Cập nhật nội dung chi tiết về Chế Định Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Ở Nước Ta Hiện Nay Định Hướng Và Giải Pháp Hoàn Thiện mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thạc sỹ: Nguyễn Khắc Cường – Phòng Tư pháp, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Sau khi ban hành Hiến pháp 1946 được 13 năm thì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành luật Hôn nhân và Gia đình 1959 (sau đây gọi tắt là luật HN&GĐ), luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 13 tháng 01 năm 1960. Là một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất; luật HN&GĐ năm 1959 ra đời đánh dấu một bước phát triển, tiến bộ vượt bậc trong công tác lập pháp của nước ta.[1] Đến năm 1986, luật HN&GĐ mới được ban hành thay thế cho luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959. Luật HN&GĐ năm 1986 đã ghi nhận nhiều quy định tiến bộ, góp phần xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu và tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến; trong đó ghi nhận chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc về phong tục tập quán[2] và con có quyền sở hữu tài sản riêng (bao gồm con chưa thành niên và con đã thành niên)[3]. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội mới phát sinh, luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đã bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn. Đến năm 2000, Quốc hội nước ta đã thông qua luật Hôn nhân và Gia đình mới thay thế luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có 13 chương, 110 điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001. Bên cạnh việc phát huy những điểm tích cực góp phần vào xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc thì những quy định của luật HN&GĐ năm 2000 vẫn tồn tại những điểm bật cập. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích thực trạng bất cập của chế định ly hôn trong luật HN&GĐ năm 2000 và cuối cùng là một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.
1. Thực trạng quy định của pháp luật về ly hôn và những bất cập
1.1 Quy định của pháp luật về ly hôn
Chế định ly hôn trong luật HN&GĐ năm 2000 có 15 điều (từ điều 85 đến điều 99) được quy định tại chương X. Vấn đề ly hôn cũng được ghi nhận tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật Hôn nhân và Gia đình (được quy định từ điều 23 đến điều 30) và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Ngoài ra, tại điều 42 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định về quyền ly hôn của cả vợ, chồng “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn”[4], tuy nhiên, quy định của pháp luật trong việc xác định, phân chia tài sản chung, riêng của vợ, chồng khi ly hôn và quyền được nuôi, thăm con sau khi ly hôn trong thực tiễn còn nhiều bất cập.
1.2 Bất cập trong việc xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng khi ly hôn
Theo khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”[5]. Quy định này trao cho thẩm phán quyền được suy luận trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn để phân định tài sản chung, riêng của vợ, chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng của mình thì đương nhiên là tài sản chung. Thực tế thì nguyên tắc này chỉ có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp của vợ chồng về nguồn gốc tài sản. Bất cập của quy định này là thẩm phán có quyền dùng phương pháp suy luận loại trừ dựa trên cơ sở chứng cứ mà vợ, chồng có hoặc không có trước tòa; mà đã là suy luận thì không thể khẳng định chắc chắn là có sự chính xác tuyệt đối. Do đó, quy định này không những gây khó khăn cho vợ hoặc chồng trong việc chứng minh tài sản riêng trước tòa trong vụ án ly hôn mà còn cho người thứ ba có liên quan trong các giao dịch về tài sản. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chỉ căn cứ vào chứng cứ để xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng mà chưa căn cứ vào ý chí thể hiện của các bên. Do đó, trong thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn, tòa án các cấp còn gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, trong vụ án ly hôn của chị NTBT tại thị xã Rạch Giá (Kiên Giang)[6]. Tài sản tranh chấp là một mảnh đất diện tích hơn 360 m2. Năm 1998, cha mẹ chị T. lập di chúc cho chị phần đất này. Sau đó vợ chồng chị xây hai căn nhà cùng một số công trình phụ trên đất. Năm 2002, cha mẹ chị T. đã thay thế bản di chúc bằng việc lập hợp đồng ghi rõ là cha chị T. chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị. Một năm sau, UBND thị xã Rạch Giá cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng chị T. Khi giải quyết vụ ly hôn và chia tài sản của vợ chồng chị T., tòa hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định mảnh đất là tài sản riêng của chị T. Sau đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Giám đốc thẩm yếu cầu hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giải quyết lại việc phân chia tài sản trong vụ ly hôn của vợ, chồng chị T. Và Tòa án nhân dân tối cao lập luận rằng dù chứng cứ thể hiện là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của cha mẹ chị T cho chị T; nhưng sau đó chị T đã thể hiện ý chí sáp nhập thửa đất này vào khối tài sản chung của vợ chồng qua việc đồng ý cho chồng cùng đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, thửa đất là tài sản chung.
Một bất cập nữa trong luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 là luật không quy định tòa án phải có trách nhiệm xác minh trong trường hợp lời khai của các đương sự khác nhau về nguồn tiền để tạo lập tài sản trong các vụ án ly hôn trong việc xác định tài sản chung, riêng. Ví dụ, vụ ly hôn của vợ chồng ông ĐTN và tranh chấp một lô đất đang đứng tên ông N.[7] Người vợ khai chồng mua đất lúc nào bà không biết, chỉ khi trong nhà thiếu đi một khoản tiền, bà mới hay là chồng đã lấy đi mua đất. Do đó mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng. Ngược lại, ông N. khai nguồn tiền mua đất là của mẹ ông. Mẹ ông N. thì khai năm 2003, bà đưa 90 triệu đồng nhờ con trai mua giùm lô đất trên. Tại cấp sơ thẩm, Tòa án nhân dân TP. Tam Kỳ không công nhận lô đất là tài sản chung của vợ chồng ông N. Cấp phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã sửa án sơ thẩm, công nhận lô đất này là tài sản chung.
Trong vụ án ly hôn này, theo chánh án TAND Tối cao, lời khai của các đương sự rất khác nhau về nguồn tiền mua đất nhưng không bên nào xuất trình được đầy đủ chứng cứ chứng minh. Lẽ ra, các cấp tòa cần phải thu thập thêm chứng cứ để làm rõ thời điểm mua đất, mua của ai, quá trình sử dụng, đăng ký, kê khai. Về nguồn tiền mua, các cấp tòa cũng cần phải xác minh công việc, nguồn thu nhập của các bên cũng như độ chính xác trong lời khai của mẹ ông N. Do không chịu thu thập chứng cứ để làm rõ, mỗi cấp tòa có một quyết định khác nhau nhưng đều chưa đủ căn cứ và thiếu tính thuyết phục.[8] Trong khi đó, luật Hôn nhân và Gia đình không có quy định nào bắt buộc tòa án phải có nghĩa vụ tiến hành xác minh trong trường hợp phân chia tài sản chung, riêng nếu xét thấy chứng cứ của các bên không có cơ sở hoặc không có chứng cứ để chứng minh. Do đó, trong thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn, tòa án chỉ căn cứ thực hiện đúng theo khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
1.3 Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con sau khi ly hôn
Tại khoản 2 điều 92 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định:[9] ” Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Ngoài ra, điểm d mục 11 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP quy định “Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai”.
Như vậy tại khoản 2 điều 92 của luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP vẫn chưa quy định hoặc chưa hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng; bởi cụm từ “căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con” vẫn còn chung chung. Thông thường, căn cứ theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP thì thẩm phán sẽ tập trung xem xét về sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và học hành của trẻ. Và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP vẫn chưa giải thích những gì cấu thành yếu tố “tinh thần”. Mặt khác, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rằng khi tòa án quyết định giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi thì phải xem xét thêm điều kiện khác như có thuận lợi cho việc thăm nom cháu của những người thân thích khác (ông bà nội, ngoại, cô, chú, bác, cậu, dì) nhằm duy trì mối quan hệ gần gũi về huyết thống và mối quan hệ bạn bè ở khu dân cư, trường học của người con trong trường hợp này. Ví dụ: Trường hợp cha đang sinh sống tại thành phố Đà Nẵng, mẹ đang sinh sống ở tỉnh Cao Bằng. Nếu trong trường hợp cả cha và mẹ đều có điều kiện cho sự toàn diện của trẻ về thể chất, tinh thần, học hành mà Tòa án quyết định giao con chưa thành niên ở với cha tại thành phố Đà Nẵng thì sẽ tạo thuận lợi cho những người thân thích kể trên trong việc thăm nom vì những người này cùng sống ở thành phố Đà Nẵng, nhưng nếu tòa án quyết định cho người con này ở với mẹ tại tỉnh Cao Bằng thì sẽ gây nhiều khó khăn cho những người thân thích kể trên thăm nom cháu mình vì điều kiện đi lại khó khăn; bởi vì mọi thay đổi về nơi cư trú, môi trường sống mới, học tập ở một địa phương khác và sống cách xa những người thân thích đã từng gắn bó với mình thì có thể ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện tâm lý, tinh thần và kết quả học tập của trẻ em.
Ở khía cạnh khác, cũng tại khoản 2 điều 92 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định “Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”[10]. Đây là nghĩa vụ bắt buộc của tòa án khi giải quyết vụ án ly hôn, nếu có con từ đủ 9 tuổi trở lên thì tòa phải hỏi nguyện vọng của con là thích sống với cha hay thích sống với mẹ hơn. Thực tiễn thì quy định trên, tòa án gặp khó khăn trong những tình huống sau:
Một là, tòa án khó có thể gặp được trực tiếp người con từ đủ 9 tuổi trở lên vì có những trường hợp cha mẹ khi ly hôn không muốn con biết vì sợ tâm lý của con mình dễ bị tổn thương. Vì vậy, cha mẹ không cho con đến dự phiên tòa ly hôn.[11]
Hai là, không phải mọi trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên đều có đủ tự tin để trình bày nguyện vọng thực sự của mình trước tòa hay nguyện vọng này có thể bị chi phối bởi cha hoặc mẹ trước khi ra tòa. Vì vậy, trong trường hợp này, nếu trẻ em có tự trình bày nguyện vọng chăng đi nữa thì cũng có thể chưa xuất phát từ ý chí và nguyện vọng thực sự của các em.
1.4 Quyền thăm nom con sau khi ly hôn
Điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định:[12]
“Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.
Quy định này trong quá trình áp dụng thực hiện còn gặp những bất cập. Hiện nay vẫn chưa có văn bản dưới luật nào cụ thể hóa quy định trên. Các hành vi “cản trở” hoặc “gây ảnh hướng xấu” của một bên không trực tiếp nuôi con được hiểu như thế nào cho thống nhất? hay nói cách khác những loại hành vi nào được cho là “cản trở” hoặc “gây ảnh hưởng xấu” đến việc trông nôm, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con?
Trong trường hợp, nếu trong quá khứ người cha thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình và việc thăm nom của người này có thể sẽ ảnh hưởng sự phát triển toàn diện tâm lý và tinh thần của trẻ em (vì khi gặp lại cha mình thì những hình ảnh bạo lực gia đình có thể sẽ tái hiện lại trong trí nhớ của trẻ), tuy nhiên, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có quy định nào cấm hoặc hạn chế người cha (mẹ) quyền thăm con trong trường hợp người này từng có hành vi bạo lực gia đình trong quá khứ (đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi bạo lực gia đình). Nếu tòa án có quyết định hạn chế quyền thăm nom con sau khi ly hôn trong trường hợp trên thì hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, bởi quyền thăm nom con sau khi ly hôn chỉ bị Tòa án hạn chế khi “lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở và gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con”[13].
Từ những hạn chế và bất cập nêu trên, chế định ly hôn nên chăng cần sớm được hoàn thiện lại cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
2. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ly hôn
Một là, pháp luật nên quy định luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý đại diện cho con chưa thành niên (đối với người con từ đủ 9 tuổi trở lên khi được hỏi ý nguyện ở với cha hay mẹ) trong vụ án ly hôn
Nếu luật Hôn nhân và Gia đình có quy định luật sư hay trợ giúp viên pháp lý tham gia trợ giúp về mặt pháp lý cho người con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên trong vụ án ly hôn, thì thuận lợi cho người con thể thiện được quan điểm, ý muốn thực sự của mình là ở với cha hay mẹ khi được tòa án đề cập đến vấn đề này. Bởi vì không phải mọi trẻ em tự mình có thể đủ tự tin để trình bày quan điểm, nguyện vọng thực sự của mình trước sự nghiêm trang một phiên tòa. Luật cũng nên quy định cho phép luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý có quyền được gặp riêng người con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên để lắng nghe ý nguyện thực sự của người con này trước khi phiên tòa ly hôn được đưa ra xét xử. Và đồng thời luật sư hay trợ giúp viên pháp lý phải có nghĩa vụ giải thích cho người con hiểu các quy định của pháp luật về ly hôn và quyền của người con chưa thành niên đủ 9 tuổi trở lên được lựa chọn ở với cha hay mẹ. Ở khía cạnh khác, luật sư hay trợ giúp viên pháp lý đóng một vai trò như một chuyên gia tâm lý, chỗ dựa về tinh thần cho người con chưa thành niên để người con này thể hiện được quan điểm độc lập thực sự của mình trước tòa trong vụ án ly hôn mà không bị chi phối ảnh hưởng của bất kỳ ai và bất kỳ yếu tố nào. Nếu luật Hôn nhân và Gia đình quy định luật sư hay trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng trong trường hợp nêu trên thì quy định này cũng phù hợp với quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên của Công ước này “Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, hoặc trực tiếp hay thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của luật pháp quốc gia.”[14]
Hai là, luật Hôn và Gia đình cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định đầy đủ hơn các tiêu chí làm căn cứ (ngoài tiêu chí căn cứ vào công sức đóng góp vợ, chồng) trong việc phân chia khối tài sản chung của vợ chồng
Ba là, cần quy định cho phép tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người cha hoặc mẹ sau khi ly hôn, nếu người này từng có hành vi bạo lực gia đình
Hiện nay, luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định quyền thăm nom con của cha, mẹ bị hạn chế trong trường hợp cha hoặc mẹ từng có hành vi bạo lực gia đình. Do đó, để đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và tâm lý của con đã được ghi nhận trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, thì điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nên hoàn thiện theo hướng: Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con hoặc trường hợp người này đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi bạo lực gia đình thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Về nội dung này, theo quy định đạo luật Gia đình năm 1975 của nước Úc và trong thực tiễn xét các vụ án ly hôn thì các thẩm phán nước này đều có quyết định hạn chế quyền thăm nom con chưa thành niên của cha hoặc mẹ trong trường hợp người này có hành vi bạo lực gia đình nhằm đảm lợi ích tốt nhất cho con chưa thành niên.[18]
Nếu luật Hôn nhân và Gia đình nước ta sửa đổi theo hướng như vậy thì cũng góp phần thực hiện đúng theo quy định Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em “Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng trẻ em không bị cách ly cha mẹ trái với ý muốn của họ, trừ trường hợp những nhà chức trách có thẩm quyền chịu sự xem xét của pháp luật quyết định là theo luật pháp và các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em”.[19]
Cuối cùng, luật Hôn nhân và Gia đình nên quy định là trẻ em có quyền được gìn giữ mối quan hệ với những người thân thích và cần quy định cơ chế xác minh để xác định tài sản chung, riêng trong trường hợp cả vợ và chồng không có chứng cứ chứng minh tài sản riêng thay vì dùng phương pháp suy luận như hiện nay.
Theo khoản 3 điều 9 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên, ghi nhận rằng các quốc gia thành viên phải tôn trọng mối quan hệ riêng tư của trẻ em. Vì vậy, có thể nói rằng, việc cho phép trẻ em quyền được duy trì mối quan hệ riêng tư cũng góp phần đảm bảo sự phát triển toàn diện của các em khi cha mẹ ly hôn. Nếu trường hợp cả cha và mẹ đều có điều kiện như nhau trong việc phát triển tâm lý, tinh thần và học hành của trẻ thì pháp luật nên cho phép Tòa án ưu tiên giao con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên ở với cha hoặc mẹ mà người này ở gần với những người thân thích, bạn bè ở khu dân cư và trường học của con, trên cơ sở xem xét nguyện vọng của con.
Ngoài ra, luật Hôn nhân và Gia đình nên quy định Tòa án phải tiến hành xác minh để phân định tài sản riêng, tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ, chồng đều không có chứng cứ chứng minh nhằm đảm bảo sự công bằng thay vì quy định rằng “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì đó là tài sản chung”.
Tóm lại, bên cạnh việc phát huy những giá trị tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, đất nước thì luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 còn tồn tại những bất cập trong chế định ly hôn. Khi Việt Nam đã là thành viên Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em thì những quy định của pháp luật trong nước cũng phải dần phù hợp với quy định của Công ước này. Đây là xu thế tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia. Ngoài ra, việc sửa đổi chế định ly hôn nhằm đảm bảo hơn quyền lợi của vợ, chồng và con chưa thành niên trong thực tiễn các vụ án ly hôn, cũng là tạo sự đồng bộ, thống nhất quy định của các luật khác nhau trong hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.
[1] Tiến Sỹ Ngô Thị Hường, Giáo trình: Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, trang 50.
[2] Điều 13, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
[3] Điều 23, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
[4] Điều 42 Bộ luật dân sự năm 2005.
[5] Khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[6]Báo Gia đình.net.vn .
[7] Báo Gia đình.net.vn .
[8]Báo Gia đình.net.vn .
[9] Khoản 2 điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[10] Khoản 2 điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[11] Tạp chí Sinh viên và khoa học pháp lý số 1: Một số vấn đề pháp lý về ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam .
[12] Điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[13] Điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[14] Khoản 2 điều 12 Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em
[15] Khoản 3 điều 3 luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
[16] Khoản 4 điều 3 luật phòng, chống bạo lực gia đình.
[17] Khoản 3 điều 28 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[18] Khoản 2 điều 60 CC luật Gia đình Úc 1975.
[19] Khoản 1 điều 9 Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em.
Hôn Nhân Là Gì? Quy Định Về Hôn Nhân Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn
Những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hôn nhân vợ chồng: tự nguyện, tiến bộ và một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua sự kiện nam nữ đăng ký kết hôn, chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc từ thời điểm vợ hoặc chồng chết
Dẫu biết rằng, hôn nhân là kết quả của tình yêu nam nữ nhưng không phải hôn nhân lúc nào cũng ngọt ngào và cùng nhau đi hết cuộc đời. Xung đột vợ chồng luôn xảy ra trong tổ ấm của mỗi cặp vợ chồng xuất phát từ những vấn đề dù là rất nhỏ. Những người đã, đang hoặc sắp kết hôn liệu có hiểu hôn nhân là gì? Mục đích của hôn nhân? Hay thế nào là một cuộc hôn nhân hạnh phúc? Đây là những câu hỏi khá phổ biến nhưng nhiều người vẫn chưa tìm ra được câu trả lời chính xác nhất? Với bài viết này, Luật Quang Huy chúng tôi thông tin đến bạn các vấn đề xoay quanh cuộc hôn nhân để giúp mọi người giải đáp phần nào thắc mắc của mình.
Trên thực tế, có nhiều cách hiểu khác nhau về hôn nhân. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ được gọi là vợ. Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân thường là kết quả của tình yêu nam nữ.
Dưới góc độ pháp luật, Hôn nhân là gì? Khái niệm Hôn nhân được quy định như thế nào?
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, khái niệm hôn nhân được hiểu là:
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn
Trên cơ sở khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình hiện hành, hôn nhân được xem là kết quả của tình yêu, là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ được gọi là vợ. Đây là sự kết hợp giữa nam và nữ về tình cảm, xã hội, giới tính, tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và phụ nữ, cho phép nam nữ sống chung với nhau đồng thời đặt ra các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau. Trên thực tế, lễ cưới hỏi thường được xem là sự kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu của hôn nhân. Tuy nhiên, về mặt luật pháp, hôn nhân bắt đầu từ việc đăng ký kết hôn, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định pháp luật khi đủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền.
Đồng thời, theo quy định Điều 36 Hiến pháp 2013, hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, là chế độ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Các quốc gia trên thế giới tồn tại nhiều kiểu hôn nhân khác nhau như hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng, hôn nhân đa thê, hôn nhân đồng tính, nam nữ sống chung như vợ chồng,… Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ công nhận chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Đối với hôn nhân giữa những người cùng giới tính, mặc dù không cấm nhưng Nhà nước vẫn không thừa nhận hôn nhân đồng giới.
Mục đích cơ bản nhất và quan trọng nhất của hôn nhân là việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái của vợ chồng. Hôn nhân góp phần duy trì nòi giống, đảm bảo tương lai tồn tại của cả một dân tộc.
Như vậy, hiểu một cách khái quát nhất, hôn nhân là sự kết hợp hoàn tự nguyện giữa 1 nam và 1 nữ trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng nhau, được xác lập sau khi nam nữ đăng ký kết hôn khi đủ điều kiện kết hôn và tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền.
Những nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân hiện nay
Căn cứ Điều 2 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, những nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân giữa vợ chồng.
Hôn nhân phải dựa trên tinh thần tự nguyện, tiến bộ và một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Bình đẳng giữa vợ và chồng là bình đẳng về địa vị xã hội, về kinh tế và về văn hóa.
Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Đồng thời kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
Quan hệ hôn nhân được xác lập và chấm dứt như thế nào?
Căn cứ khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thời kỳ hôn nhân được xác định như sau:
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.
Thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân
Việc xác định thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân có vai trò quan trọng đến quyền, nghĩa vụ của vợ và chồng với nhau, vấn đề tài sản của vợ chồng và con cái.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua sự kiện nam nữ đăng ký kết hôn. Tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 xác định kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định Điều 8 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn đúng cơ quan có thẩm quyền. Khi nam nữ đủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn đúng cơ quan có thẩm quyền là thời điểm chính thức xác lập quan hệ hôn nhân.
Tuy nhiên, có trường hợp nam nữ dù không đăng ký kết hôn vẫn được xác lập quan hệ hôn nhân. Căn cứ điểm c.1 Mục 1 Nghị quyết 02/2000/ NQ-HĐTP quy định đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mặc dù họ không đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng và thời kỳ hôn nhân được xác lập kể từ thời điểm nam nữ về chung sống với nhau.
Thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân
Căn cứ Điều 57 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:
Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đối với trường hợp chấm dứt hôn nhân do ly hôn từ ý chí một bên vợ chồng hoặc cả hai bên vợ chồng tự nguyện, thì căn cứ chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ thời điểm bản án quyết định của Tòa án có hiệu lực. Từ thời điểm quan hệ hôn nhân chấm dứt, hai bên vợ chồng không còn bị ràng buộc vào quan hệ hôn nhân này nữa, trở thành người độc thân và hoàn toàn có quyền kết hôn với người khác.
Căn cứ Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Trong trường hợp hôn nhân chấm dứt khi một trong hai bên vợ chồng chết, chết được hiểu là chết sinh học hoặc chết pháp lý. Trong trường hợp chết sinh học thì thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân là ngày chết ghi trong giấy khai tử. Còn đối với chết pháp lý, thời điểm chấm dứt hôn nhân kể từ khi có quyết định của Tòa án tuyên bố một người đã chết.
Như vậy, dựa trên các quy định pháp luật, thời điểm chấm dứt hôn nhân là thời điểm có hiệu lực của bản án hoặc quyết định cho ly hôn của Tòa án hoặc thời điểm vợ hoặc chồng chết hay một trong hai bên bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
Trân trọng./.
Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Là Gì Theo Quy Định Pháp Luật?
Luật Hôn nhân và gia đình là gì theo quy định pháp luật? Luật Hôn nhân và gia đình là tập hợp những quy định về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực…
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LÀ GÌ?
Kiến thức của bạn về luật hôn nhân và gia đình là gì
Luật Hôn nhân và gia đình là gì theo quy định pháp luật?
Kiến thức của Luật sư về luật hôn nhân và gia đình là gì
1. Căn cứ pháp lý về luật hôn nhân và gia đình là gì:
2. Nội dung tư vấn về luật hôn nhân và gia đình là gì
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Theo Luật Hôn nhân và gia đình hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà (Nhà nước không thừa nhận hôn nhân đồng giới) trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện, đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ và hạnh phúc. Cụ thể, khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 giải thích: ” Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn “.
Gia đình là tế bào của xã hội, là sản phẩm của xã hội, phát sinh và phát triển cùng sự phát triển của xã hội. Quan hệ bình đẳng của vợ và chồng trong gia đình thể hiện quan hệ bình đẳng nam và nữ ngoài xã hội. Hôn nhân là một quan hệ giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, là tiền đề xây dựng gia đình.
Hiện nay, khái niệm gia đình được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình như sau: ” Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này “. Gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.
Luật Hôn nhân và gia đình là tập hợp những quy định về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lí cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, cụ thể là quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa những người thân thích ruột thịt khác.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là những cách thức, biện pháp mà các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình tác động lên các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó, phù hợp với ý chí của Nhà nước.
2.4. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
Một vợ, một chồng;
Bình đẳng vợ chồng, bình đẳng nam nữ, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, quốc tịch;
Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
Bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Để được tư vấn chi tiết về luật hôn nhân và gia đình là gì, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình 24/7: 1900 6500để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email: lienhe@luattoanquoc.com. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
Quan Hệ Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Là Gì ? Đặc Điểm Của Quan Hệ Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình ?
1. Quy định chung về quan hệ pháp luật hôn nhân
Thông thường quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình chỉ giới hạn giữa các thành viên trong gia đình. Trong một số trường hợp, chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình không phải là thành viên của cùng một gia đình. Các chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm hoặc huyết thống hoặc cả hai yếu tố đó. Trong đa số các trường hợp, các yếu tố này quyết định việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình gồm ba yếu tố: chủ thể; quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình; khách thể (Xf. Chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình; Khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình).
2. Định nghĩa quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình ?
Những quan hệ xã hội được Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh thì gọi là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
3. Đặc điểm của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình
Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình có những đặc điểm cơ bản sau:
– Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thông thường chỉ phát sinh giữa các thành viên gia đình với nhau và tồn tại trong một phạm vi hẹp là gia đình. Vì vậy, các chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thông thường là thành viên của một gia đình.
– Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình mang tồn tại lâu dài và bền vững, không thể xác định được thời hạn trước. Trong một số trường hợp, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình tồn tại ngay cả khi hôn nhân hoặc gia đình không còn tồn tại.
– Các chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm hoặc huyết thống. Trong phần lớn các trường hợp, yếu tố tình cảm hoặc huyết thống quyết định việc phát sinh, thay đổi hay chẩm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
– Nội dung chính của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là các quyền và nghĩa vụ nhân thân. Các quyền và nghĩa vụ tài sản luôn gắn liền với các quyền và nghĩa vụ nhân thân của các chủ thể mà không thể chuyển giao cho người khác. Các quyền và nghĩa vụ tài sản phát sinh, tồn tại hay chấm dứt phụ thuộc vào các quyền và nghĩa vụ nhân thân.
– Quan hệ tài sản trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình không mang tính chất đền bù và ngang giá. Nghĩa vụ của các chủ thể đối với nhau không thể tính cân bằng. Khi một chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản thì không phụ thuộc vào việc trước đây họ có được hưởng quyền hay không hoặc được hưởng quyền như thế nào.
– Các chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thông thường tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Thông thường, các quy phạm pháp luật hồn nhân và gia đình không quy định biện pháp chế tài.
Trân trọng./.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Chế Định Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Ở Nước Ta Hiện Nay Định Hướng Và Giải Pháp Hoàn Thiện trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!