầm của bậc Thánh.

Do vậy, những lời dạy của Đức Phật về ‘ngọn đèn’cho chính mình, là ‘hòn đảo tự thân’ là chỗ y cứ đáng tin cậy nhất, bởi vì chân lý chính là tự mình chứng ngộ và chiêm nghiệm lấy. Đây cũng là ý nghĩa của bài kinh Kamala như đã nói ở trên.

Chân lý là Trung đạo

Trung đạo là tránh hai cực đoan ‘thường hằng’ (eternalism/ sassatavāda) và ‘đoạn diệt’ (annihilationism/ ucchedavāda). Nhiều chân lý quan trọng trong Phật giáo được cho là nằm giữa hai thái cực này. Với một bên thì cho là ‘tất cả sự vật hiện hữu’ ( sabbaṃ atthi) là một thái cực ( eko anto), và bên kia thì khẳng định ‘tất cả sự vật không hiện hữu’ ( sabbaṃ natthi) là một thái cực khác. Do đó, Đức Phật đã giảng dạy chân lý phải tránh hai thái cực này, tức là chân lý nằm ở trung đạo ( majjhimā paṭipadā). 24 Trung đạo cũng là nội dung chính của bài kinh Chuyển Pháp luân được Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. 25 Nội dung kinh này nói về việc tránh xa hai cực đoan là khổ hạnh thân xác ( attakilamathānuyoga) và đắm say dục lạc ( kamasukhallikānuyoga). Cả hai thái cực này đều được Đức Phật khẳng định là không đem đến việc tìm thấy chân lý và giải thoát giác ngộ. Tránh hai cực đoan này là con đường đưa đến Trung đạo mà Đức Phật đã tu tập, đã chứng ngộ, khiến phát sanh trí tuệ, thấy biết chân thật, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Kế tiếp, Đức Phật nói về con đường Trung đạo, đó là Thánh đạo có tám phần, bao gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Con đường Trung đạo với Thánh đạo tám phần này là con đường duy nhất đưa đến việc nhận ra chân lý tối thượng.

Chân lý là Duyên khởi và Tánh không

Tánh không là thể tánh rốt ráo của tất cả sự vật hiện tượng. Thật vậy, tất cả sự vật hiện tượng được phân biệt đều không có thực thể hay thể tánh riêng biệt, do vì chúng được tạo thành từ các nhân và duyên. Các nhân duyên hợp lại nên có sự xuất hiện gọi là sanh. Khi các nhân duyên tan rã thì chúng không còn nữa nên gọi là diệt. Do đó, chúng không thật sanh mà cũng không thật diệt, vì các sự vật hiện tượng là vẫn y như vậy. Chúng chỉ là sự kết hợp và tan rã. Không có cái gì sanh ra mà cũng không có cái gì mất đi. Chúng chỉ là sự biến chuyển theo lý Duyên khởi. Sự vật sanh diệt như thế nên gọi là nhân duyên sanh và nhân duyên diệt. Tóm lại, chúng chỉ là sự vật do kết hợp mà thành nên xuất hiện như vậy chứ kỳ thực không có cái gì sanh ra cái gì.

Theo lý duyên sanh thì khi nhân duyên hòa hợp tạm gọi là sanh; khi nhân duyên phân ly tạm gọi là diệt. Sanh không thật sanh mà diệt không thật diệt. Trên bề mặt hiện tượng thì có sanh có diệt, nhưng về mặt bản thể thì không thật sanh diệt. Đây chính là ý nghĩa của lý Duyên khởi, là Tánh không, là Trung đạo mà giáo lý Trung quán đã nói rất rõ. Do đó mà chân lý còn được gọi là Tánh duyên khởi, hay Tánh không.

Tất cả các sự vật hiện tượng đều chuyển biến liên tục như thế nên không có cái gì tồn tại lâu dài và cố định cả nên gọi vô thường, là không, là vô ngã. Chúng không chỉ vô thường hoại diệt, mà là hoại diệt trong từng sát-na ( kṣaṇa), một khoảnh khắc ngắn nhất của thời gian!

Ngoài ra, khi phân tích sự vật hiện tượng, chúng ta không tìm thấy một tính chất cố định, tự thân của sự vật hiện tượng đó. Tánh không ở đây được hiểu là thể tánh không, không có tính chất cố định, độc lập, riêng biệt làm thể tánh riêng của từng sự vật hiện tượng. Ví dụ, con người là sự cấu tạo của Năm uẩn mà không có cái gọi là ta, của ta, hay tự ngã của ta. Một cái thùng gỗ khi chúng ta tháo gỡ các bộ phận của nó ra rồi đem làm thành một cái bàn, cái ghế, thì cái thùng gỗ sẽ không còn nữa. Nếu ai đó nhìn cái bàn, cái ghế đó mà cho đó là cái thùng gỗ thì người đó bị cho là nói sai sự thật. Tất cả các sự vật hiện tượng được thiết lập, được nhận biết đều do ý thức phân biệt tạo thành.

Chân lý là một hay nhiều?

Trong giáo lý Phật giáo Nguyên thủy, chân lý được cho là chỉ có một, không hai và sai khác. Đó là tuyên bố được nêu lên trong kinh Tập:

Chân lý chỉ có một không có hai. Chỉ những ai không hiểu mới tuyên bố có nhiều chân lý. 26

Tuyên bố này được hiểu như thế nào trong bối cảnh của Phật giáo? Nhiều người khi đi sâu nghiên cứu đã cho rằng khi Đức Phật nói về chân lý chỉ có một là muốn nói lên rằng những tuyên bố không nên trái ngược nhau và cùng hướng đến một mục đích và nhất quán. Kinh điển Nguyên thủy có khuynh hướng chỉ nói đến một chân lý, hay đúng hơn là các tuyên bố khác nhau đều diễn bày cùng một mục đích. Chúng có kết quả từ sự nhất quán với thực tại và phù hợp với lời Phật dạy gọi là Pháp. Những gì phù hợp với Pháp đều được gọi là sự thật, hay chân lý. Những gì không phù hợp với Pháp, hay ‘sự thật trong chính nó’ thì bị xem là sai lạc. Do đó, chân lý chỉ có một đó là sự hợp nhất không chống trái, không mâu thuẫn, nhất quán và phù hợp với thực tại tối thượng mà Đức Phật chứng ngộ. Chân lý này thường được hiểu là chân lý giác ngộ, hay Niết-bàn. 27

Trong kinh Tăng chi bộ có nói về sự khác nhau giữa hai loại kinh, đó là kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Từ căn bản này được các nhà chú giải phân biệt thành hai loại giáo pháp khác nhau và các nhà Đại thừa đã áp dụng chúng thành hai loại thực tại hay chân lý đã được phát triển thành một học thuyết Nhị đế khá phong phú và phức tạp sau này.

Sự yên lặng của Phật được ngài Ca Diếp thấu hiểu trong hội Linh Sơn khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên mà không nói năng gì. Ngài Ca Diếp hiểu được chân lý mầu nhiệm trong sự yên lặng của Phật nên mỉm cười trong bài kệ gọi là ‘Niêm hoa vi tiếu’. Sự yên lặng của Phật đã được các nhà Phật học sau này khai triển và ứng dụng để khai mở tâm tánh của người tu tập, để trực nhận bản tánh của mọi sự. Nó như là một phương pháp để tạo ra một mối nghi, đúc kết thành một khối để đến một lúc chín mùi nào đó sẽ ‘hốt nhiên đại ngộ’. Đó là cái được Thiền tông giải thích là ‘bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật’; hay là cách thức sử dụng công án của các Thiền sư để liễu ngộ mà không trực tiếp nói ra.

Sự yên lặng của Phật là để nói lên rằng thật tướng là vô ngôn, 30 là chỗ ‘ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt,’ 31là cái không thể lý luận suy lường, 32 là cảnh giới ‘bất khả tư nghị.’ 33 Bởi vì thật tướng là vô tướng, vô tướng thì bặt nói năng, suy lường của tâm phân biệt đối đãi, mà nói ra ắt thành hư vọng sai biệt của phạm vi tục giới. Đó chính là thể nhập vào pháp môn bất nhị của Bồ-tát, là bản thể chân như của mọi sự vật hiện tượng.

Kết luận

Ai cũng biết rằng, để có một đời sống an lạc và hạnh phúc thì ai ai cũng cần phải giữ gìn lời nói thành thật, tránh nói sai sự thật. Nói lời chân thật là đem lại hạnh phúc và an lạc cho chính mình và mọi người. Trong xã hội cũng vậy, việc nói sai sự thật có nguy cơ gây bất ổn xã hội. Do vậy, việc nói lên sự thật là một trong những yếu tố căn bản và cần thiết để xây dựng một xã hội văn minh và hạnh phúc. Trong Phật giáo cũng vậy, nói lời chân thật là một trong những giới điều căn bản của người Phật tử nói chung. Ngoài việc tuân giữ giới nói lời chân thật, người Phật tử còn phải giữ gìn thêm những điều đi kèm đó là: (a) không nói lời thêu dệt có thể gây chia rẽ và bất hòa trong xã hội nhằm đem lại sự hài hòa và hiểu biết trong xã hội, (b) không nói lời hung ác, mà phải nói lời tử tế, dịu dàng, (c) không nói lời phù phiếm vô ích, mà phải nói đúng thời, đúng chỗ, và lợi ích.

Thích Vạn Năng

(4) A.V.36: santaṃ vā atthi ti nassati asantaṃ va natthi ti nassati.

(10) Itiv.122: yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī.

(18) Utpādād vā tathāgatānām anutpādād vā tathāgatānāṃ sthitaivaiṣā dharmānāṃ dharmatā. S.ii.25; Tạp A-hàm 12.14; MKV, p.40.

(19) Kinh Tập, kệ 885-6. No truth exists at all apart from what sense-perception (saññā) offers… Kinh Tập, kệ 885-6.

(29) Ian Charles Harris, tr.88-9.

Tin mới

Chân Lý Là Gì Theo Triết Học Mác

Ngay từ thời cổ đại, con người đã luôn suy nghĩ tìm lời giải đáp cho câu hỏi chân lý là gì? Vấn đề chân lý là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận .

Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được kiểm nghiệm.

+ Sự phát triển của sự vật khách quan;

+ Điều kiện lịch sử – cụ thể của ;

+ Hoạt động thực tiễn, và

+ Hoạt động nhận thức của con người.

Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình. Tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động.

Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương đối. Điều này thể hiện như sau:

– Nghĩa là, tuy chân lý là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó không phụ thuộc vào con người.

+ Trái đất xoay quanh mặt trời: Đây là chân lý khách quan dù con người đã nhận thức được hay chưa.

+ Khủng long là loài động vật xuất hiện trên trái đất trước loài người.

– Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính khách quan của chân lý có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh thế giới đó vào trong bộ óc con người.

Nội dung mà chân lý phản ánh thuộc về thế giới khách quan. Chân lý chỉ có ở con người, nhưng nội dung của chân lý lại không lệ thuộc vào con người mà chỉ lệ thuộc vào sự vật khách quan được chân lý đó phản ánh.

– Điều này nghĩa là không có chân lý trừu tượng, mơ hồ.

Chân lý đạt được trong quá trình nhận thức bao giờ cũng gắn liền với một lĩnh vực cụ thể của hiện thực, và được phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó.

– Nguyên lý tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và thực tiễn.

Nguyên lý này đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, đánh giá sự vật, sự việc, con người.

Do đó, Lênin đã khẳng định: “Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”.

Quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến điều kiện lịch sử – cụ thể của từng quốc gia, dân tộc, từng địa phương khi vận dụng lý luận chung, sơ đồ chung, phải biết cụ thể hóa, cá biệt hóa vào cho cái riêng. Phải hết sức tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc.

Đối với Việt Nam, chúng ta phải nghiên cứu, hiểu rõ điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước để vận dụng sáng tạo.

Trung thành với chủ nghĩa mác – Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của nó và biết vận dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta. Cả chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đều xa lạ với chủ nghĩa Mác – Lênin.

Như đã phân tích, con người đạt tới chân lý trong quá trình vận động vô tận của nhận thức thế giới khách quan với cả một chuỗi những sự trừu tượng, những sự hình thành các khái niệm, quy luật.

Những khái niệm bao quát một cách tương đối, gần đúng những quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động và phát triển, tạo nên một bức tranh khoa học về thế giới khách quan.

Nhưng con người nhận thức chân lý khách quan như thế nào? Có thể nhận thức được một cách tức thời, toàn bộ, tuyệt đối, vô điều kiện hay chỉ gần đúng, có điều kiện?

Trả lời câu hỏi đó tức là phải xem xét quan hệ giữa tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý. Ở đây, ta có chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.

Mối quan hệ giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa quá trình vô tận của sự nhận thức thế giới khách quan với khả năng, kết quả nhận thức có hạn ở từng thời điểm cụ thể của lịch sử nhận thức.

Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức.

Ở chân lý tương đối, sự phản ánh hiện thực khách quan bị giới hạn ở những mặt, những bộ phận nhất định và bị chế ước bởi điều kiện lịch sử.

Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì theo bản chất của nó, tư duy con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối.

Sở dĩ như vậy vì thế giới khách quan là vô cùng tận, nó biến đổi, phát triển không ngừng, không có giới hạn tận cùng, còn nhận thức của từng con người, từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử khách quan và bởi năng lực chủ quan.

Việc thừa nhận tính tương đối của chân lý không loại trừ việc chấp nhận, dù là chút ít, chân lý tuyệt đối. Trong tính tương đối đó vẫn chứa đựng một phần, một yếu tố của chân lý tuyệt đối.

Phải chăng sự phân biệt giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối là không xác định?

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nó vừa đủ “không xác định” để ngăn ngừa khoa học trở thành một giáo điều theo nghĩa xấu của từ đó.

Nhưng đồng thời lại vừa đủ “xác định” để phân rõ ranh giới dứt khoát với chủ nghĩa tín ngưỡng và thuyết bất khả tri, với chủ nghĩa duy tâm và thuyết ngụy biện.

3.3. Quan hệ biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối:

– Chân lý tương đối bao giờ cũng chứa những yếu tố là chân lý tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối được hình thành từ các chân lý tương đối, có sự bổ sung các chân lý tương đối.

– Sự khác biệt giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không phải ở bản chất mà là ở mức độ phù hợp của chúng với khách thể được phản ánh. Mức độ hay ranh giới giữa chúng bao giờ cũng tồn tại nhưng không ngừng được xóa bỏ và được xác lập.

III. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn

– Thực tiễn có vai trò như vậy vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là hiện thực trực tiếp. Nhờ đó, thực tiễn có thể “vật chất hóa” được tri thức, biến tri thức thành những khách thể xác định, cảm tính trong thế giới khách quan.

– Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất. Tương đối vì thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển, do đó cần có sự bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Chân Lý (Truth) Là Gì? Ý Nghĩa Của Chân Lý Trong Cuộc Sống trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!