Cập nhật nội dung chi tiết về Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Với cuộc sống của những người dân bình thường, việc đạt được chính sách lạm phát mục tiêu không phải lúc nào cũng là sự lựa chọn tốt nhất. Dĩ nhiên, việc duy trì được sự kiểm soát trong tình trạng lạm phát cao là điều có lợi, do điều này giúp bảo toàn giá trị của đồng tiền hiện hành.
Tuy nhiên, việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, vì điều này làm cho những khoản tiền tiết kiệm của họ liên tục mất giá.
Koichi Hamada, Giáo sư danh dự Đại học Yale và là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, đã đưa ra nhận định như vậy trong bài viết thuộc dự án Project Syndicate. Bản dịch bài viết được đăng tải độc quyền trên VietnamPlus.
Mỹ, châu Âu, và Nhật Bản đang nỗ lực đạt được những tiến bộ tích cực về kinh tế. Ở Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp đang giảm xuống, hiện chỉ ở trên mức 4% một chút. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao ở khu vực đồng euro, đến gần 9%, tuy nhiên nó vẫn cho thấy tiến bộ có ý nghĩa so với khoảng một thập niên trước đó.
Còn Nhật Bản đã đạt được tỷ lệ có công ăn việc làm hầu như hoàn toàn, với nhu cầu về lao động cao đến mức những người mới ra trường giờ đây không chỉ có thể tìm thấy công ăn việc làm, mà họ còn có thể lựa chọn công việc cho mình.
Tuy nhiên, vẫn còn một lĩnh vực chủ chốt vẫn chưa có tiến bộ rõ rệt, đó là lạm phát. Trong khi chỉ số giá tiêu dùng đạt mức 2,2% vào tháng Mười vừa qua, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Nhật Bản cho đến nay vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra là CPI chỉ khoảng 2%, với tỷ lệ tăng giá bình quân hàng năm của khu vực đồng euro xoay quanh mức 1,5% còn của Nhật Bản thì trong phạm vi 1%.
Mua hàng tại một siêu thị ở Nhật Bản. (Nguồn: AFP)
Có những lý do chính đáng của việc nỗ lực đạt được chính sách lạm phát mục tiêu. Các thị trường tiền tệ sẽ loại bỏ những lãi suất zero. Những lo ngại về việc một số đồng tiền tăng giá, gây phương hại cho sự cạnh tranh trong xuất khẩu, sẽ dịu bớt, do toàn cầu hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ tiếp tục tạo ra môi trường cạnh tranh cho mọi người. Và chính sách nới lỏng tiền tệ mà các ngân hàng trung ương quan trọng trên thế giới theo đuổi trong những năm gần đây sẽ được chứng minh là đúng đắn.
Tuy nhiên, với cuộc sống của những người dân bình thường thì việc đạt được chính sách lạm phát mục tiêu không phải lúc nào cũng là sự lựa chọn tốt nhất. Dĩ nhiên, việc duy trì được sự kiểm soát trong tình trạng lạm phát cao là điều có lợi, do điều này giúp bảo toàn giá trị của đồng tiền hiện hành. Song, việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, vì điều này làm cho những khoản tiền tiết kiệm của họ liên tục mất giá, gây phương hại cho sự thịnh vượng của họ.
Việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn
Cố Giáo sư Arthur Okun, một trong những giáo sư mà tôi theo học tại Đại học Yale trước khi ông chuyển sang làm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, đã lập ra cái gọi là chỉ số khốn khổ. Chỉ số này ngoài việc đề cập đến tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tỷ lệ thất nghiệp được quan tâm nhất, còn đưa ra một cái nhìn sâu vào việc những công dân bình thường làm ăn kiếm sống như thế nào.
Chỉ số của Okun – một phép cộng giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp – được đưa ra dựa trên giả định cho rằng một sự gia tăng về lạm phát, giống như một sự gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp, sẽ buộc một quốc gia phải trả giá về mặt kinh tế và xã hội.
Xếp hàng chờ xin việc ở Tokyo. (Nguồn: AFP)
Thực tế là mục tiêu lạm phát chỉ là một phương tiện – tạo điều kiện cho tình trạng công ăn việc làm đầy đủ và tốc độ tăng trưởng GDP nhanh hơn – chứ bản thân nó không phải là đích đến. Và, ít nhất đối với Nhật Bản, tiến bộ thực chất nhằm vào mục tiêu đó cho đến nay đã đạt được, mặc dù chưa hoàn thành chính sách lạm phát mục tiêu của Ngân hàng Nhật Bản. Những tín hiệu về tình trạng công ăn việc làm đầy đủ trên thị trường cho người có công ăn việc làm ổn định có thể tạo điều kiện cho một sự gia tăng khiêm tốn về giá cả-tiền lương. Điều này không giống với tình hình trước năm 2013, khi việc thực hiện chương trình cái cách kinh tế của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, còn gọi là Abenomics, đã kết thúc một thời kỳ áp dụng chính sách tiền tệ khắc khổ.
Tuy nhiên, điều này đã không ngăn cản những người chỉ trích Abenomics tiếp tục nhắc đến việc cho đến nay vẫn không hoàn thành chính sách lạm phát mục tiêu. Câu hỏi đặt ra là tại sao.
Cách đây không lâu, tôi đặt câu hỏi đó với một nhân vật phụ trách chính sách tiền tệ (mà tôi không được tiết lộ tên tuổi vị này ở đây). Thay vì đưa ra câu trả lời thẳng vào vấn đề, ông này lại đáp lại rằng đây là một vấn đề “tế nhị,” và cuối cùng tuyên bố rằng cho dù tỷ lệ thất nghiệp có thấp đi thế nào đi chăng nữa thì chính sách lạm phát mục tiêu sẽ tiếp tục được theo đuổi.
Chỉ số khốn khổ có vai trò trong việc giúp chúng ta đánh giá tình trạng các nền kinh tế cũng như thành công của các chính sách
Kiểu suy nghĩ như thế này là rất phổ biến trong số các nhà kinh tế, đặc biệt là thế hệ đã bị cuốn đi bởi cuộc cách mạng “những kỳ vọng hợp lý” trong kinh tế vĩ mô. Đội ngũ các nhà kinh tế này coi kinh tế học là việc nghiên cứu các mô hình, trong đó những kỳ vọng của các tác nhân có thể được cho là hợp lý và thích hợp với mô hình. Từ góc nhìn này, những kỳ vọng về lạm phát có thể được coi hoặc là những điều dự đoán lý tưởng về tương lai, hoặc ít nhất là những dự đoán hợp lý, với việc độ chính xác và đúng đắn của chúng chỉ có thể bị tác động bất lợi bởi những hạn chế về thông tin mà các bên tham gia trong lĩnh vực kinh tế nhận được.
Trong khi điều quan trọng là phải thừa nhận những giá trị của chính sách lạm phát mục tiêu, thì chỉ số khốn khổ cũng đóng một vai trò trong việc giúp chúng ta đánh giá tình trạng các nền kinh tế cũng như thành công của các chính sách./.
Người vô gia cư ngủ trên ghế trong một công viên ở Tokyo, Nhật Bản. (Nguồn: AFP)
Người dịch: Nguyễn Văn Lập
Share this:
Tweet
Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Có Phải Là Lựa Chọn Tốt Nhất?
Với cuộc sống của những người dân bình thường, việc đạt được chính sách lạm phát mục tiêu không phải lúc nào cũng là sự lựa chọn tốt nhất. Dĩ nhiên, việc duy trì được sự kiểm soát trong tình trạng lạm phát cao là điều có lợi, do điều này giúp bảo toàn giá trị của đồng tiền hiện hành. Tuy nhiên, việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, vì điều này làm cho những khoản tiền tiết kiệm của họ liên tục mất giá. Koichi Hamada, Giáo sư danh dự Đại học Yale và là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, đã đưa ra nhận định như vậy trong bài viết thuộc dự án Project Syndicate. Bản dịch bài viết được đăng tải độc quyền trên VietnamPlus.
Mỹ, châu Âu, và Nhật Bản đang nỗ lực đạt được những tiến bộ tích cực về kinh tế. Ở Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp đang giảm xuống, hiện chỉ ở trên mức 4% một chút. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao ở khu vực đồng euro, đến gần 9%, tuy nhiên nó vẫn cho thấy tiến bộ có ý nghĩa so với khoảng một thập niên trước đó.
Còn Nhật Bản đã đạt được tỷ lệ có công ăn việc làm hầu như hoàn toàn, với nhu cầu về lao động cao đến mức những người mới ra trường giờ đây không chỉ có thể tìm thấy công ăn việc làm, mà họ còn có thể lựa chọn công việc cho mình.
Tuy nhiên, vẫn còn một lĩnh vực chủ chốt vẫn chưa có tiến bộ rõ rệt, đó là lạm phát. Trong khi chỉ số giá tiêu dùng đạt mức 2,2% vào tháng Mười vừa qua, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Nhật Bản cho đến nay vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra là CPI chỉ khoảng 2%, với tỷ lệ tăng giá bình quân hàng năm của khu vực đồng euro xoay quanh mức 1,5% còn của Nhật Bản thì trong phạm vi 1%.
Có những lý do chính đáng của việc nỗ lực đạt được chính sách lạm phát mục tiêu. Các thị trường tiền tệ sẽ loại bỏ những lãi suất zero. Những lo ngại về việc một số đồng tiền tăng giá, gây phương hại cho sự cạnh tranh trong xuất khẩu, sẽ dịu bớt, do toàn cầu hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ tiếp tục tạo ra môi trường cạnh tranh cho mọi người. Và chính sách nới lỏng tiền tệ mà các ngân hàng trung ương quan trọng trên thế giới theo đuổi trong những năm gần đây sẽ được chứng minh là đúng đắn.
Tuy nhiên, với cuộc sống của những người dân bình thường thì việc đạt được chính sách lạm phát mục tiêu không phải lúc nào cũng là sự lựa chọn tốt nhất. Dĩ nhiên, việc duy trì được sự kiểm soát trong tình trạng lạm phát cao là điều có lợi, do điều này giúp bảo toàn giá trị của đồng tiền hiện hành. Song, việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, vì điều này làm cho những khoản tiền tiết kiệm của họ liên tục mất giá, gây phương hại cho sự thịnh vượng của họ.
Cố Giáo sư Arthur Okun, một trong những giáo sư mà tôi theo học tại Đại học Yale trước khi ông chuyển sang làm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, đã lập ra cái gọi là chỉ số khốn khổ. Chỉ số này ngoài việc đề cập đến tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tỷ lệ thất nghiệp được quan tâm nhất, còn đưa ra một cái nhìn sâu vào việc những công dân bình thường làm ăn kiếm sống như thế nào.
Chỉ số của Okun – một phép cộng giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp – được đưa ra dựa trên giả định cho rằng một sự gia tăng về lạm phát, giống như một sự gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp, sẽ buộc một quốc gia phải trả giá về mặt kinh tế và xã hội.
Thực tế là mục tiêu lạm phát chỉ là một phương tiện – tạo điều kiện cho tình trạng công ăn việc làm đầy đủ và tốc độ tăng trưởng GDP nhanh hơn – chứ bản thân nó không phải là đích đến. Và, ít nhất đối với Nhật Bản, tiến bộ thực chất nhằm vào mục tiêu đó cho đến nay đã đạt được, mặc dù chưa hoàn thành chính sách lạm phát mục tiêu của Ngân hàng Nhật Bản. Những tín hiệu về tình trạng công ăn việc làm đầy đủ trên thị trường cho người có công ăn việc làm ổn định có thể tạo điều kiện cho một sự gia tăng khiêm tốn về giá cả-tiền lương. Điều này không giống với tình hình trước năm 2013, khi việc thực hiện chương trình cái cách kinh tế của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, còn gọi là Abenomics, đã kết thúc một thời kỳ áp dụng chính sách tiền tệ khắc khổ.
Tuy nhiên, điều này đã không ngăn cản những người chỉ trích Abenomics tiếp tục nhắc đến việc cho đến nay vẫn không hoàn thành chính sách lạm phát mục tiêu. Câu hỏi đặt ra là tại sao.
Cách đây không lâu, tôi đặt câu hỏi đó với một nhân vật phụ trách chính sách tiền tệ (mà tôi không được tiết lộ tên tuổi vị này ở đây). Thay vì đưa ra câu trả lời thẳng vào vấn đề, ông này lại đáp lại rằng đây là một vấn đề “tế nhị,” và cuối cùng tuyên bố rằng cho dù tỷ lệ thất nghiệp có thấp đi thế nào đi chăng nữa thì chính sách lạm phát mục tiêu sẽ tiếp tục được theo đuổi.
Kiểu suy nghĩ như thế này là rất phổ biến trong số các nhà kinh tế, đặc biệt là thế hệ đã bị cuốn đi bởi cuộc cách mạng “những kỳ vọng hợp lý” trong kinh tế vĩ mô. Đội ngũ các nhà kinh tế này coi kinh tế học là việc nghiên cứu các mô hình, trong đó những kỳ vọng của các tác nhân có thể được cho là hợp lý và thích hợp với mô hình. Từ góc nhìn này, những kỳ vọng về lạm phát có thể được coi hoặc là những điều dự đoán lý tưởng về tương lai, hoặc ít nhất là những dự đoán hợp lý, với việc độ chính xác và đúng đắn của chúng chỉ có thể bị tác động bất lợi bởi những hạn chế về thông tin mà các bên tham gia trong lĩnh vực kinh tế nhận được.
Trong khi điều quan trọng là phải thừa nhận những giá trị của chính sách lạm phát mục tiêu, thì chỉ số khốn khổ cũng đóng một vai trò trong việc giúp chúng ta đánh giá tình trạng các nền kinh tế cũng như thành công của các chính sách./.
Chính Sách Tiền Tệ Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Áp Dụng Ở Việt Nam
(thitruongtaichinhtiente.vn) – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu vẫn còn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Bài viết cung cấp những bằng chứng thực nghiệm để chỉ ra điểm nghẽn trong việc hướng tới điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
Tóm tắt: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu vẫn còn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Trong bài nghiên cứu này, tác giả cung cấp những bằng chứng thực nghiệm để chỉ ra điểm nghẽn trong việc hướng tới điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu ở Việt Nam chính là công cụ lãi suất (LS).
Từ khoá: chính sách tiền tệ, lạm phát mục tiêu, lãi suất
Inflation targeting monetary policy and its applicability in Vietnam
Abstract: The State Bank of Vietnam has intention of moving to inflation targeting strategy long time ago. However, the adoption of inflation targeting framework in Vietnam is still a challenge. In this paper, the author will provide empirical evidences to prove that the use of interest rate is an obstacle for Vietnam to move to inflation targeting framework.
Key words: monetary policy, inflation targeting, Vietnam
1. Giới thiệu
Lịch sử khoa học cho thấy CSTT lạm phát mục tiêu là sự lựa chọn tối ưu của nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới. Trong một khảo sát của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) dành cho 88 quốc gia phi công nghiệp (non-industrial countries), hơn một nửa các quốc gia này thể hiện mong muốn chuyển đổi sang cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu trong tương lai và Việt Nam cũng được xếp vào nhóm các quốc gia tiềm năng có khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu (Batini và Laxton, 2006). Quyết tâm chuyển đổi sang cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu thể hiện rõ trong đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ: “Thực hiện điều hành CSTT dựa trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền; đồng thời xây dựng các điều kiện cần thiết để chuyển dần sang thực hiện điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết LS. Tạo lập các điều kiện cần thiết để sau năm 2010, NHNN chuyển sang điều hành CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu”. Sau năm 2010, gần 3/4 các quốc gia được IMF đánh giá là những quốc gia có tiềm năng chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu đã thực hiện được mong muốn của họ. Trong khi đó, đến năm 2020 Việt Nam vẫn đang trên con đường tiến tới cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu.
Đối với điều kiện đầu tiên, đã có nghiên cứu thực nghiệm chứng minh được Việt Nam không để xảy ra hiện tượng áp chế tài chính bởi thâm hụt ngân sách ở Việt Nam không phải là nguyên nhân gây ra lạm phát (Nguyen&Nguyen, 2010; Hoang, 2014). Do đó, có thể vướng mắc Việt Nam đang gặp phải là vấn đề độc lập công cụ CSTT để đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát. Cụ thể, Debelle (2001) phân tích những trở ngại thường gặp đối với các nền kinh tế mới nổi khi áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu là ở các quốc gia này mối quan hệ giữa công cụ CSTT và lạm phát thường không rõ ràng. Nếu các NHTW áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu thường sử dụng công cụ gián tiếp là LS để điều hành CSTT thì NHTW ở nhiều nước đang phát triển vẫn sử dụng những công cụ trực tiếp để đưa ra các mệnh lệnh hành chính phục vụ việc điều hành CSTT như hạn mức tín dụng, trần LS huy động. Để làm rõ hơn về vấn đề độc lập công cụ CSTT ở Việt Nam, trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung phân tích về mối quan hệ giữa công cụ LS ở Việt Nam và lạm phát để xem xét công cụ này có thực sự hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát như các quốc gia áp dụng lạm phát mục tiêu đang sử dụng. Bên cạnh đó, bài viết cũng xem xét Việt Nam có thoả mãn điều kiện thứ hai hay không?
Theo báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 (Ngân hàng Thế giới-WB, 2016), NHNN đang có quá nhiều mục tiêu trong việc điều hành CSTT, trong khi nhiều NHTW trên thế giới chỉ được giao nhiệm vụ ổn định giá cả. Từ năm 2012 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn được kiểm soát ở mức một con số, tuy nhiên, do không có sự cam kết về ổn định giá cả trong dài hạn nên sự kỳ vọng tăng giá cả luôn tồn tại. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu của WB đã đề xuất nên lựa chọn giữa việc quản lý chặt tỷ giá hoặc tập trung vào mục tiêu lạm phát. Mặc dù trong Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8/3/ 2018 của Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định rõ mục tiêu kiểm soát lạm phát là ưu tiên cao nhất của CSTT Việt Nam, nhưng đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, ổn định tỷ giá vẫn là vấn đề quan trọng cần phải xem xét trước khi Việt Nam áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu. Bởi, nghiên cứu khoa học đã chứng minh tỷ giá là nhân tố quan trọng tác động tới lạm phát ở Việt Nam (Nguyen & Nguyen, 2010). Liệu chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý như thời gian qua của Việt Nam có ảnh hưởng tới việc mục tiêu kiểm soát lạm phát của CSTT hay không? Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ đi sâu phân tích để làm rõ vấn đề này.
2. Cơ sở lý thuyết
Trong một nền kinh tế đóng, các quyết định CSTT tác động tới lạm phát thông qua LS. Lãi suất được điều chỉnh tăng lên sẽ làm cho hộ gia đình và doanh nghiệp tiêu thụ và đầu tư ít lại. LS tăng cũng làm cho các ngân hàng thắt chặt tín dụng, làm cho các cá nhân và doanh nghiệp chi tiêu ít hơn. Khi nền kinh tế chi tiêu ít hơn thì nhu cầu sản xuất ít hơn và ít áp lực lên giá cả (do cầu giảm).
Trong một nền kinh tế mở, tỷ giá là một kênh truyền dẫn khác mà thông qua nó, các quyết định CSTT tác động tới lạm phát và kỳ vọng lạm phát. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NHTW quyết định thắt chặt CSTT thông qua việc tăng LS thì việc làm này có thể làm tăng giá đồng nội tệ. Cụ thể, LS tăng làm thu hút thêm nhiều dòng vốn đầu tư từ các thị trường khác đổ vào thị trường nội địa. Các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn vào thị trường nội địa nên sẽ có nhu cầu mua nội tệ nhiều hơn. Sự gia tăng nhu cầu đồng nội tệ làm cho đồng nội tệ lên giá. Giả sử các yếu tố khác không đổi, đồng nội tệ sẽ tăng giá cho tới khi chênh lệch giữa LS trong nước và ngoài nước bằng mức độ tăng giá của đồng nội tệ.
Các NHTW điều hành CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu thường chọn LS làm công cụ chính. Việc điều hành công cụ LS sẽ gặp khó khăn nếu NHTW vừa muốn ổn định tỷ giá, vừa muốn kiểm soát lạm phát. Nếu như không chịu áp lực ổn định tỷ giá thì việc điều hành công cụ LS hướng tới ổn định lạm phát sẽ hiệu quả hơn. Nếu như lạm phát có nguy cơ tăng cao, NHTW sẽ điều chỉnh tăng LS. Từ công thức của lý thuyết ngang bằng LS có bảo hiểm thì giá trị đồng nội tệ sẽ giảm hay tỷ giá sẽ tăng. Nếu như NHTW muốn giữ cho tỷ giá ổn định, nghĩa là không cho tỷ giá tăng, thì việc tăng LS không giúp cho NHTW đạt được mục tiêu này. Do đó, NHTW chỉ có thể chọn 1 trong 2 mục tiêu: ổn định tỷ giá hoặc ổn định lạm phát.
Hình 1 . Cơ chế truyền dẫn của công cụ LS
Dựa trên phân tích, để đánh giá hiệu quả của công cụ LS trong việc điều hành hướng tới kiểm soát LS, tác giả sử dụng mô hình hồi quy vectơ bao gồm các biến như sau: LS, tỷ giá, tổng cầu và lạm phát. Ngoài ra, do hiệu ứng gián tiếp của tỷ giá tác động lên lạm phát thông qua tổng cầu trong nước và ngoài nước, mô hình sẽ tách bạch tác động của tổng cầu trong nước và ngoài nước lên lạm phát. Từ đó, mô hình nghiên cứu có thể đánh giá được mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát (exchange rate pass-through). Mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát càng thấp thì NHTW càng dễ dàng điều hành chính sách hướng đến kiểm soát lạm phát (Choudhri, Faruqee & Hakura, 2005).
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1.Biến nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu trong bài báo này thực chất là mô hình phản ánh cơ chế dẫn truyền của CSTT thông qua công cụ LS. Mô hình này cũng đã được áp dụng nghiên cứu ở Tunisia (Boughrara, 2007). Mô hình nghiên cứu gồm 5 biến số cần được thu thập dữ liệu như sau:
– Biến LS: Có nhiều loại LS trong một nền kinh tế, tuy nhiên, LS được chọn trong mô hình này là LS được lựa chọn và quyết định bởi NHTW làm cơ sở cho những loại LS khác trên thị trường.
– Biến tỷ giá: Tỷ giá danh nghĩa sẽ được chọn là đại diện cho biến tỷ giá trong mô hình.
– Biến lạm phát: Chỉ số lạm phát được sử dụng trong nghiên cứu là chỉ số lạm phát toàn phần (Headline Inflation).
– Biến tổng cầu trong nước: Chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam được chọn là biến đại diện cho tổng cầu trong nước.
– Biến tổng cầu nước ngoài: Nghiên cứu sử dụng thêm biến chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ đại diện cho tổng cầu nước ngoài.
3.2.Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu về các biến số nghiên cứu đều được thu thập theo tháng, trong khoảng thời gian từ tháng 1/2011 tới tháng 6/2018. Số liệu nghiên cứu trong bài báo được trích từ nguồn dữ liệu IFS của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nguồn dữ liệu của NHNN và nguồn dữ liệu ARIC của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Bảng 1. Tổng hợp các biến số nghiên cứu
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
3.3.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã thiết lập mô hình hồi quy vector gồm 5 biến: lạm phát, LS, tỷ giá, tổng cầu trong nước và tổng cầu nước ngoài. Bản chất mô hình này là mô hình phản ảnh cơ chế dẫn truyền CSTT của công cụ LS. Có nhiều loại LS khác nhau, tuy nhiên, LS đại diện cho công cụ LS của NHTW là LS chính sách (LS do NHTW quyết định và công bố để làm cơ sở cho các loại LS khác trên thị trường). Trong trường hợp của Việt Nam, NHTW quyết định và công bố 2 loại LS chính sách là LS tái cấp vốn và LS tái chiết khấu. Do có 2 loại LS đóng vai trò LS chính sách nên tác giả xây dựng 2 mô hình để kiểm định vai trò của 2 loại LS này. Do các chuỗi dữ liệu trong nghiên cứu đều dừng ở sai phân bậc 1 nên tác giả vận dụng mô hình hiệu chỉnh sai số VECM trong việc phân tích dữ liệu. Kết quả phân tích từ hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai sẽ cho thấy công cụ LS ở Việt Nam có thực sự tác động tới lạm phát hay không cũng như tác động của LS tới tỷ giá. Toàn bộ dữ liệu nghiên cứu được xử lý trên phần mềm Stata14. Kết hợp với các phân tích định tính, tác giả sẽ đối chiếu các kết quả nghiên cứu định lượng có phù hợp với thực trạng hiện nay ở Việt Nam hay không. Cuối cùng, dựa trên các kết quả nghiên cứu định lượng và định tính, tác giả đưa ra những đánh giá về khả năng áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
3.4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất: Ở Việt Nam, tồn tại mối quan hệ giữa công cụ LS và lạm phát.
Giả thuyết nghiên cứu thứ hai: Việc điều hành công cụ LS chỉ hướng tới việc kiểm soát lạm phát.
Nếu như kết quả nghiên cứu từ mô hình đúng như 2 giả thuyết nêu trên thì Việt Nam thoả mãn điều kiện áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu. Trong trường hợp ngược lại, Việt Nam chưa thoả mãn điều kiện để áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả thống kê
Mô hình nghiên cứu thứ nhất bao gồm 5 biến: LS tái cấp vốn (R1), tỷ giá (EX), lạm phát (INFLATION), chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam (IPVN) và chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ (IPUS). Số quan sát của 5 chuỗi dữ liệu là 90.
Kết quả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình được tính toán từ phần mềm Stata như sau:
Bảng 2.1. Thống kê các biến trong mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.2. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu
Để kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu, tác giả thực hiện kiểm định nghiệm Dickey-Fuller. Với các chuỗi số liệu thu thập được, kết quả kiểm định Dickey Fuller chỉ rõ các chuỗi dữ liệu không dừng ở bậc 0 (do giá trị thống kê lớn hơn mức ý nghĩa 10%). Tuy nhiên, sai phân bậc 1 của các chuỗi dữ liệu đều dừng hay tích hợp bậc 1, I (1), trong khoảng tin cậy 99% (do giá trị thống kê nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%). Kết quả kiểm định được thể hiện cụ thể ở bảng 2.2.
Bảng 2.2. Kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu của mô hình thứ nhất
Ghi chú: ***: Mức ý nghĩa 1%; **: Mức ý nghĩa 5%; *: Mức ý nghĩa 10%
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.3. Xác định độ trễ tối ưu của các chuỗi dữ liệu
Kết quả tính toán lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình được thực hiện trên phần mềm Stata 14 như sau:
Nếu chọn độ trễ tối ưu dựa trên tiêu chuẩn AIC thì độ trễ tối ưu của mô hình là 1, tức là giá trị hiện tại của biến hiện tại chịu tác động của các biến trễ của 1 tháng trước đó.
Bảng 2.3. Xác định độ trễ tối ưu mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.4. Kiểm định đồng liên kết
Sau khi xác định độ trễ tối ưu, tác giả tiến hành đồng liên kết theo phương pháp Johansen. Kết quả tính toán từ phần mềm Stata 14 như sau:
Bảng 2.4. Kết quả kiểm định Johansen dành cho mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.5. Kết quả phân tích cú sốc và phân rã phương sai
Để tiếp tục kiểm tra mối quan hệ giữa lạm phát và các công cụ chính sách tiền tệ, tác giả tiếp tục thực hiện phân tích các cú sốc thông qua hàm phản ứng đẩy IRF với lựa chọn độ dài chu kỳ là 24 tháng (độ trễ này thấy ảnh hưởng rõ ràng của các quyết định chính sách) (hình 2). Kết quả bất ngờ là lạm phát dường như hoàn toàn không phản ứng trước các cú sốc từ LS tái cấp vốn (R1) (đường lạm phát nằm trùng với trục Ox). Trong khi đó, tỷ giá lại phản ứng mạnh trước cú sốc LS. Như vậy, việc điều chỉnh LS tái cấp vốn có thể không ảnh hưởng nhiều tới lạm phát nhưng lại ảnh hưởng tới tỷ giá. Hình 2 còn cho thấy sự thay đổi của LS tái cấp vốn dường như hoàn toàn không tác động tới tổng cầu. Kết quả này có thể cho thấy rằng việc điều hành công cụ LS ở Việt Nam hướng về mục tiêu ổn định tỷ giá nhiều hơn là kiểm soát lạm phát. Đây cũng là bằng chứng cho thấy NHNN ưu tiên mục tiêu ổn định tỷ giá nhiều hơn mục tiêu kiểm soát lạm phát. Khi kiểm soát lạm phát chưa phải là mục tiêu ưu tiên trong việc điều hành của NHTW thì khuôn khổ điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu chưa thể áp dụng.
Hình 2. Kết quả phân tích cú sốc LS tái cấp vốn (R1)
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
Kết quả phân rã phương sai cũng cho thấy công cụ LS tái cấp vốn đóng góp rất ít vào việc giải thích sự thay đổi của lạm phát. Ở kỳ 12 (cuối năm đầu tiên kể từ khi có cú sốc LS), sự thay đổi của lạm phát chỉ được giải thích 2,6% bởi sự thay đổi của LS tái cấp vốn. Ở kỳ 24 (cuối năm thứ hai kể từ khi có cú sốc LS), mức độ giải thích về sự thay đổi của lạm phát từ sự thay đổi của LS tái cấp lại càng giảm đi (chỉ còn 1,6%). Đây là bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa công cụ LS tái cấp vốn và lạm phát ở Việt Nam là rất yếu.
Ngoài ra, một kết quả nổi bật từ kết quả phân rã phương sai, tỷ giá cũng đóng góp rất nhỏ vào sự thay đổi của lạm phát. Cụ thể, mức độ giải thích của tỷ giá lần lượt là 2,1% (kỳ 12) và 3,3% (kỳ 24). Đây là kết quả đáng mừng bởi kết quả này cho thấy mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát là rất nhỏ. Đây là minh chứng cho thấy NHNN có thể tập trung cải thiện hiệu quả điều hành công cụ LS hướng tới kiểm soát lạm phát mà không sợ ảnh hưởng của tỷ giá.
Trong trường hợp LS tái chiết khấu (R2) chọn làm biến đại diện cho biến LS chính sách, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy LS tái chiết khấu ở Việt Nam dường như không tác động tới lạm phát. Ngoài ra, sự thay đổi của LS chính sách có tác động tới sự thay đổi của tỷ giá, nghĩa là việc điều hành công cụ LS chính sách ở Việt Nam có thể hướng tới việc ổn định tỷ giá hơn là ổn định giá cả. Những kết quả nghiên cứu này lần lượt bác bỏ 2 giả thuyết nghiên cứu ở trên. Điều này cũng đồng nghĩa Việt Nam chưa thoả mãn điều kiện áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu.
5. Kết luận
Kết quả nghiên cứu từ mô hình cho thấy việc điều hành công cụ LS bao gồm LS tái cấp vốn và LS tái chiết khẩu để hướng tới kiểm soát lạm phát không thực sự hiệu quả. Điều này thể hiện qua kết quả nghiên cứu: Mối quan hệ giữa lạm phát và công cụ LS rất yếu. Đây là minh chứng cho thấy công cụ LS không thực sự hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát sẽ gây ra khó khăn cho việc hướng tới điều hành CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy công cụ LS chính sách ở Việt Nam tác động tới tỷ giá rất lớn. Điều này cho thấy có thể trong thời gian qua, việc điều hành LS hướng tới việc ổn định tỷ giá nhiều hơn so với việc ổn định giá cả. Tất cả những kết quả nghiên cứu này đều bác bỏ 2 giả thuyết nghiên cứu, đồng nghĩa Việt Nam vẫn chưa thoả mãn 2 điều kiện tiền cơ bản cần đạt được trước khi áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu do nhóm nghiên cứu IMF đưa ra. Tuy nhiên, dựa trên kinh nghiệm các nước áp dụng lạm phát mục tiêu thì Việt Nam vẫn có cơ hội để áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu bởi nhiều quốc gia trên thế giới vẫn áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu khi không thoả mãn những điều kiện tiền đề.
– Batini, N., & Laxton, D. (2006). Under what conditions can inflation targeting be adopted? The experience of emerging markets. Central bank of Chile.
– Boughrara, A. (2007). Can Tunisia move to inflation targeting?. The developing Economies, 45(1), 27-62.
– Choudhri, E. U., Faruqee, H., & Hakura, D. (2005). Explaining the exchange rate pass-through in different prices. Journal of International Economics, 65(2), 349-374.
– Debelle, G., Masson, P., Savastano, M., & Sharma, S. (1998). Inflation targeting as a monetary policy framework. International Monetary Fund, October. Retrieved from https://www.imf.org/external/pubs/ft/issues/issues15/index.htm
– Debelle, G. (2001). The case for inflation targeting in East Asian countries in Future directions for monetary policies in East Asia, Gruen D., Simon J. (Eds), Reserve Bank of Australia. 65-87.
– Hoang, V. K. (2014). Budget Deficit, Money Growth and Inflation: Empirical evidence from Vietnam. MPRA Working paper.
– Ngân hàng thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2016). Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035.
– Nguyen, T.T.H., & Nguyen, D.T. (2010). Macroeconomic determinants of Vietnam’s inflation 2000-2010: Evidence and analysis. VEPR Working Paper WP-09.
Khả Năng Áp Dụng Chính Sách Tiền Tệ Lạm Phát Mục Tiêu Ở Việt Nam (Phần 1) – Trang Ngoại Giao Kinh Tế
Tóm tắt: Bài nghiên cứu tập hợp lý thuyết và thực tiễn về chế độ lạm phát mục tiêu trên thế giới trong thời gian qua, từ đó rút ra các ưu nhược điểm và một số điều kiện tiên quyết quan trọng cho việc áp dụng chế độ chính sách tiền tệ này. Các điều kiện tiên quyết này được kiểm nghiệm xem xét tại Việt Nam để chỉ ra chúng ta đã thiết lập được những nền tảng phù hợp cho việc chuyển đổi hay chưa. Cuối cùng, nhóm tác giả xây dựng lộ trình và đề xuất một số thiết lập kỹ thuật cho việc áp dụng chính sách tiền tệ (CSTT) lạm phát mục tiêu ở Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của một số quốc gia khác.
1. Giới thiệu
Theo trường phái kinh tế học Keynes mới, kỳ vọng hợp lý là một nhân tố quan trọng quyết định hành vi của công chúng, vì vậy các nhà hoạch định chính sách sẽ thu được các kết quả chính sách tốt hơn nếu họ có thể đánh giá và kiểm soát được nhân tố này một cách chủ động. Dựa trên nền tảng đó, trường phái Keynes mới gợi ý rằng Ngân hàng Trung ương (NHTW) không những cần đưa ra chính sách phù hợp trong từng tình hình cụ thể mà còn phải trao đổi thông tin một cách hiệu quả với công chúng để có thể định hướng kỳ vọng của họ. Một khi kỳ vọng được quản lý tốt, CSTT sẽ trở nên hiệu quả hơn và cái giá phải trả cho việc theo đuổi một CSTT chống lạm phát sẽ là thấp hơn. Lạm phát mục tiêu (LPMT) là một chế độ CSTT thành công hiện nay thỏa mãn vấn đề trao đổi thông tin và quản lý kỳ vọng như vậy. Dưới chế độ LPMT, khả năng trao đổi thông tin giữa tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời việc quản lý tốt được lạm phát dưới chế độ LPMT bản thân nó cũng giúp xác lập uy tín cho CSTT, khiến việc định hướng kỳ vọng của CSTT trong tương lai trở nên dễ dàng hơn. Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả đánh giá xu hướng phát triển của chế độ LPMT trên thế giới những năm gần đây, tổng hợp kinh nghiệm áp dụng thành công ở nhiều quốc gia và áp dụng chúng lên nền kinh tế Việt Nam để trả lời cho câu hỏi: liệu Việt Nam đã đủ điều kiện để chuyển đổi sang khuôn khổ chính sách tiền tệ mới này hay chưa?
Khái niệm chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
2.1 Định nghĩa chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
Theo Mishkin (2012), lạm phát mục tiêu là một khuôn khổ điều hành CSTT mà ở đó NHTW tuân theo các nguyên tắc sau: i) thông báo ra công chúng về mục tiêu lạm phát trung hạn; ii) cam kết việc ổn định giá cả sẽ là mục tiêu dài hạn và hàng đầu của CSTT, cũng như cam kết việc thực hiện mục tiêu lạm phát; iii) sử dụng nhiều biến số (không chỉ riêng khối tiền) trong quá trình ra quyết định CSTT; iv) tăng tính minh bạch thông qua việc trao đổi thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của CSTT với công chúng; và v) tăng trách nhiệm giải trình của NHTW trong việc thực hiện mục tiêu lạm phát. Xét trên góc độ nội hàm, định nghĩa này cho thấy CSTT LPMT bao gồm các thành tố về thông tin, trách nhiệm và kỹ thuật. Về mặt thông tin, NHTW dựa trên các phương tiện thông tin đại chúng, các báo cáo chính thức, ấn phẩm… để truyền tải một cách rộng rãi và hiệu quả nhất mục tiêu lạm phát trung hạn của mình đến với công chúng. Thông thường sẽ là chỉ tiêu lạm phát dự kiến trong một vài năm tiếp theo và chỉ tiêu đó nằm trong một khoảng biên độ nhất định.
2.2 Các mục tiêu khác của CSTT dưới chế độ lạm phát mục tiêu
Dưới chế độ LPMT, lạm phát là mục tiêu hàng đầu của CSTT nhưng không có nghĩa nó là mục tiêu duy nhất. Việc coi chế độ LPMT chỉ tập trung hoàn toàn vào kiểm soát lạm phát và bỏ qua các mục tiêu khác chẳng hạn bình ổn sản lượng, theo Bemanke (2003), là một quan niệm sai lầm. Trên cả lý thuyết và thực tiễn, tất cả các quốc gia LPMT đều là các quốc gia LPMT linh hoạt (Flexible inflation targeting), trong đó NHTW luôn quan tâm một cách nhất định đến các chỉ tiêu ngoài lạm phát dù mối quan tâm này là chính thức hay ngầm định.
– NHTW quan tâm tới mục tiêu bình ổn sản lượng: Tất cả các quốc gia LPMT đều có quan tâm tới bình ổn sản lượng. Một số quốc gia công khai mối quan tâm này trong danh sách các mục tiêu của CSTT như Israel, Na Uy hay Anh (nhưng luôn phải đứng sau mục tiêu lạm phát). Một số khác sử dụng các kỹ thuật để tạo không gian cho NHTW thực hiện mục tiêu này. Chẳng hạn ở Cộng hòa Séc, khuôn khổ pháp lý thiết lập các điều khoản thoát trách nhiệm (escape clauses) cho phép NHTW nước này không cần thực hiện mục tiêu lạm phát trong trường hợp nền kinh tế đối diện với cú sốc cung tạm thời nhằm tránh sản lượng biến động trong ngắn hạn.
– NHTW quan tâm tới mục tiêu ổn định tỷ giá: về mặt lý thuyết, theo đuổi LPMT đòi hỏi NHTW phải có cơ chế tỷ giá linh hoạt bởi quá quan tâm đến tỷ giá có thể khiến công chúng bối rối về mục tiêu ưu tiên thực sự của CSTT và phản ứng chính sách sai lầm trong trường hợp nền kinh tế phải đối mặt với cú sốc thực (Mishkin 2010). Mặc dù vậy, trong điều hành thực tiễn, NHTW nhiều quốc gia LPMT vẫn cố gắng can thiệp lên tỷ giá để tránh những ảnh hưởng bất lợi của tỷ giá biến động lên nền kinh tế, chẳng hạn làm suy yếu bảng cân đối của hệ thống ngân hàng hoặc giảm tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Lấy ví dụ như Israel hoặc Ba Lan, hai quốc gia này đã cố gắng theo đuổi một chính sách tỷ giá trườn bò dưới chế độ LPMT trong nhiều năm trước khi thả nổi hoàn toàn. Hay ở các quốc gia thu nhập trung bình, về danh nghĩa NHTW công bố khuôn khổ LPMT song song cùng một cơ chế tỷ giá thả nổi, nhưng trên thực tế các quốc gia đó vẫn áp dụng chính sách “sợ thả nổi” (fear of floating) – cho phép NHTW ngầm định áp dụng các biện pháp để bình ổn tỷ giá (Agenor & Silva, 2013).
2.3 Ưu điểm và nhược điểm của chế độ lạm phát mục tiêu
Một số ưu điểm nổi bật của chế độ LPMT có thể được kể đến như:
– LPMT là sự kết hợp ICU điểm của việc điều hành CSTT theo quy tắc (rules) và điều hành CSTT một cách tùy nghi (discretion): Tính quy tắc thể hiện ở việc NHTW đặt ra mục tiêu lạm phát cụ thể trong trung hạn để định hướng quá trình điều hành CSTT của mình. Tính tùy nghi thể hiện ở việc NHTW có thể tự do phản ứng với các cú sốc trong ngắn hạn mà không nhất thiết phải tập trung vào lạm phát một cách hoàn toàn bởi vì lạm phát là mục tiêu của trung hạn.
– LPMT giúp NHTW thiết lập được uy tín với công chúng, khiến việc quản lý kỳ vọng trở nên dễ dàng hơn và CSTT hiệu quả hơn: Lạm phát trung hạn của chế độ LPMT hoạt động như một neo danh nghĩa của CSTT. Khi NHTW nhiều lần hoàn thành được mục tiêu của mình, họ sẽ dần thiết lập được uy tín trước công chúng. Dưới cơ chế minh bạch và trách nhiệm giải trình, uy tín này ngày càng được củng cố và tạo ra niềm tin đối với neo danh nghĩa của CSTT.
– LPMT có neo danh nghĩa dễ hiểu và có tính truyền tải cao: Lạm phát là một khái niệm quen thuộc với nhiều tầng lớp nhân dân và sự thay đổi của nó có thể dễ dàng được quan sát hoặc cảm nhận dưới dạng đắt hơn hay rẻ hơn giá cả của các loại hàng hóa tiêu dùng, vì vậy sử dụng lạm phát làm neo danh nghĩa của CSTT sẽ khiến neo này dễ hiểu hơn với công chúng và có tính truyền tải cao hơn so với một số neo khác khác (chẳng hạn neo khối tiền).
Một số học giả phê phán LPMT bởi họ cho rằng LPMT vẫn tồn tại nhược điểm, trong đó có thể kể đến như:
– Neo lạm phát có độ trễ lớn: Không giống một số biến số vĩ mô như tỷ giá hay khối tiền, CSTT cần một thời gian truyền dẫn dài mới có thể tác động được lên lạm phát, vì vậy NHTW quốc gia LPMT sẽ gặp khó khăn hơn trong việc quan sát và kiểm soát mục tiêu trung hạn so với các chế độ CSTT khác.
– LPMT khiến sản lượng biến động: Kiềm chế lạm phát và bình ổn sản lượng là đánh đổi lẫn nhau trong trường hợp nền kinh tế đối diện với cú sốc cung tạm thời. Do vậy, quá tập trung vào lạm phát có thể khiến sản lượng biến động mạnh trong ngắn hạn.
– LPMT đòi hỏi tính linh hoạt trong tỷ giá, nhưng tỷ giá linh hoạt lại làm tăng bất ổn tài chính: Luận điểm này là đúng đối với các quốc gia thị trường mới nổi, khi mà ở những quốc gia này, việc thả nổi tỷ giá làm tăng bất ổn tài chính bởi tình trạng đô la hóa cao, truyền dẫn từ tỷ giá đến lạm phát là lớn, các công cụ phòng vệ tỷ giá còn chưa phát triển, cạnh tranh thương mại yếu…
2.4 Các điều kiện tiên quyết của chế độ lạm phát mục tiêu
Một quốc gia chỉ cần thiết lập được mục tiêu lạm phát trung hạn, cam kết ổn định giá cả là mục tiêu cuối cùng cũng như xây dựng được tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong điều hành CSTT là có thể coi như quốc gia đó đã chuyển đổi sang chế độ LPMT. Tuy nhiên, nhiều học giả khuyến cáo rằng khi quốc gia cân nhắc việc chuyển đổi chế độ CSTT, quốc gia đó cần xem xét sự thỏa mãn các điều kiện tiên quyết để đảm bảo LPMT có thể được thực hiện một cách suôn sẻ và thành công. Dựa trên kinh nghiệm áp dụng LPMT từ nhiều nền kinh tể trên thế giới, một số nhóm điều kiện tiên quyết đã được các nhà nghiên cứu đúc kết và đề xuất, tuy nhiên có sự khác nhau tương đối giữa các học giả về nhóm những điều kiện quan trọng nhất.
Batini, Kuttner và Laxton (2005) nêu ra bốn điều kiện tiên quyết của chế độ LPMT bao gồm: i) độc lập về thể chế: NHTW phải tự chủ hoàn toàn về mặt pháp lý cũng như không chịu bất cứ một áp lực tài khóa/chính trị nào có thể làm phương hại đến mục tiêu lạm phát; ii) hạ tầng kỹ thuật phát triển: dữ liệu luôn sẵn có cũng như NHTW đủ khả năng để dự báo lạm phát và thiết lập các mô hình; iii) cơ cấu kinh tế hiệu quả: không có hiện tượng kiểm soát giá, nền kinh tế không quá nhạy cảm với giá cả hàng hóa và tỷ giá, và tình trạng đô la hóa ở mức tối thiểu; và iv) hệ thống tài chính khỏe mạnh: hệ thống ngân hàng ổn định và lành mạnh, cũng như thị trường vốn phát triển tốt. Khi áp dụng bốn điều kiện tiên quyết kể trên vào khảo sát 21 nền kinh tế LPMT và 10 nền kinh tế phi LPMT, các tác giả phát hiện ra rằng hầu như các quốc gia LPMT đều chỉ thỏa mãn một phần hoặc không thỏa mãn các điều kiện 2, 3 và 4 tại thời điểm áp dụng LPMT. Riêng điều kiện số 1, phần lớn NHTW đã đạt được sự độc lập trong lựa chọn công cụ CSTT tại thời điểm chuyển đổi, tuy nhiên xét ở phạm trù rộng hơn – tự chủ cao về mặt pháp lý – thì chỉ 1/5 các quốc gia LPMT là thỏa mãn. Kiểm tra định lượng cũng cho thấy không có điều kiện nào quan hệ chặt chẽ với sự cải thiện trong các điều kiện vĩ mô sau khi áp dụng LPMT. Như vậy, các tác giả này kết luận rằng sự vắng mặt của các điều kiện ban đầu bản thân nó không ngăn cản việc áp dụng hay ảnh hưởng đến sự thành công của LPMT sau này.
Freedman và Otker-Robe (2010) lại cho rằng chỉ có ba điều kiện cốt lõi để triển khai LPMT, đó là: i) mục tiêu lạm phát được ưu tiên hơn so với các mục tiêu khác; ii) không có thống trị tài khóa (físcal dominance); và iii) NHTW độc lập về công cụ CSTT. Nghiên cứu điều tra năm 2009 của hai tác giả này (Freedman & Otker- Robe, 2009) trên 8 quốc gia LPMT cho thấy hầu hết các quốc gia khảo sát đều đã thỏa mãn ba điều kiện này tại thời điểm chuyển đổi, một số điều kiện khác như khả năng xây dựng mô hình và dự báo lạm phát hiệu quả hoặc NHTW độc lập về mặt pháp lý đều không được thỏa mãn bởi đa số. Từ đó, hai ông kết luận rằng các quốc gia muốn chuyển đổi chế độ CSTT nên đáp ứng 3 điều kiện kể trên trước khi áp dụng LPMT. Các điều kiện khác, những điều kiện được coi là căn bản của LPMT, lại hoàn toàn có thể được bỏ qua tại thời điểm áp dụng.
Gemayel et al. (2011), dựa trên thực nghiệm ở 36 quốc gia thu nhập thấp và thị trường mới nổi, đã kết luận rằng không quốc gia LPMT nào thỏa mãn tất cả điều kiện tiên quyết tại thời điểm chuyển đổi. Tuy nhiên, các tác giả nêu ra một số điều kiện nên được thiết lập nhằm giúp LPMT có thể được áp dụng dễ dàng hơn, đó là: i) cơ chế truyền dẫn CSTT vận hành hiệu quả; ii) CSTT độc lập ở một mức độ nhất định; và iii) không có cam kết đối với tỷ giá.
Nhóm tác giả tiến hành kiểm tra ba điều kiện tiên quyết của Freedman và Otker-Robe lên một số quốc gia áp dụng hoặc dự kiến áp dụng LPMT thời gian gần đây, kết quả cho thấy tất cả các quốc gia đều đã xây dựng cho mình khuôn khổ pháp lý thỏa mãn ba điều kiện tiên quyết trước khi chuyển đổi một cách chính thức chế độ CSTT: hệ thống pháp lý được sửa đổi nhằm đưa lạm phát trở thành mục tiêu hàng đầu của CSTT, ngăn cản khả nâng tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ và trao cho NHTW quyền độc lập trong lựa chọn công cụ CSTT. Các điều kiện khác được nhiều quốc gia bỏ qua hoặc chỉ thiết lập sau khi LPMT đã đi vào hoạt động. Chẳng hạn ở Uganda, thị trường vốn là chưa phát triển ngay tại thời điểm chuyển đổi với thị trường chứng khoán có tỷ suất xoay vòng thấp và thanh khoản hạn chế, giá trị chứng khoán giao dịch chỉ chiếm 0,1% GDP; thị trường trái phiếu tư nhân gần như không tồn tại và bị áp chế bởi trái phiếu Chính phủ. Ở Kazakhstan, tình trạng đô la hóa giai đoạn 2014 – 2015 lên tới hơn 40%, cơ chế truyền dẫn CSTT suy yếu và một CSTT vẫn mang tính nhìn vào tác động quá khứ (backward-looking). Georgia cũng tương tự như Kazakhstan với tình trạng đô la hóa năm 2009 lên tới trên 70%, góp phần làm suy yếu truyền dẫn CSTT ở quốc gia này và khiến NHTW phải duy trì kiểm soát tỷ giá cho tới tận cuối năm 2013. Tuy nhiên, các quốc gia kể trên vẫn tiến hành chuyển đổi chế độ CSTT bởi vì các điều kiện khác có thể được thiết lập sau khi LPMT đã đi vào hoạt động…
(còn nữa)
Lê Thái Phong/Nguyễn Thu Thủy/Lê Việt Dũng
(Nguồn: Những vấn đề Kinh tế & Chính trị thế giới, số 2/2017)
Bạn đang đọc nội dung bài viết Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!