Đề Xuất 6/2023 # Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam # Top 6 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 6/2023 # Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lê Cảm

TSKH., Trưởng bộ môn Tư pháp hình sự thuộc ĐHQG Hà Nội

Trịnh Tiến Viết

Bộ  môn Tư pháp hình sự thuộc ĐHQG Hà Nội

* Theo PLHS Việt Nam, quyền truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) và quyền thi hành bản án hình sự (BAHS) của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của Nhà nước (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án hình sự) đối với người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm không phải là vô thời hạn, mà chỉ trong một thời hạn nhất định được ghi nhận trong PLHS.

* Nhưng khi một thời hạn nhất định do PLHS quy định đã qua rồi, thì bất kỳ người nào, mặc dù đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm vẫn không thể bị truy cứu TNHS (vì trong trường hợp này họ không bị coi là người phạm tội) hoặc không bị buộc phải chấp hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật.

* Để không bị truy cứu TNHS hoặc không bị buộc phải chấp hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật do hết thời hiệu, thì ngoài các căn cứ pháp lý ra, còn phải có một loạt những điều kiện cụ thể khác do PLHS quy định, mà chỉ khi nào có tổng hợp đầy đủ chúng (các căn cứ pháp lý và những điều kiện ấy), người phạm tội mới không bị truy cứu TNHS hoặc không bị buộc phải chấp hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật.

* Căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS) tương ứng cụ thể, việc không truy cứu TNHS hoặc không thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật do hết thời hiệu chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc cơ quan thi hành án hình sự) khi có đầy đủ các căn cứ pháp lý và những điều kiện do PLHS quy định.

* Thời hiệu thi hành BAHS chỉ được áp dụng đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành vì nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người bị kết án (ví dụ: do thiên tai, hồ sơ bị mất hoặc thất lạc, do sự thiếu trách nhiệm của những cán bộ trong các cơ quan thi hành án hình sự v.v…). Như vậy, thời hiệu thi hành BAHS khác với thời hiệu truy cứu TNHS là ở chỗ: thời hiệu thi hành BAHS căn cứ vào loại hình phạt (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù) và mức hình phạt (ba năm tù trở xuống, ba năm tù đến mười lăm năm tù, mười lăm năm tù đến ba mươi năm tù), còn thời hiệu truy cứu TNHS thì lại căn cứ vào loại tội phạm tương ứng được phân loại trong BLHS năm 1999 (khoản 3 Điều 8).

II

1. Bằng quy phạm tại khoản 1 Điều 23 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam đã ghi nhận riêng biệt định nghĩa pháp lý (ĐNPL) của khái niệm thời hiệu truy cứu TNHS là gì (?) – “là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Quy phạm này chính là một điểm mới của BLHS năm 1999 (mà trong BLHS năm 1985 trước đây không có) và do đó, nó có ý nghĩa khoa học – thực tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển của PLHS Việt Nam nói riêng, cũng như đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của con người trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung ở nước ta hiện nay.

2. Bằng các quy phạm tại khoản 2 Điều 23 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam, nhà làm luật đã điều chỉnh cụ thể bốn thời hạn khác nhau tương ứng với bốn loại tội phạm được phân loại trong luật (khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999), mà các cơ quan tư pháp hình sự chỉ có thể và phải dựa vào căn cứ đó để truy cứu người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Nói một cách khác, theo BLHS năm 1999, khi đã hết các thời hạn do luật định tại khoản 2 Điều 23 tương ứng với bốn loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8, thì không được truy cứu TNHS người phạm tội.

* Về cơ bản, thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính là từ ngày tội phạm hoàn thành, tức là từ thời điểm hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm (tương ứng với bốn loại tội phạm) được thực hiện, chứ không phải là từ ngày tội phạm bị phát hiện hoặc từ ngày xảy ra hậu quả phạm tội. Ví dụ: thời hiệu truy cứu TNHS đối với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người được tính từ ngày nạn nhân bị gây thương tích (mà do thương tích đã đưa đến cái chết), chứ không phải từ ngày nạn nhân chết.

* Đối với các tội kéo dài, thì nói chung thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày tội phạm kết thúc, nhưng cũng tùy từng trường hợp mà thời điểm này có thể khác nhau. Chẳng hạn, đối với tội đào ngũ, thì thời điểm truy cứu TNHS phải được tính từ ngày quân nhân đào ngũ (mà trước đó người này đã bị xử lý kỷ luật về hành vi rời bỏ đơn vị một cách trái phép hoặc gây hậu quả nghiêm trọng…), chứ không phải từ ngày quân nhân này bị bắt giữ hoặc ra đầu thú. Nhưng đối với một loạt các tội tàng trữ (như tàng trữ vũ khí quân dụng, tàng trữ chất phóng xạ, hoặc tàng trữ chất cháy, chất độc), thì thời điểm truy cứu TNHS lại được tính từ ngày tội phạm tương ứng bị phát hiện hay từ ngày người phạm tội bị bắt giữ hoặc ra đầu thú, chứ không phải từ ngày bắt đầu tàng trữ các thứ đã nêu (vì có thể có những trường hợp vào thời điểm bắt đầu tàng trữ các thứ đã nêu, người phạm tội chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của PLHS).

* Đối với các tội liên tục, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày hành vi cuối cùng trong một loạt hành vi tội phạm được thực hiện. Ví dụ: đối với tội bức tử, tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình, thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày hành vi ngược đãi hoặc hành hạ cuối cùng của tội phạm tương ứng được thực hiện và gây nên hậu quả nguy hại cho xã hội đã đến mức phải bị xử lý về hình sự.

* Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội (rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) và hành vi phạm tội chưa đạt, thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày hoạt động phạm tội bị chấm dứt về mặt pháp lý do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội và khiến cho người đó không thực hiện được tội phạm đến cùng. Ví dụ: a) người chuẩn bị phạm tội khủng bố bị nhân dân phát hiện và báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên đã không thực hiện được tội phạm đến cùng; b) kẻ phạm tội trộm sau khi lọt vào nhà để trộm nhẫn mặt đá rubi của người khác (giá trị khoảng 680 triệu đồng) để trong tủ nhưng chưa kịp chiếm đoạt được chiếc nhẫn đó (vì sau khi lọt vào nhà và đang mở cửa cánh tủ), thì bị chủ nhà đi làm về nhìn thấy, hô hoán lên và bị những người hàng xóm vây bắt.

* Trong trường hợp phạm nhiều tội, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày thực hiện tội đầu tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.

* Trong trường hợp phạm tội nhiều lần, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày tội nào được thực hiện trước tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.

4. Bằng các quy phạm tại đoạn 1 khoản 3 Điều 23 BLHS năm 1999, nhà làm luật đã quy định việc tính lại thời hiệu đã qua đối với tất cả bốn thời hạn (tương ứng với bốn loại tội phạm được nêu tại khoản 2 điều luật này), nếu người phạm tội (trong một thời hạn nhất định đã qua tương ứng với mỗi loại tội phạm) lại thực hiện tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt do luật định đối với tội mới ấy là 1 năm tù trở lên. Như vậy, nội dung quy phạm này có nghĩa là: đối với tội mới ấy, bị cáo phải bị đưa ra xét xử và bị áp dụng hình phạt tù trên một năm theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

* Căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc là: kể từ ngày tội phạm mà người đó thực hiện nhất thiết phải qua một thời hạn nhất định và thời hạn ấy phải do BLHS quy định (khoản 1).

* Ba điều kiện cần, đủ: a) điều kiện thứ nhất – một trong các thời hạn đã qua ấy phải tương ứng với một trong bốn loại tội phạm được BLHS quy định cụ thể (khoản 2); b) điều kiện thứ hai – trong khoảng thời hạn đã qua ấy, người phạm tội (mà đối với tộu ấy thời hiệu truy cứu TNHS đã qua) phải không được phạm tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội mới này là trên một năm tù (đoạn 1 khoản 3); c) và cuối cùng, điều kiện thứ ba – trong khoảng thời hạn đã qua ấy, người phạm tội không được cố tình trốn tránh (hoặc mặc dù cố tình trốn tránh) và đối với người đó phải không có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (đoạn 2 khoản 3).

7. Bằng quy phạm tại Điều 24 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam nhà làm luật nước ta đã đặt an ninh quốc gia với tính chất là lợi ích (được BLHS năm 1999 bảo vệ bằng các quy định của Chương XI) ngang hàng với hòa bình và an ninh của nhân loại (được BLHS năm 1999 bảo vệ bằng các quy định của Chương XXIV). Đây là một sự thay đổi lớn trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua pháp điển hóa lần thứ hai vừa qua. Có nghĩa là, từ đây theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam được cụ thể hóa trong BLHS năm 1999 – chế định nhân đạo về thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 2 Điều 23) không được phép áp dụng: a) chẳng những chỉ đối với các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (được quy định tại các điều 341 – 344 BLHS năm 1999 – các điều 277 – 279 BLHS năm 1985 trước đây); b) mà còn đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia (được quy định tại các điều 78 – 91 BLHS năm 1999).

III.

1. Bằng quy định của khoản 1 Điều 55 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam đã ghi nhận một quy phạm riêng biệt đề cập đến ĐNPL của khái niệm thời hiệu thi hành bản án hình sự là gì? – “là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên”. Đây chính là một điểm mới trong BLHS năm 1999 (mà trước đây trong BLHS năm 1985 không có). Do vậy, cũng như ĐNPL của thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 1 Điều 23 BLHS năm 1999), ĐNPL này có ý nghĩa khoa học – thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển của PLHS Việt Nam nói riêng, cũng như đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung ở nước ta hiện nay.

2. Bằng các quy định của khoản 2 Điều 55 BLHS năm 1999, PLHS Việt Nam hiện hành đã điều chỉnh cụ thể ba thời hạn thi hành BAHS khác nhau tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt mà các cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền chỉ có thể và phải căn cứ vào đó để thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án (người đã thực hiện tội phạm). Nói một cách khác, theo quy định của BLHS năm 1999, khi đã hết các thời hạn do luật định tại khoản 2 Điều 55 tương ứng với các loại hình phạt (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù) và mức hình phạt (ba năm tù trở xuống, ba năm tù đến mười lăm năm tù, trên mười lăm năm tù đến ba mươi năm tù), thì không được thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án. Trong trường hợp có nhiều bản án đối với một người thì phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án và căn cứ để tính thời hiệu là hình phạt tổng hợp chung. Nếu trong bản án có nhiều người bị kết án, thì mỗi người sẽ được áp dụng thời hiệu thi hành BAHS phù hợp với loại hình phạt và mức hình phạt đối với họ.

* Về cơ bản, căn cứ vào Điều 226 Bộ luật TTHS, thì thời điểm thi hành BAHS đối với người bị kết án bắt đầu được tính từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật (bao gồm: những BAHS của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; những BAHS của Tòa án cấp phúc thẩm và những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm), chứ không phải từ thời điểm người đó có BAHS (bản án sơ thẩm) hoặc từ thời điểm BAHS có hiệu lực thi hành (bản án có hiệu lực pháp luật kèm theo các điều kiện khác phát sinh sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ví du: thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với A về tội giết người theo Điều 93 BLHS năm 1999 phải được tính từ ngày bản án đó có hiệu lực pháp luật (có thể là bản án hình sự không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bản án hình sự phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm), chứ không phải là từ ngày có BAHS hoặc từ ngày BAHS có hiệu lực thi hành đối với A.

* Việc tính lại thời hiệu đã qua đối với tất cả ba thời hạn (tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt được nêu tại khoản 2 Điều 55 BLHS năm 1999) có nghĩa là: nếu người bị kết án trong một thời hạn nhất định đã qua lại phạm tội mới (không kể là họ có bị phạt tù hay không), thì thời gian đã qua không được tính vào thời hiệu thi hành BAHS mà sẽ được tính lại kề từ ngày người đó phạm tội mới (cần lưu ý là trong BLHS năm 1985 trước đây còn quy định thêm ngoài việc người bị kết án đó phạm tội mới thì họ còn phải bị xét xử và bị áp dụng hình phạt tù).

* Căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc là: kể từ ngày bản án hình sự có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án nhất thiết phải qua một thời hạn nhất định và thời hạn ấy phải do BLHS quy định (khoản 1).

* Ba điều kiện cần, đủ là: a) Điều kiện thứ nhất – một trong các thời hạn đã qua ấy phải tương ứng với một trong các loại hình phạt và mức hình phạt được BLHS quy định cụ thể (khoản 2); b) điều kiện thứ hai – trong khoảng thời gian đã qua ấy, người bị kết án phải không được phạm tội mới và không kể là hình phạt ấy có phải là tù hay không (đoạn 1 khoản 3); c) và cuối cùng, điều kiện thứ ba – trong khoảng thời gian đã qua ấy, người bị kết án không cố tình trốn tránh (hoặc mặc dù họ cố tình trốn tránh) và đối với người bị kết án đó phải không có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (đoạn 2 khoản 3).

6. Bằng các quy phạm tại khoản 4 Điều 55 BLHS năm 1999, nhà làm luật Việt Nam quy định việc áp dụng thời hiệu đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình sau khi đã qua thời hạn mười lăm năm, thì do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC. Trong trường hợp không cho áp dụng thời hiệu thi hành bản án thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân, tù chung thân được chuyển thành tù ba mươi năm (khác với quy định tương ứng trong BLHS năm 1985 trước đây là “tù chung thân sẽ đổi thành tù hai mươi năm”). Do vậy, chỉ những hành vi phạm tội nào được thực hiện từ ngày 1/7/2000 mà người đó bị phạt tù chung thân thì mới được chuyển thành tù ba mươi năm.

7. Theo quy định của Điều 56 BLHS năm 1999, thì chế định thể hiện tính nhân đạo về thời hiệu thi hành BAHS không được phép áp dụng: a) không chỉ những đối với các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (được quy định tại các Điều 341 – 344 BLHS năm 1999 tương ứng với các Điều 277 – 279 BLHS năm 1985 trước đây); b) mà còn đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia (được quy định tại các Điều 78 – 91 BLHS năm 1999). Như vậy, phạm vi không áp dụng thời hiệu thi hành BAHS được mở rộng theo hướng nghiêm khắc hơn đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều đó phản ánh rõ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là kiên quyết bảo vệ an ninh quốc gia, cũng như thẳng tay trừng trị những người xâm phạm an ninh, hòa bình và ổn định của các nước khác trên thế giới.

IV.

1. Một là, bằng một số quy phạm mới trong BLHS năm 1999, chế định thời hiệu trong luật hình sự nước ta đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự của Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền.

2. Hai là, để không bị truy cứu TNHS (hoặc không phải chấp hành bản án hình sự) do hết thời hiệu được quy định trong PLHS, thì ngoài căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc (kể từ ngày tội phạm mà người đó thực hiện hoặc từ ngày bản án hình sự đã được tuyên nhất thiết phải qua một thời hạn nào ấy do luật định), người đó phải đáp ứng được một loạt những điều kiện cần đủ, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định.

3. Ba là, bên cạnh việc lĩnh hội quy định được thừa nhận chung của PLHS quốc tế về thời hiệu – không áp dụng chế định này đối với các tội xâm phạm hòa bình và an ninh của nhân loại, PLHS Việt Nam cũng còn có quy định riêng thể hiện tính nghiêm khắc hơn trong việc tăng cường xu hướng trấn áp về hình sự – không áp dụng chế định này đối với cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

4. Và cuối cùng, chế định thời hiệu trong luật hình sự là một trong các chế định cơ bản của luật hình sự Việt Nam nên việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa chế định này để làm sáng tỏ về mặt lý luận là nhiệm vụ quan trọng hiện nay của khoa học luật hình sự nước ta

Hiệu Lực Không Gian Của Bộ Luật Hình Sự Việt Nam

Hiệu lực không gian của Bộ luật hình sự. Phạm vi tác động về không gian của Bộ luật hình sự được quy định và hiểu như thế nào?

Bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào đươc ban hành đều phải xác định rõ phạm vi tác động về không gian và đối tượng tác động của văn bản pháp luật đó. Đó chính là hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật.

Lãnh thổ Việt Nam theo Bộ luật hình sự Việt Nam được hợp thành bởi ba bộ phận:

+ Lãnh thổ có thực: bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời thuộc chủ quyền của Việt Nam.

+Lãnh thổ mở rộng: Tàu thủy mang cờ hiệu của Việt Nam đang ngoài vùng biển quốc tế, máy bay dân dụng mang cờ hiệu của Việt Nam trên đường bay. Tàu chiến, máy bay quân sự của Việt Nam đang ở bất cứ nơi nào.

+Lãnh sự quán, Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài.

Hành vi được coi là phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nếu bắt đầu hoặc kết thúc hoặc diễn ra trọn vẹn trong phạm vi không gian nói trên.

2. Hiệu lực về không gian của Bộ luật hình sự

a) Đối với hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam

Như vậy, với quy định trên thì Bộ luật hình sự có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người đó là công dân Việt Nam, người nước ngoài, hay người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam.

Tuy nhiên, đối với đối tượng là người nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao là trường hợp ngoại lệ được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự: ” Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.

Như vậy, Bộ luật hình sự có các quy định ngoại lệ đối với các đối tượng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp với hai nhóm như sau:

+Theo pháp luật Việt Nam, theo hiệp định Quốc tế mà Việt Nam tham gia thì những đối tượng được hưởng các đắc quyền ngoại giao là thành viên của đoàn ngoại giao trở lên.

b) Đối với hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam

Trước hết, đối với công dân Việt Nam, người không có quốc tịch thường trú tại Việt Nam. Đối với đối tượng này khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng Bộ luật hình sự tại khoản 6 quy định: ” Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này”.

Như vậy, nếu công dân Việt nam hoặc người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội đã thực hiện được quy định trong Bộ luật hình sự. Vì theo nguyên tắc quốc tịch thì công dân Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam ở bất cứ nơi nào, đồng thời phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại.

Đối với người nước ngoài khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng Bộ luật hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 6 Bộ luật hình sự: ” Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”.

Đó là những tội được quy định tại Chương XXIV của Bộ luật hình sự – tội phá hoại hòa hình, chống loài người, chiến tranh, các tội phạm các quyền và lợi ích cơ bản của công dân Việt Nam.

Khái Niệm Tội Phạm Trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam

Bộ luật Hình sự được Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2017 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội.

I/ Khái niệm tội phạm, định nghĩa tội phạm, tội phạm là gì?:

Được quy định tại Điều 8 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

” 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”

1- Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm: Theo luật hình sự Việt Nam, tội phạm chỉ có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội của con người. Những tư tưởng suy nghĩ của con người nếu chưa thể hiện qua bên ngoài bằng hành vi (hành động hoặc không hành động) thì không thể bị coi là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với các dấu hiệu khác của tội phạm vì chỉ khi một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội thì mới bị quy định là tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện ở chỗ nó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội.

– Tính có lỗi của tội phạm: Lỗi là thái độ tâm lý và hành vi của con người (thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý) đã thực hiện và hậu quả đã xẩy ra.

– Tính trái pháp luật: Một hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm nếu “được quy định trong Bộ Luật Hình sự”. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: “Không ai bị kết tột vì những hành động hay những sơ suất mà khi bị buộc tội đó không phải là một hành vi phạm tội theo luật quốc gia hay luật quốc tế” (Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc”.

– Tính phải chịu hình phạt: Thể hiện ở chỗ chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt. Điều đó có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước. Việc áp dụng hình phạt không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn chấp hành hình phạt trong các trường hợp được Bộ Luật Hình sự quy định.

2- Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Có thể xử lý bằng các chế tài dân sự, hành chính.

Ví dụ: Hành vi đánh bạc bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội đánh bạc. Còn dưới 5.000.000 đồng thì chỉ bị xử phạt hành chính. (Điều 321 – Bộ Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017).

So với Điều 8 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 và Điều 8, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 có những điểm mới như:

– Bổ sung pháp nhân thương mại phạm tội là chủ thể của tội phạm;

– Khách thể tội phạm mà Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 được bộ luật này bảo vệ quy định rộng hơn, khái quát hơn, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, bổ sung “quyền con người” trước “quyền, lợi ích hơp pháp của công dân” nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân;

– Khái niệm tội phạm được bổ sung cụm từ “mà theo quy định của Bộ Luật này phải bị xử lý hình sự” nhằm thể hiện rõ hơn mối quan hệ tội phạm và trách nhiệm hình sự: tội phạm phải bị xử lý theo quy định của Bộ luật này và ngược lại, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

II. Phân loại tội phạm

Điều 9, Bộ Luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017

” 1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù; 3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù; 4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Việc phân loại tội phạm là căn cứ không chỉ là căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể mà còn để xây dựng các khung hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể trong Bộ luật này phù hợp với chính sách hình sự của nhà nước. Đây cũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan tố tụng nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các quy định của Bộ luật này trong thực tiễn xét xử.

So với Điều 8 Bộ Luật Hình sự năm 1999, Điều 9 Bộ Luật Hình sự năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung sau:

– Việc phân loại tội phạm được sửa đổi theo hướng quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn bằng cách thay thế cụm từ “gây nguy hại bằng các cụm từ ” có tính chất và mức độ nguy hiểm” cho phù hợp với căn cứ phân loại tội phạm; bổ sung cụm từ “do Bộ luật này quy định” sau cụm từ “mức cao nhất của khung hình phạt” nhằm khắc phục sự hiểu nhầm về bản chất của phân loại tội phạm; thay các cụm từ “đến 03 năm tù”, “đến 07 năm tù”, “đến 15 năm tù” và ” đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” bằng các cụm từ tương ứng: “phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”, “từ trên 03 năm đến 07 năm tù”, “từ trên 07 năm đến 15 năm tù” và “từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” nhằm bảo đảm sự đầy đủ, rõ ràng, chính xác hơn trong phân loại tội phạm.

– Bổ sung khoản 2 quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện.

Trân trọng!.

Nguồn Chứng Cứ Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN NHẬT LỆ

NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI – 2014

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Nhật Lệ

Lý luận chung về nguồn chứng cứ ……………………………………………. 7

1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ ……………………………………………………. 7 1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm ………………………………………………………… 10 1.2.

Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ …………………………………… 20

1.2.1. Vật chứng ………………………………………………………………………………. 20 1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng ………………………………… 21 1.3.

Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới …………………………………………………………………………… 32

1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn…………………………………………………………. 32 1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng. ………………………………………………………. 36 1.3.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình kết hợp tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. ……………… 41 Chương 2: NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ…………………………… 47

2.1.

Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ qua các thời kỳ lịch sử ………………………………………………………………….. 47

2.1.1. Nguồn chứng cứ trong pháp luật phong kiến Việt Nam ……………….. 47 2.1.2.

Nguồn chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến khi ban hành BLTTHS năm 1988 …………………………………………………………………. 52

2.1.3. Pháp luật Việt Nam về nguồn chứng cứ theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 …………………………………………………………………………… 57 2.2.

Thực trạng sử dụng nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam……………………………………………………………………………….. 64

2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự ……………………………………………………………. 64 2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự………………………………………………………… 72 Chương 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ……………………………………………..84 3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự … 84

3.2.

Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự ……………………………………. 91

3.3.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ……………. 92

3.3.1. Về khái niệm chứng cứ ……………………………………………………………. 93 3.3.2. Mở rộng nguồn chứng cứ …………………………………………………………. 94 3.3.3. Xác định quyền thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự – Luật sư, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ ………………….. 96

3.3.4. Về các nguyên tắc thu thập chứng cứ ………………………………………… 98 3.3.5. Về chế định giám định …………………………………………………………….. 99 3.3.6. Xây dựng Luật về chứng cứ nhằm nâng cao chất lượng xét xử án hình sự …………………………………………………………………………………. 101 3.4.

Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả quy định pháp luật về nguồn chứng cứ……………………………………………………………….. 103

KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………….. 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………… 109

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TT

Viết tắt

Nội dung từ

1.

BLHS

Bộ luật hình sự

2.

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3.

CQĐT

Cơ quan điều tra

4.

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

5.

DVBC

Duy vật biện chứng

6.

KSV

Kiểm sát viên

7.

TA

Tòa án

8.

TNHS

Trách nhiệm hình sự

9.

VKS

Viện kiểm sát

DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1: Tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa 2009-2012

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đi cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay, vấn đề tội phạm đang ngày một gia tăng và có những diễn biến hết sức phức tạp. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được Đảng và Nhà nước ta xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là hai mặt của nhiều vấn đề mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân và toàn xã hội. Để phát hiện và xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án. Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, chứng cứ luôn là một vấn đề không thể thiếu nhằm chứng minh một người có thực hiện hành vi phạm tội hay không. Chỉ có chứng cứ hợp pháp mới có giá trị chứng minh tội phạm. Một trong những điều kiện để chứng cứ được coi là hợp pháp là nó phải được rút ra từ một trong các nguồn chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS Việt Nam năm 2003. Việc nghiên cứu nguồn chứng cứ nói chung và nguồn chứng cứ trong vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng để rút ra những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự. Việc làm rõ lý luận và thực tiễn về

1

2

sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2003 của Trường Đại học Luật Hà Nội do ThS. Bùi Kiên Điện chủ nhiệm đề tài; “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương, Luận án tiến sĩ năm 2000; Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh, tạp chí kiểm sát số 12/2005; Nguồn chứng cứ: Lời khai của bị can, bị cáo, Vũ Xuân Thu, tạp chí kiểm sát số 10/2001… Như vậy, có thể nói ít có các công trình nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với hình thức là một đề tài độc lập, chuyên sâu. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là một vấn đề cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn – Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự. – Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: 1- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ (làm rõ khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm “nguồn chứng cứ” với một số khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương tiện chứng minh…). Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ, có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới; 3

4

5

6

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ 1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ Để nhận thức được về các sự vật, hiện tượng nói chung và nhận thức về nguồn chứng cứ nói riêng, con người phải dựa vào cơ sở phương pháp luận nhất định. Trong lịch sử nhân loại đã từng có các quan điểm khác nhau về nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đã từng tồn tại các quan điểm phi mác xít về vấn đề này như các quan điểm thần học, tôn giáo, quan điểm hình thức, quan điểm nhân chủng học, quan điểm niềm tin nội tâm của Thẩm phán… Lịch sử đã chứng minh để nhận thức được chính xác các sự vật, hiện tượng, con người cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa trên phương pháp biện chứng khoa học, việc nhận thức về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lý luận của chủ nghĩa DVBC về nhận thức thế giới được sử dụng như là cơ sở khoa học của nguồn chứng cứ và việc chứng minh thông qua những quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, vụ án hình sự được phản ánh bởi con người và các vật. Chủ nghĩa DVBC đã chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại và chịu sự tác động lẫn nhau. Bằng sự tác động qua lại đó, sự tồn tại của sự vật, hiện tượng này luôn để lại dấu vết ở sự vật, hiện tượng khác. Theo BLHS Việt Nam thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt” [23, tr.50]. Theo khái niệm trên, “tội phạm trước hết là hành vi của con người, những gì

7

mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bằng hành vi thì không phải là tội phạm, hành vi phạm tội là hành vi đã thực tế xảy ra trong thế giới khách quan và là một hiện tượng thuộc thế giới khách quan” [23, tr.50]. Chính vì sự tồn tại khách quan mà tội phạm cũng để lại các dấu vết nhất định. Bằng cách thu thập các dấu vết để lại và thông qua chúng, con người có thể xác định được sự thật khách quan của vụ án. Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của từng loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau để đảm bảo cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Thủ tục thu thập kiểm tra nguồn chứng cứ vật chất sẽ khác so với thủ tục kiểm tra nguồn chứng cứ phi vật chất. Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được sự thật khách quan của vụ án hình sự. Chủ nghĩa DVBC khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan. Trong sự tồn tại bất tận của thế giới khách quan, nhận thức của con người là tương đối nhưng cùng với sự phát triển của tự nhiên và xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật cũng như sự phụ thuộc vào nhiệm vụ nhận thức cụ thể, nhận thức của con người về thế giới khách quan ngày càng tiến dần đến tuyệt đối. Trong TTHS, phải nói rằng tội phạm là một hiện tượng xã hội có muôn hình, muôn vẻ. Tuy nhiên, các yếu tố có ý nghĩa pháp lý hình sự của một tội phạm lại được xác định rất cụ thể. Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của tội phạm mà người làm luật quy định đối tượng chứng minh, giới hạn các vấn đề chứng minh ở một phạm vi nhất định. Đó là “sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân người phạm tội cũng như các thiệt hại do tội phạm gây ra” [12, tr.43]. Như vậy, nhiệm vụ chứng minh trong TTHS là rất cụ thể và được giới hạn trong phạm vi nhất định. Nhìn từ góc độ nhiệm vụ tố tụng đặt ra, có thể nói việc chứng minh trong TTHS có thể đạt

8

được sự thật khách quan tuyệt đối. Nói cách khác, với quan điểm này thì bất kỳ tội phạm nào xảy ra, con người đều có thể phát hiện và chứng minh được. Thứ ba, học thuyết về nhận thức của CNDVBC là cơ sở phương pháp luận đặc biệt quan trọng trong lý luận về nguồn chứng cứ trong luật TTHS nước ta. Tinh thần cơ bản của học thuyết Mác – Lê nin về nhận thức là “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [26, tr.179]. Từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh động), con người thu nhận các thông tin về tội phạm, từ đó có sự kiểm tra, đánh giá thông qua tư duy của mình, từ đó có kết luận về các tình tiết nói riêng và về tội phạm nói chung. Học thuyết về nhận thức của CNDVBC là học thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người; cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý thức. Ý thức của con người có khả năng phản ánh chính xác, khách quan hiện thực khách quan, là xuất phát điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về nguồn chứng cứ, cho lập pháp TTHS về nguồn chứng cứ và áp dụng các quy định của pháp luật về nguồn chứng cứ trong thực tiễn. Thực tiễn là thước đo của nhận thức. Mặc dù chứng minh trong TTHS có những nét đặc trưng riêng, là nhận thức về một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ với phạm vi và giới hạn xác định. Tuy nhiên, quan điểm này của học thuyết DVBC về nhận thức không phải là ngoại lệ của quá trình chứng minh. Do quá trình chứng minh trong TTHS có những đặc trưng riêng nên việc dùng thực tiễn làm thước đo trong nhận thức về tội phạm cũng mang những nét đặc trưng riêng. Điều này thể hiện trong biện pháp thu thập chứng cứ như các biện pháp khám nghiệm, giám định, thực nghiệm điều tra… để tái tạo lại thực tiễn tội phạm, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác và kiểm tra lại nhận thức chung về tội phạm. Thông qua các nguồn chứng cứ

9

khác nhau, con người có sự đối chiếu, so sánh các chứng cứ để tìm ra chân lý của sự việc. Thứ tư, phương pháp biện chứng đặt nền móng cho việc áp dụng các quy luật của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Các nội dung quan trọng của phép biện chứng trong nhận thức như nguyên tắc toàn diện, đầy đủ, cụ thể, hệ thống… đóng vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh. Phương pháp biện chứng của triết học Mác – Lê nin được thể hiện tương đối đầy đủ tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án” [12, tr.45]. CNDVBC chỉ ra rằng khi xem xét thế giới khách quan, cần đặt trong sự vận động, biến đổi không ngừng. Lê nin đã từng nói: thế giới tồn tại trong vận động. Luận điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ, không thể tách rời từng chứng cứ khi chứng minh tội phạm mà phải xem xét đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ khác nhau và đặt trong thực tế diễn biến vụ án. 1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm 1.1.2.1. Khái niệm nguồn chứng cứ Nguồn chứng cứ trong TTHS là một trong những vấn đề được các nhà lập pháp trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đề cập từ khá sớm, trong lịch sử đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng để đưa ra một khái niệm về nguồn chứng cứ hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên các quan niệm của họ luôn có sự mâu thuẫn nhất định. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do xuất phát từ những thế giới quan khác nhau, do trình độ phát triển không đều về kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật.. 10

11

Theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ được hiểu theo hai khía cạnh: thứ nhất, nguồn là hình thức biểu hiện của chứng cứ, cho phép ta nhận thức được một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ; thứ hai, nguồn là nơi chứa đựng chứng cứ mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ. Quan niệm này có nét gần gũi với quan niệm cho rằng nguồn chứng cứ là cái rút ra được chứng cứ: “…nguồn chứng cứ với nghĩa là nơi là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tìm ra được những tình tiết có giá trị chứng minh về tội phạm” [9, tr.5]. Trong khi đó, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: “Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ thường được gọi bằng thuật ngữ khác là phương tiện chứng minh” [24, tr.168]. Có thể thấy rằng, việc sử dụng cụm từ “phương tiện chứng minh” thay thế cho cụm từ “nguồn chứng cứ” như vậy là thiếu chính xác, bởi lẽ khái niệm nguồn chứng cứ không đồng nhất với khái niệm phương tiện chứng minh. Nếu như nguồn chứng cứ được hiểu là nơi mà từ đó các CQTHTT cũng như người THTT có thể tìm ra chứng cứ trong vụ án hình sự, thì phương tiện chứng minh được hiểu là chứng cứ được chủ thể sử dụng để chứng minh. Như vậy, chứng cứ mới được coi là phương tiện chứng minh, còn nguồn chứng cứ không thể là phương tiện chứng minh, mà chỉ là nơi mà từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ thông qua hiểu rõ bản chất của một sự vật, hiện tượng ta mới có thể nhận diện chính xác sự vật, hiện tượng đó là gì? Để làm rõ khái niệm cũng như thuật ngữ nguồn chứng cứ, ta cần phải hiểu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ. Để làm rõ bản chất của nguồn chứng cứ, ta không thể không đề cập đến chứng cứ, bởi vì chứng cứ và nguồn chứng cứ có mối quan hệ qua lại với nhau, chứng cứ và nguồn chứng cứ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ như một số học giả quan niệm được. Có thể

12

Bạn đang đọc nội dung bài viết Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!