Cập nhật nội dung chi tiết về Cuộc Cách Mạng Của Galileo Trong Vật Lý Học Thế Kỷ 17 (A. Koyré, 1943) mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
CUỘC CÁCH MẠNG CỦA GALILEO TRONG VẬT LÝ HỌC THẾ KỶ 17 (A. KOYRÉ, 1943)
Đưa lên mạng ngày 15-08-2020Từ khóa : Vật lý học – Thế kỷ 17 ; Cách mạng khoa học (Khái niệm) ; Koyré, Alexandre – Trích đoạn C2
CUỘC CÁCH MẠNG CỦA GALILEOTRONG VẬT LÝ HỌC Ở THẾ KỶ XVII(1943)
Tác giả: Alexandre Koyré*Bản tiếng Pháp: Georgette P. VignauxNgười dịch: Nguyễn Văn Khoa
*
Nếu khái niệm tiến bộ tuyến tính[1] dường như rất «có vấn đề» trong sự phát triển của lịch sử nói chung, thì nó vẫn có vẻ như hoàn toàn thích hợp, ít nhất ở một lĩnh vực là lịch sử các khoa học. Sự sàng lọc và tinh tế hóa dần dần tri thức của ta, những tiến bộ kỹ thuật nhờ vào, đồng thời thúc đẩy trở lại, các bước tiến của khoa học, đã có thể cho phép chúng ta bênh vực và duy trì lâu năm một quan điểm như vậy.
Nhưng nghiên cứu lịch sử khoa học thời Phục Hưng, rồi sau đó của thời Galileo-Newton*, Alexandre Koyré (1882-1964) cho thấy tính thích đáng của khái niệm cách mạng nhằm phân tích sự phát triển của khoa học. Ở Pháp, cùng với Gaston Bachelard*, Georges Canguilhem*, ông đã góp phần đẩy lui ý tưởng tiến bộ tuyến tính trong khoa học vào hậu trường. Ý tưởng «cách mạng» là thích đáng, nếu ta nghĩ tới trọng lượng của những «yếu tố ngoài lô-gic» đã giải thích sự thành công cả nghìn năm của truyền thống nhân danh Aristotelês: mặc dù đầy sai trật, thứ vật lý học định tính của ông ta hiển nhiên là vừa gần gũi với các giác quan của chúng ta hơn, vừa gắn kết hết sức chặt chẽ với quan niệm triết học về thế giới làm nền tảng cho nó; đấy là chưa kể tới tầm vóc bác học của bản thân Aristotelês. Để lật đổ nó, cần cả một sự tẩy não, một sự lột xác, một sự cải đạo.
*
Tên họ của Galileo Galilei đã gắn liền, không thể tách rời, với cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ XVII, một trong những cuộc cách mạng sâu sắc nhất, nếu không phải là cái sâu sắc nhất của tư duy con người, kể từ khi tư tưởng Hy Lạp phát hiện ra [ý tưởng] Vũ Trụ (Kosmos)[2]. Bởi cuộc cách mạng này bao hàm một sự đột biến trí tuệ triệt để mà khoa học vừa là biểu hiện, vừa là thành quả[3].
Cuộc cách mạng này đôi khi được đặc trưng hóa, đồng thời giải thích, bằng một cuộc trỗi dậy tinh thần, thông qua một biến đổi toàn diện trong thái độ cơ bản của trí tuệ con người: lối sống năng động (vita activa) từ nay chiếm chỗ của theoria[4], cách sống chiêm nghiệm (vita conlemplativa) từng được xem là hình thức cao nhất của nó. Con người hiện đại tìm cách thống trị thiên nhiên, trong khi con người Trung Cổ hay Cổ Đại dồn mọi nỗ lực vào việc chiêm nghiệm nó trước hết và trên hết. Như vậy, chúng ta phải giải thích, bằng mong muốn hành động và ý muốn thống trị, cái xu hướng cơ học của vật lý học cổ điển – thứ vật lý học của Galileo, Descartes, Hobbes* –, một khoa học tích cực, thao tác (scientia activa, operativa), thứ vật lý học phải biến con người thành «chủ nhân và người sở hữu thiên nhiên»[5] – nghĩa là chúng ta phải xem nó như đã xuất phát đơn thuần từ thái độ này, như thể đây chỉ là sự áp dụng các phạm trù tư tưởng của loại người chế tác (homo faber)[6] vào thế giới tự nhiên. Khoa học của Descartes – hay của Galileo còn đúng hơn nữa – chính là thứ khoa học của nhà công nghệ và kỹ sư[7] chứ chẳng là gì khác.
Xin thú thực rằng giải thích trên không thỏa mãn tôi hoàn toàn. Tất nhiên, đúng là triết học hiện đại, cũng như đạo đức và tôn giáo hiện đại, đều nhấn mạnh trên hành động, trên thực tiễn hơn là tư tưởng Cổ Đại và Trung Cổ từng làm. Điều này cũng đúng cho khoa học hiện đại: tôi nghĩ tới vật lý học của Descartes, tới những đối chiếu của nó với nào ròng rọc, nào dây, nào đòn bẩy. Tuy nhiên, thái độ mà chúng ta vừa mô tả được thấy nhiều hơn ở Bacon – người mà vai trò trong lịch sử khoa học không thuộc cùng một trật tự[8] – hơn là ở Galileo hay Descartes. Khoa học của họ không phải là công việc của các nhà kỹ sư hay thợ thủ công[9], mà là của những người mà sự nghiệp hiếm khi vượt quá trình tự lý thuyết[10]. Khoa đạn đạo mới được phát triển không phải bởi các tay bắn pháo hoa hay pháo binh, mà chống lại họ. Và Galileo đã không học nghề của mình từ những người làm việc trong các kho vũ khí và xưởng đóng tàu của Venezia. Trái lại, ông dạy họ cái nghề của họ. Hơn nữa, lý thuyết trên đã giải thích vừa quá nhiều, vừa quá ít. Nó giải thích sự phát triển phi thường của khoa học trong thế kỷ XVII bằng sự phát triển của công nghệ. Tuy nhiên, sự phát triển của cái sau lại vô cùng ít ấn tượng hơn của cái trước. Ngoài ra, nó còn bỏ quên những thành tựu kỹ thuật của thời Trung Cổ. Nó coi thường thèm muốn quyền lực và sự giàu có đã truyền cảm hứng cho thuật giả kim qua suốt lịch sử của kỹ thuật này.
Nhiều học giả khác đã nhấn mạnh trên cuộc chiến của Galileo chống lại chính quyền, chống lại truyền thống, đặc biệt là từ Aristotelês: chống lại cái truyền thống khoa học và triết học được Giáo Hội duy trì, bảo vệ và đem ra dạy tại các trường đại học. Họ nhấn mạnh trên vai trò của sự quan sát và kinh nghiệm trong nền khoa học mới về tự nhiên[11]. Tất nhiên, quan sát và thí nghiệm là phần nội dung đặc trưng nhất của khoa học hiện đại, điều này là hoàn toàn đúng. Và chắc chắn rằng trong số tác phẩm của Galileo, chúng ta tìm thấy vô số lời kêu gọi hãy quan sát và thử nghiệm, và một sự mỉa mai cay đắng đối với những người không dám tin vào chứng cứ của cặp mắt mình, bởi điều họ nhìn thấy là trái ngược với lời dạy của quyền uy [Giáo Hội], hoặc tệ hơn nữa, những kẻ, như Cesare Cremonini[12], không muốn nhìn vào kính viễn vọng của Galileo vì sợ nhìn thấy điều gì đó mâu thuẫn với các lý thuyết và niềm tin truyền thống của họ. Và trên thực tế, chính xác là nhờ sự chế tạo ra và sử dụng một kính viễn vọng, bằng cách chăm chú quan sát Mặt Trăng và các hành tinh, nhờ sự phát hiện ra các vệ tinh của Sao Mộc, mà Galileo đã giáng một đòn chí mạng vào khoa thiên văn học và vũ trụ học trong thời đại ông.
Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng quan sát hoặc kinh nghiệm, theo nghĩa kinh nghiệm bộc phát của thông kiến, không đóng một vai trò lớn lao nào – hoặc nếu có, thì đấy là cái vai trò tiêu cực của chướng ngại – trong nền móng của khoa học hiện đại[13]. Theo Paul Tannery* và Pierre Duhem[14], thứ vật lý học của Aristotelês[15], và còn đúng hơn nữa, thứ vật lý học của các nhà duy danh chủ nghĩa ở Paris, như Jean Buridan và Nicole Oresme[16], đều gần gũi với kinh nghiệm của thông kiến hơn là của Galileo và Descartes[17] rất nhiều. Chính là «thí nghiệm», chứ không phải «kinh nghiệm», mới có một vai trò tích cực đáng kể, nhưng cũng chỉ sau này mà thôi. Nội dung của thí nghiệm là tra hỏi thiên nhiên có phương pháp; và sự truy vấn này vừa giả định, vừa bao hàm một thứ ngôn ngữ trong đó những câu hỏi được đặt ra, cũng như một thứ từ điển cho phép chúng ta đọc và diễn giải các câu trả lời. Chúng ta đều biết rõ rằng, đối với Galileo, chính là bằng những đường cong, hình tròn và hình tam giác, bằng thứ ngôn ngữ toán học hoặc chính xác hơn nữa là hình học[18] – chứ không phải là ngôn ngữ của thông kiến hoặc biểu tượng thuần túy – mà chúng ta phải nói với thiên nhiên để nhận được những câu trả lời từ nó. Sự lựa chọn, cũng như quyết định sử dụng cái ngôn ngữ này hiển nhiên là không thể được quy định bởi một thứ kinh nghiệm đã trở thành khả thi bởi ngay chính việc sử dụng nó, mà phải đến từ các nguồn khác.
Nhiều sử gia và triết gia khoa học khác[19] đã thử đặc trưng hóa nền vật lý hiện đại, trong danh nghĩa khoa học vật lý, một cách khiêm tốn hơn, bằng một số nét nổi bật của nó như vai trò của nguyên lý quán tính[20] ở đây chẳng hạn. Lại cũng chính xác, lần nữa: nguyên lý quán tính chiếm một vị trí cao trội trong khoa cơ học cổ điển, so với môn cơ học của người xưa. Ở đây, nó là định luật cơ bản của chuyển động, và ngự trị trên lý thuyết vật lý một cách mặc nhiên ở Galileo, hiển nhiên ở Descartes và Newton. Nhưng theo ý kiến của tôi, dừng lại trên đặc trưng này là hơi hời hợt, bởi chỉ đơn giản xác lập sự kiện thôi không thể được xem là đã đầy đủ. Chúng ta còn phải hiểu và giải thích nó – giải thích vì sao vật lý học hiện đại lại có khả năng thu nhận nguyên lý này; hiểu vì sao và như thế nào, nguyên lý quán tính – một nguyên lý có vẻ đơn giản, rõ ràng, hữu lý, thậm chí hiển nhiên như vậy đối với chúng ta – đã đạt được quy chế của sự hiển nhiên và chân lý tiên nghiệm này, trong khi đối với người Hy Lạp, cũng như đối với các nhà tư tưởng thời Trung Cổ, cái ý tưởng rằng một cơ thể, một khi đã được đưa vào chuyển động, sẽ tiếp tục di chuyển mãi mãi, dường như là hoàn toàn sai lầm, thậm chí phi lý[21].
Tôi sẽ không cố gắng giải thích ở đây những lý do và nguyên nhân đã kích động cuộc cách mạng tinh thần của thế kỷ XVII. Chỉ cần mô tả, đặc trưng hóa thái độ tinh thần hay trí tuệ của khoa học hiện đại bằng hai tính năng thống nhất sau đây là đủ để làm rõ quan điểm của chúng tôi. Đó là: 1) sự triệt hạ [ý tưởng] Vũ Trụ, [Kosmos] nghĩa là sự biến mất trong khoa học của mọi suy tư dựa trên ý niệm[22] này; 2) sự hình học hóa không gian – nghĩa là sự thay thế quan niệm một không gian vũ trụ cụ thể và khác biệt về phẩm chất trong vật lý học trước Galileo, bằng quan niệm không gian đồng nhất và trừu tượng trong hình học của Eukleidês. Chúng ta có thể tóm tắt và biểu đạt hai đặc trưng trên như sau: toán học (hình học) hóa tự nhiên, và như hệ quả, toán học (hình học) hóa khoa học.
Sự giải thể của Vũ Trụ có nghĩa là sự hủy diệt của một ý tưởng: ý tưởng một thế giới có cấu trúc hữu hạn, được sắp xếp theo cấp bậc, một thế giới khác biệt về phẩm chất theo quan điểm bản thể học; nó được thay thế bằng ý tưởng một Vũ trụ mở, bất định và thậm chí là vô hạn, được hợp nhất và cai quản bởi cùng những quy luật phổ quát; một Vũ trụ trong đó vạn vật thuộc về cùng một cấp bậc Hiện Hữu, trái với quan niệm truyền thống vốn phân biệt và đối lập hai thế giới Trời và Đất [Sublunarius= dưới Mặt Trăng, chỉ Trái Đất và không gian gần với nó]. Các quy luật của Trời và quy luật của Đất giờ đây tan chảy vào nhau. Thiên văn học và vật lý học trở thành tương thuộc, thậm chí thống nhất và hợp nhất[23]. Điều này hàm nghĩa rằng mọi cân nhắc đặt trên giá trị, sự hoàn hảo, sự hài hòa, ý nghĩa và mục đích[24] đều biến khỏi quan điểm khoa học. Chúng tan biến vào không gian vô tận của Vũ trụ mới. Chính là trong Vũ trụ mới này, trong thế giới mới này của khoa hình học biến thành hiện thực, mà các định luật của khoa vật lý học cổ điển tìm được giá trị và ứng dụng.
Xin nhắc lại, chính sự triệt tiêu Vũ Trụ mới có vẻ là cuộc cách mạng khoa học, và theo tôi là cuộc cách mạng sâu sắc nhất mà trí tuệ con người từng thực hiện hoặc hứng chịu, kể từ khi người Hy Lạp phát minh ra [ý tưởng] Kosmos. Đây là một cuộc cách mạng thâm sâu, với những hệ quả vươn xa, tới mức mà suốt nhiều thế kỷ và ngoài một số ngoại lệ hiếm hoi, trong đó có Pascal*, con người đã không nắm bắt được hết tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của nó; thậm chí cả ngày nay nữa, nhiều khi cũng còn bị ngộ nhận và đánh giá thấp.
Như vậy, điều mà các nhà sáng lập của nền khoa học hiện đại như Galileo phải làm, không chỉ là phê phán và chống lại những lý thuyết sai lầm nhất định, nhằm chỉnh sửa hay thay thế chúng bằng những học thuyết tốt hơn. Họ phải làm một cái gì đó hoàn toàn khác. Họ phải phá hủy một thế giới, và thay thế nó bằng một thế giới khác. Họ phải cải tổ ngay chính cấu trúc của trí tuệ chúng ta, xây dựng lại và sửa đổi những khái niệm của nó, suy xét cái tồn tại theo một cách nhìn mới, xây dựng một khái niệm mới về tri thức, một khái niệm mới về khoa học – thậm chí thay thế một quan điểm khá tự nhiên, quan điểm của thông kiến, bằng một quan điểm khác không tự nhiên chút nào[25].
Điều này giải thích tại sao việc phát hiện ra những vật thể, các định luật, mà ngày nay có vẻ đơn giản và dễ dàng tới mức ta có thể dạy chúng cho trẻ em được – các quy luật về sự chuyển động, về sự rơi của những cơ thể – lại đòi hỏi một nỗ lực lâu dài, gian khổ, dù thường là vô hiệu đến như vậy, ở một số thiên tài vĩ đại nhất của nhân loại, một Galileo hay một Descartes[26]. Đến lượt nó, sự kiện này dường như cũng bác bỏ các nỗ lực hiện đại nhằm hạ thấp, thậm chí phủ nhận tính độc đáo hay ít ra là tính cách mạng của tư tưởng Galileo; nó cũng cho thấy rằng tính liên tục rõ ràng trong sự phát triển của vật lý học từ thời Trung Cổ đến thời Hiện Đại – thứ tính liên tục mà Raffaello Caverni[27] và Pierre Duhem14 từng quyết liệt nhấn mạnh – chỉ là ảo tưởng[28]. Tất nhiên, đúng là có một truyền thống không gián đoạn dẫn chúng ta đi từ trước tác của các nhà duy danh chủ nghĩa ở Paris đến các tác phẩm của Giambattista Benedetti[29], Giordano Bruno[30], Galileo và Descartes. (Bản thân tôi cũng từng thêm một khâu vào lịch sử của truyền thống này[31]). Nhưng kết luận mà Duhem rút ra từ đấy là sai trật: một cuộc cách mạng đã được chuẩn bị kỹ dù sao vẫn là một cuộc cách mạng, và bất chấp thực tế là bản thân Galileo khi còn trẻ (như ngay cả Descartes nữa đôi khi) từng chia sẻ nhiều quan điểm và dạy lại các học thuyết của những tác giả phê phán Aristotelês thời Trung Cổ, nền khoa học hiện đại – thứ khoa học phát sinh từ những nỗ lực và khám phá của ông – không hề lấy cảm hứng từ «những tiền bối của Galileo ở Paris»16 mà đã tức thì tự đặt mình ở một cấp độ hoàn toàn khác – cấp độ Arkhimedês[32], theo lối gọi ưa thích của tôi. […]
Alexandre KoyréGalileo and Plato(Journal of the History of Ideas,t. IV, số 4, 1943, tr. 400-428);Galilée et Platon,(Études d’histoire de la pensée scientifique,Paris, Gallimard, 1964, tr. 166-172).
[2] Kόσμος (Kósmos). Từ có thể được dịch là Vũ Trụ hay Thế Giới. Do trong thế giới quan Hy Lạp cổ đại, kόσμος đối lập với χάος (khaos = hỗn mang, do từ χαίνω = kainô = mở toác hoác), vốn là cái nguyên thủy trong Thần Phả (Theogonia) của Hêsiodos, nên Kósmos chỉ một vũ trụ có tổ chức, có trật tự, có giới hạn. Thế nên, Sôkratês nói với Kalliklês: «Cứ theo lời các hiền giả thì, Trời và Đất, Thượng Đế và con người, được kết hợp với nhau bởi những quan hệ thứ bậc, thân thiện, tiết độ và công chính; và chính vì vậy mà, ông bạn ạ, Vũ Trụ này được gọi là Kosmos, hay cái được sắp xếp có trật tự, chứ không phải là cái vô trật tự, cái hỗn loạn, cái không luật lệ» (Platôn, Gorgias, 507e – 508a). Xem tiếp giải thích và đánh giá của A. Koyré về khái niệm Kósmos trên ở các đoạn sau của bài này. NVK
[4] θεωρία = theôría, do từ theôrô = tôi nhìn, tôi chiêm ngưỡng. Do đó, không nên hiểu theôria theo nghĩa theory (lý thuyết) ngày nay, mà theo từ La-tinh dùng để dịch theôria là contemplatio (do templum, nơi dùng cho sự thờ phụng), dù vẫn có rắc rối là contemplatio xưa hay contemplation nay đều mang hàm nghĩa tôn giáo. Nếu bỏ ra ngoài ý nghĩa tôn giáo này, thì theôría hay contemplatio chỉ sự tập trung tinh thần vào việc nhìn hay quan sát một số hiện tượng nào đấy. Ở Platôn, chính là thông qua sự chiêm nghiệm mà tinh thần vươn tới hiểu biết về Ý thể cái Thiện và các Ý thể khác. Ở Aristotelêslês, hạnh phúc cũng tùy thuộc vào sự chiêm nghiệm, vốn là năng lực (energeia) cao cấp nhất cho phép trí tuệ ta đạt được những tri thức bởi loại nỗ lực nghiên cứu thuần lý, bởi «hoạt động tìm hiểu những nguyên nhân và các nguyên lý của hiện thực». NVK
[5] […] «et ainsi nous rendre comme maîtres et possesseurs de la nature», câu văn nổi tiếng của René Descartes trong Discours de la méthode. NVK
[6] Đừng nhầm quan điểm được phổ biến rộng rãi này với quan điểm của H. Bergson*. Theo tác giả sau, vật lý học của Aristotelês cũng như của Platôn, nói cho cùng, đều là sản phẩm của loại người chế tác.
[7] Xem L. Laberthonnière, Études sur Descartes, Paris, 1935, II, tr. 288, 297, 304: «Physique de l’exploitation des choses». AK. Lucien Laberthonnière (1860-1932): tu sĩ, nhà thần học và triết học người Pháp. Tác phẩm tiêu biểu: Théorie de l’éducation (1901); Le réalisme chrétien et l’idéalisme grec (1904); Le catholicisme et la société (1907); Positivisme et catholicisme (1911); Sur le chemin du catholicisme (1913); Études sur Descartes (2 q., 1935); Étude de philosophie cartésienne et Premiers écrits philosophiques (1937); Esquisse d’une philosophie personnaliste (1945); Critique du laïcisme (1948); La notion chrétienne de l’autorité (1955). NVK
[8] F. Bacon là người thổi tù và để loan báo, hơn là một trong những người tạo dựng khoa học hiện đại. AK. Xem: Robert Blanché, Francis Bacon: người báo hiệu phương pháp mới trên trang mục Nhà Khoa Học & Triết Gia. NVK
Về phần Galileo, ông được kết nối với truyền thống của các nhà thủ công, thợ xây dựng, kỹ sư thời Phục Hưng,… bởi Leonardo Olschki (Galileo und seine Zeit, Halle, 1927), và gần đây hơn bởi Edgar Zilsel (The sociological roots of sciences, trg The American Journal of Sociology, XLVII, 1942). Zilsel nhấn mạnh trên vai trò của những «thợ thủ công lành nghề» thời Phục Hưng trong sự phát triển của não trạng khoa học hiện đại. Tất nhiên, đúng là các nghệ sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư thời Phục Hưng, … đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại truyền thống Aristotelês và một số người trong số họ – như Leonardo da Vinci* và Giambattista Benedetti (1530-1590)29 – thậm chí còn cố gắng phát triển một môn động lực học mới chống lại Aristotelês15; tuy nhiên, như Duhem đã chỉ ra một cách rõ ràng, môn động lực học này, trong những nét chính, là của những nhà duy danh chủ nghĩa ở Paris, thứ động lực học đà đẩy (impetus) của Jean Buridan (khg 1301-1362) và Nicole Oresme (khg 1320-1382)16. Và nếu Benedetti – người đáng chú ý nhất trong số những «người báo trước» này của Galileo – đôi khi vượt qua trình độ động lực học của trường phái Paris đi nữa, thì đấy không phải là nhờ công việc của ông như kỹ sư và pháo thủ, mà bởi vì ông đã từng nghiên cứu Arkhimedês, và quyết định áp dụng «triết lý toán học» vào cuộc tra hỏi thiên nhiên.
[10] Tất nhiên, nền khoa học hiện đại của Descartes và Galileo là cực kỳ quan trọng cho giới kỹ thuật gia và kỹ sư, bởi cuối cùng nó đã thúc đẩy cả một cuộc cách mạng kỹ thuật. Tuy nhiên, nó không hề được tạo ra và triển khai bởi các kỹ sư và nhà kỹ thuật, mà bởi các triết gia và lý thuyết gia.
[11] Gần đây, một nhà phê bình đã thân thiện trách rằng tôi đã bỏ qua khía cạnh này trong học thuyết của Galileo (Xem: L. Olschki, «The Scientific Personality of Galileo», Bulletin of the History of Medicine, XII, 1942). Dù tôi tin sâu sắc rằng khoa học chủ yếu là lý thuyết, chứ không phải là sự sưu tập «những sự kiện», cũng xin thú nhận rằng tôi không đáng phải nhận lãnh lời khiển trách trên.
[12] Cesare Cremonini hay Cesare Cremonino (1550-1631, thường ký tác phẩm bằng tiếng La-tinh là Cæsar Cremoninus hay Cæsar Cremonius): triết gia tự nhiên học người Ý. Ông dạy suốt 30 năm tại Ferrara (Ferrare) và Padua (Padoue) các học thuyết của Aristotelês, Alexandros ở Aphrodisias (Alexandre d’Aphrodise), và Averroes. Bên trong Nhà Trường Kinh Viện, Cremonini cho thấy một mặt sáng và một mặt tối. Mặt sáng là ông đã đề cao chủ nghĩa duy lý (chống thuyết thần khải) và chủ nghĩa duy vật của Aristotelês (chống thuyết linh hồn bất tử của phái nhị nguyên), nên từng bị kết tội là theo chủ nghĩa vô thần. Mặt tối của ông là đã bị đời sau vĩnh viễn ghi nhớ như một trong hai nhà bác học đã từ chối nhìn vào kính viễn vọng của Galileo Galilei. NVK
[13] Xem: E. Meyerson, Identité et réalité, 3e éd., Paris, 1926, tr. 156. Ở đây, tác giả cho thấy một cách rất thuyết phục, sự không ăn khớp giữa «kinh nghiệm» với các nguyên lý của vật lý học hiện đại. AK. Émile Azriel Meyerson (1859-1933): triết gia và triết gia khoa học người Pháp gốc Ba Lan. Tác phẩm chính: Identité et réalité (1908, 1912, 1926, 2001); De l’explication dans les sciences (1921, 1995); La Déduction relativiste (1925); Du cheminement de la pensée (3 q., 1931, 2011); Réel et déterminisme dans la physique quantique (1933). NVK
[14] Pierre [Maurice Marie] Duhem (1861-1916): nhà vật lý, hóa học, sử gia và triết gia khoa học người Pháp. Tác phẩm chính về lịch sử và triết lý khoa học: Les Théories de la chaleur (1895), Les théories électriques de J. Clerk Maxwell (1902), L’évolution de la mécanique (1905), Les Origines de la statique (2 q., 1903), Études sur Léonard de Vinci (3 q., 1903-1913); La Théorie physique (1906, 2007), Sauver les phénomènes (1908, 1992, 2005), Le Mouvement Absolu et le Mouvement Relatif (1909); Le Système du Monde: Histoire des Doctrines Cosmologiques de Platon à Copernic (10 q., 1913-1959); La Science Allemande (1915). NVK
[15] Trong vật lý [động lực] học của Aristotelês, có hai loại chuyển động, chuyển động tự nhiên (mọi vật thể đều trở về sở cứ của nó, vật nặng như hòn đá sẽ rơi xuống, trong khi vật nhẹ như khói sẽ bay lên – xem: Aristotelês, Vật Thể Rơi Xuống Hoặc Bay Lên Theo Định Hướng Tự Nhiên trên trang mục này), và chuyển động do tác động của một lực từ bên ngoài. Ở trường hợp sau, chuyển động (hòn đá ném lên không trung) sẽ ngừng, khi lực tác động lên nó ngừng – nghĩa là chuyển động của vật thể chỉ được duy trì bởi tác động của một động lực bên ngoài, hoàn toàn trái với nguyên lý quán tính. Mặt khác, trong quan điểm trên, vấn đề phải giải thích là sự kiện hòn đá ném lên không trung không rơi xuống ngay, mà vẫn tiếp tục di chuyển một thời lượng. Theo Aristotelês, chính không khí đảm bảo cho sự liên tục của chuyển động: hòn đá để lại một khoảng trống đằng sau khi di chuyển, khoảng trống này sẽ được lấp đầy tức thì bởi không khí, và lượng khí mới đó sẽ vừa đẩy hòn đá về phía trước vừa tạo ra một khoảng trống thứ hai, và cứ như thế cho đến khi sức đẩy của những khoảng không khí kế tiếp nhau giảm dần, tới mức không còn đủ sức tác động nữa, thì hòn đá sẽ rơi xuống theo lẽ tự nhiên.
[16] Vào thế kỷ thứ VI, Joannes Philoponus (Jean Philippon, khg 490-570, triết gia thuộc trường phái tân-Platôn tại Alexandreia) cho rằng cái lực tác động lên hòn đá lúc đầu (người ném hòn đá lên không) đã truyền cho nó một impetus (đà đẩy) khiến sự chuyển động được duy trì cho đến khi nó mất hết sức đẩy do sự tương tác với không khí – nghĩa là, ở đây, chuyển động được duy trì bởi một đặc tính trong vật thể –, lúc đó hòn đá sẽ theo lẽ tự nhiên mà rơi xuống. Đến thế kỷ XIV, thuyết impetus đã được chấp nhận rộng rãi và được đưa vào giảng dạy tại Đại học Paris khoảng năm 1320, với Jean Buridan* và Nicole Oresme* như những người quảng bá chính. So với Philoponus, học thuyết của Buridan bao hàm một số ý kiến độc đáo: impetus là nguyên nhân khiến một vật thể chuyển động; impetus của một vật thể tăng lên với vận tốc khiến nó chuyển động và với lượng vật chất trong nó; impetus chỉ ngừng vì lực cản của không khí và sức nặng của vật thể, thay vì tự suy yếu dần rồi biến mất một cách bộc phát; sự chuyển động «sẽ tiếp tục khi nào impetus còn mạnh hơn kháng lực, và có thể kéo dài vô tận nếu không bị suy giảm và hủy hoại bởi một lực trái ngược chống lại nó, hay một cái gì đó quay nó về một chuyển động ngược chiều = and would continue to be moved as long as the impetus remained stronger than the resistance, and would be of infinite duration were it not diminished and corrupted by a contrary force resisting it or by something inclining it to a contrary motion» (Questions on Aristotle’s Metaphysics, XII.9: 73ra). Có lẽ do ý kiến cuối cùng này mà Buridan được xem là một trong «những tiền bối của Galileo ở Paris».
[17] «Thực vậy, thứ động lực học này dường như thích ứng một cách hoàn hảo với những quan sát thường ngày, tới mức là nó không thể không tự áp đặt, trước hết cho những người đầu tiên suy đoán về lực và chuyển động chấp nhận… Để các nhà vật lý học tiến tới sự vất bỏ động lực học của Aristoteles và xây dựng khoa động lực học hiện đại, họ phải hiểu được rằng những sự kiện mà họ chứng kiến hàng ngày không hề là những sự kiện đơn giản, sơ đẳng, mà các quy luật cơ bản của động lực học phải áp dụng vào được tức thì: rằng sự kiện con tàu trôi tới do có người kéo, sự kiện cỗ xe có đóng ách lăn bánh trên tuyến đường… phải được xem là những chuyển động cực kỳ phức tạp; nói tóm lại, để hiểu cái nguyên lý của khoa học về sự chuyển động, chúng ta phải xem xét, thông qua sự trừu tượng hóa, một động tử chuyển động trong chân không dưới tác động của một lực duy nhất. Thế nhưng, từ môn động lực học của mình, Aristotelês đã đi xa tới mức kết luận rằng một chuyển động như vậy là không thể có». (P. Duhem, Le Système du monde, Paris, 1913, I, tr. 194 và tt).
[18] Xem trên trang mục này: Galileo Galilei, Ngôn Ngữ Của Tự Nhiên. NVK
[19] Xem: Kurd Lasswitz, Geschichte der Atomistik, Hamburg, 1890, II, tr. 23 tt.; E. Mach, Die Mechanik in ihrer Entwicklung, xb lần 8, Leipzig, 1921, tr. 117 tt.; E. Wohlwill, «Die Entdeckung des Beharrunggesetzes», Zeitschrift fur Volkerpsychologie und Sprachwissenschaft, q. XIV et XV, 1883 và 1884 ; E. Cassirer, Das Erkenntnisproblem in der Philosophie und Wissenschaft der neueren Zeit, xb lần 2, Berlin, 1911, I, tr. 394 và tt.
[20] Xem trên trang mục này: Albert Einstein & Leopold Infeld, Vai Trò Của Trực Giác Và Suy Luận Trong Sự Hình Thành Của Luật Quán Tính. NVK
[21] Xem: E. Meyerson, sđd, tr. 124 và tt.
[22] Ý niệm Kosmos biến mất, nhưng từ kosmos vẫn còn. Newton không ngừng nói về vũ trụ và trật tự của nó (như ông vẫn nói về impetus16), nhưng trong một nghĩa hoàn toàn mới.
[23] Như tôi đã cố gắng chỉ ra, khoa học hiện đại là kết quả của sự thống nhất thiên văn học với vật lý học, và sự kiện này đã cho phép ta áp dụng các phương pháp toán học, cho đến lúc đó chỉ được dùng để nghiên cứu những hiện tượng thấy trên bầu trời, vào việc nghiên cứu những hiện tượng thấy trên mặt đất. (A. Koyré, Études galiléennes, III, Galilée et la loi d’inertie, Paris, 1940).
[24] «Descartes đã giải thoát khoa vật lý học khỏi nỗi ám ảnh của Vũ Trụ Hy Lạp hóa, nghĩa là khỏi hình ảnh của một trạng thái ưu đãi nào đó phù hợp với nhu cầu mỹ học của chúng ta… Không có trạng thái nào được ưu đãi hết, bởi vì mọi trạng thái đều tương đương. Như vậy là không có chỗ cho sự truy tìm những lý do mục đích, và sự cân nhắc xem trạng thái nào là tốt nhất trong vật lý học» (E. Bréhier, Histoire de la philosophie, q. II, t. l, Paris, 1929, tr. 95).
[25] «Để đánh giá hệ thống động lực học của Aristotelês, nếu chúng ta gác bỏ được những thành kiến phát xuất từ nền giáo dục hiện đại của ta, và nếu chúng ta tìm được cách tự đặt mình vào não trạng mà một người suy nghĩ độc lập vào đầu thế kỷ XVII có thể có, thì ta khó lòng không nhận biết rằng hệ thống ấy là phù hợp với sự quan sát trực tiếp những sự kiện hơn là hệ thống của chúng ta rất nhiều» (P. Tannery, «Galilée et les principes de la dynamique», Mémoires scientifiques, VI, Paris, 1926, tr. 399).
[26] Xem: A. Koyré, Études galiléennes, II, La loi de la chute des corps, Paris, 1940.
[27] Raffaello Caverni (1837-1900): sử gia khoa học người Ý. Tác phẩm: Storia del metodo sperimentale in Italia (5 q., 1891-1896). NVK
[28] Xem : R. Caverni, Storia del metodo sperimentale in Italia, 5 q., Firenze, 1891-1896, đặc biệt các q. IV et V. – P. Duhem, Le Mouvement absolu et le mouvement relatif, Paris, 1905; «De l’accélération produite par une force constante», Congrès international de l’Histoire des Sciences, lần III, Genève, 1906; Études sur Léonard de Vinci: Ceux qu’il a lus et ceux qui l’ont lu, 3 vol., Paris, 1909-1913, đặc biệt q. III: Les précurseurs parisiens de Galilée. Gần đây thôi, luận điểm về tính liên tục còn được John Herman Randan Jr. bênh vực trong một bài báo xuất sắc: «Scientific method in the school of Padua», Journal of the History of Ideas, l, 1940; ở đây, Randan cho thấy một cách thuyết phục sự xây dựng dần dần các phương pháp phân tích và tổng hợp («résolution et composition») trong giảng dạy của các nhà lô-gic học thời Phục Hưng. Tuy nhiên, cũng chính Randan lại tuyên bố rằng: a) «không có [thiếu] một yếu tố trong phương pháp do Zabarella thiết lập: ông ta không đòi hỏi rằng các nguyên lý của khoa học tự nhiên phải là toán học» (tr. 204), và b) rằng quyển Tractatus de paedia của Cremonini «ngân vang như lời cảnh cáo long trọng cho các nhà toán học đầy vẻ đắc thắng của truyền thống kinh nghiệm chủ nghĩa lý tính» (sđd). Thế nhưng, theo tôi, chính sự nhấn mạnh trên vai trò của toán học cộng thêm vào phương pháp lô-gic của Zabarella mới chính xác tạo ra nội dung của cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ XVII, và vạch ra đường phân thủy giữa phe theo Platôn và bên theo Aristotelês trong ý kiến của người đương thời.
[29] Giambattista Benedetti, hay, Giovanni Battista Benedetti (1530-1590): nhà toán học và vật lý học người Ý. Tác phẩm: Resolutio omnium Euclidis problematum aliorumque (1553), Consideratione d’intorno al discorso della grandezza della terra e dell’acqua (1579), De gnomonum umbrarumque solarium usu (1574), Diversarum speculationum mathematicarum et physicarum liber (1585). NVK
[30] Giordano Bruno (1548-1600): tu sĩ dòng Đa Minh, nhà triết học, toán học và thiên văn học người Ý, bị hỏa thiêu tại Roma năm 1600 vì những tư tưởng tôn giáo và khoa học trái ngược với truyền thống. Tác phẩm chính : La Cena de le Ceneri (1584) = The Ash Wednesday Supper; De la causa, principio, et uno (1584) = Concerning Cause, Principle, and Unity ; De l’infinito universo et mondi (1584) = On the Infinite Universe and Worlds. NVK
[31] Xem: A. Koyré, Études galiléennes, I : À l’aube de la science classique, Paris, 1940.
[32] Thế kỷ XVI, ít nữa trong nửa sau của nó, là thời kỳ mà người ta tiếp nhận, nghiên cứu, và dần dần hiểu Arkhimêdês.
Cuộc Cách Mạng Khoa Học
Từ những năm 40 của thế kỉ XX, nước Mĩ đã đi đầu thế giới trong cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại. Với quy mô rộng lớn, nội dung sâu sắc và toàn diện, cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần này đã đem lại cho con người những thành tựu kì diệu, làm thay đổi cả thế giới, song cũng có mặt trái của nó. Vậy cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần này bắt nguồn từ đâu, nó có đặc điểm và thành tựu nổi bật gì so với trước? Phải chăng xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ từ những năm cuối thế kỉ
Chương VI: CÁCH MẠNG KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ VÀ XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ
CÁCH MẠNG KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
VÀ XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ NỬA SAU THẾ KỈ XX
– Nắm vững nguồn gốc, đặc điểm và thành tựu chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ.
– Hiểu rõ xu thế toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó
I. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
– Cách mạng khoa học – công nghệ là cuộc cách mạng có sự biến đổi về chất và sự kết hợp giữa những phát minh lớn lao trong các ngành khoa học và những phát triển trong kĩ thuật sản xuất, tạo thành một lực lượng sản xuất mạnh mẽ, trong đó nhấn mạnh yếu tố công nghệ.
– Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật ngày nay bắt nguồn từ những năm 40 của thế kỉ XX.
– Xuất phát từ đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất, nhằm đáp ứng yêu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.
– Do sự bùng nổ về dân số và sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên.
– Mọi phát minh đều bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu khoa học.
– Trong lĩnh vực khoa học cơ bản: loài người đạt được những thành tựu kì diệu trong lĩnh vực Toán học, Vật lí, Sinh học…
– Trong lĩnh vực công nghệ:
+ Công cụ sản xuất mới: Máy tính điện tử, người máy..
+ Nguồn năng lượng mới: Năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử…
+ Vật liệu mới: Polime…
+ Công nghệ sinh học: Công nghệ gen, công nghệ di truyền…
+ Thông tin liên lạc và giao thông vận tải: Điện thoại di động, tàu siêu tốc…
+ Chinh phục vũ trụ: Đưa người lên mặt trăng, thám hiểm sao hỏa…
+ Tăng năng suất lao động.
+ Nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của con người.
+ Thay đổi về cơ cấu dân cư, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục và đào tạo nghề nghiệp.
+ Hình thành một thị trường thế giới với xu thế toàn cầu hóa.
– Hạn chế: Gây ra những hậu quả mà con người chưa khắc phục được:
+ Tai nạn lao động, tai nạn giao thông.
+ Tạo ra những vũ khí mang tính huỷ diệt cao, đe dọa đời sống con người.
+ Ô nhiễm môi trường, trái đất nóng lên băng tan.
+ Bệnh tật hiểm nghèo, các dịch bệnh lây lan nhanh…
II. Xu hướng toàn cầu hoá và ảnh hưởng của nó.
– Từ đầu những năm 80, đặc biệt là từ sau chiến tranh lạnh, xu thế toàn cầu hoá đã xuất hiện.
Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
– Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.
– Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia.
– Sự sáp nhập hợp nhất các công ty thành những tập đoàn khổng lồ.
– Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.(IMF,WTO,EU….)
+ Thúc đẩy nhanh và mạnh sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, mang lại sự tăng trưởng cao.
+ Góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế.
+ Đặt ra các yêu cầu phải cải cách sâu rộng để nâng cao cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
+ Gia tăng bất công xã hội và hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước, giữa các nước.
+ Làm cho mọi hoạt động và đời sống con người kém an toàn hơn.
+ Tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ quốc gia.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá là xu thế tất yếu không thể đảo ngược; vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Nêu đặc điểm của cuộc CM KH – CN? So sánh với cuộc CM KH- KT lần thứ nhất
Trong giai đoạn sau của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại, cuộc cách mạng chủ yếu diễn ra về lĩnh vực nào?
A. Năng lượng. B. Tin học. C. Công nghệ. D. Sinh học.
3. Một hệ quả quan trọng của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại là
A. xu thế hòa hoãn Đông – Tây xuất hiện.
B. xu thế toàn cầu hóa.
C. hòa bình được củng cố.
D. xu thế đa cực.
4. Ý nghĩa then chốt, quan trọng nhất của cách mạng khoa học – công nghệ nửa sau thế kỉ XX là:
A. Tạo ra một khối lượng hàng hoá đồ sộ
B. Sự giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng
C. Thay đổi một cách cơ bản các nhân tồ sản xuất
D. Đưa loài người chuyển sang nền văn minh trí tuệ
5. Hạn chế cơ bản nhất của cách mạng khoa học – kĩ thuật lần 2 là gì?
A. Đã chế tạo nhiều vũ khí hiện đại, đẩy nhân loại đứng trước nguy cơ CTTG III.
B. Nạn khủng bố phổ biến, tình hình thế giới căng thẳng.
C. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân hủy diệt loài người.
Khái Quát Về Cuộc Cách Mạng Khoa Học
Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật (KHKT) là một quá trình thay đổi căn bản của hệ thống kiến thức về KHKT diễn ra trong mối quan hệ khăng khít với quá trình phát triển của xã hội loài người. Cho đến nay, loài người đã trải qua hai cuộc Cách mạng KHKT. Cuộc Cách mạng KHKT gắn với cuộc Cách mạng Công nghiệp vào thế kỷ XVIII – XIX và cuộc Cách mạng KHKT hiện đại diễn ra từ năm 1940 đến nay. Hai cuộc Cách mạng KHKT đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tác động mạnh mẽ đến đời sống và kinh tế – xã hội của thế giới, đặc biệt là cuộc Cách mạng KHKT hiện đại. Cuộc Cách mạng KHKT hiện đại đã trải qua hai giai đoạn: giai đoạn I từ năm 1940 đến năm 1970 và giai đoạn II từ năm 1970 đến nay.
Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật: Giai đoạn I
Tăng cường khai thác các nguồn năng lượng, mở rộng các cơ sở nguyên vật liệu;
Tăng cường cơ khí hóa, nâng cao năng suất lao động;
Chú trọng phát triển các ngành sản xuất truyền thống sử dụng nhiều nguyên liệu như: luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất và dệt;
Mở rộng phạm vi nghiên cứu ra các đại dương và khoảng không vũ trụ;
Nghiên cứu ứng dụng di truyền học như kỹ thuật gen để nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
Nhờ vậy, khối lượng các sản phẩm hàng hóa tăng nhanh, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế thế giới trung bình năm khá cao (khoảng 5 – 6%). Nguồn của cải vật chất dồi dào đã làm cho đời sống của nhân dân nhiều nước được cải thiện.
Nhưng sự phát triển với tốc độ nhanh của nền kinh tế theo chiều rộng trong giai đoạn này, đặc biệt là sản xuất công nghiệp với cường độ và quy mô lớn đòi hỏi khối lượng nguyên, nhiên liệu lớn, dẫn đến tình trạng suy kiệt các tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Thập kỷ 70 đã xảy ra cuộc khủng hoảng năng lượng và nguyên liệu, giá các loại nguyên vật liệu cũng như nhân công tăng rất cao, sự cạnh tranh thị trường giữa các nước công nghiệp diễn ra khốc liệt.
Trước tình trạng đó, buộc các nước phải chuyển hướng sang phát triển bền vững, phát triển kinh tế tri thức, tăng cường sử dụng KHKT nhiều hơn vào việc đổi mới nền sản xuất, phát triển các ngành công nghệ mới nhằm giảm bớt sự tiêu hao các nguyên vật liệu và nhân công lao động, tạo được nhiều sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ. Do vậy, cuộc Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật hiện đại chuyển sang giai đoạn II.
Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật: Giai đoạn II
Thay thế và giảm bớt việc sử dụng các nguồn năng lượng, nguyên vật liệu truyền thống
Các nguồn năng lượng truyền thống vẫn được sử dụng trong sản xuất gồm: than đá, dầu mỏ, khí đốt… Các nguồn năng lượng này đều thuộc các loại tài nguyên có khả năng cạn kiệt. Việc khai thác chúng ngày càng trở nên khó khăn, tốn kém và các nguồn tài nguyên này đang bị suy kiệt. Thêm vào đó, việc sử dụng các loại năng lượng truyền thống lại gây ra tình trạng hiệu ứng nhà kính, làm cho Trái Đất nóng lên và ô nhiễm môi trường.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang tăng cường phát triển các nhà máy điện chạy bằng năng lượng nguyên tử để thay thế cho các nhà máy nhiệt điện. Ở một số nước, nguồn điện mới này đã chiếm tới 50% tổng sản lượng điện (như ở Pháp). Những năm gần đây, công nghệ nano được nghiên cứu và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt vào việc chế tạo, xây dựng các nhà máy điện năng lượng nguyên tử để nâng cao độ an toàn của các thiết bị, tạo ra nguồn năng lượng sạch (Pháp là nước đi đầu trong lĩnh vực này). Kế hoạch của Việt Nam năm 2020 sẽ có nhà máy điện năng lượng nguyên tử đầu tiên đi vào vận hành.
Song song với việc phát triển điện nguyên tử, các nhà khoa học và các nước cũng đang tăng cường nghiên cứu, ứng dụng việc sử dụng các nguồn năng lượng của thủy triều, gió, năng lượng Mặt Trời, nhiệt trong lòng đất…
Việc giảm bớt mức tiêu thụ năng lượng, nguyên vật liệu còn có nhiều thành cồng trong việc chế tạo ra các loại phương tiện, thiết bị, máy móc sử dụng ít nguyên liệu truyền thống và giảm tiêu hao năng lượng, hoặc sử dạng năng lượng mới không gây ô nhiễm…
Ngoài ra cũng đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu và sử dụng các loại nguyên vật liệu nhân tạo mới, có tính năng tốt hơn như: hợp kim, chất dẻo, sợi thủy tinh, các chất tổ hợp, các chất gốm sứ chịu áp lực cao, các chất bán dẫn, siêu dẫn… giúp cho việc giảm mức tiêu thụ các loại nguyên, nhiên vật liệu, giải quyết các vấn đề phức tạp trong công nghệ và kinh doanh.
Tăng cường tự động hóa trong sản xuất công nghiệp và nhiều ngành kinh tế
Để tăng cường tự động hóa đã có nhiều nghiên cứu, ứng dụng nhằm chế tạo ra các thiết bị hiện đại như máy tính điện tử, máy điều khiển số, người máy (rôbôt)… Nhờ đó mà có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn. Những kết quả này đã góp phần giảm bớt hoặc thay thế cho người lao động trong những công việc đơn giản, công việc nặng nhọc hoặc nguy hiểm để tăng cường nguồn lao động có kỹ thuật cao.
Phát triển nhanh và không ngừng hoàn thiện kỹ thuật điện tử và tin học viễn thông
Đây là những ngành mới, nhưng có vai trò quan trọng, chi phối toàn bộ phương tiện kỹ thuật hiện đại. Nhờ đó, có thể phát huy tốt nhất sức mạnh và trí tuệ của con người, rút ngắn được khoảng cách về thời gian và không gian trong thu thập, xử lý thông tin, liên lạc cũng như trong nhiều lĩnh vực khác.
Phát triển công nghệ sinh học để có những sản phẩm mới, năng suất cao, chất lượng tốt
Các ngành công nghệ sinh học được phát triển trên cơ sở những khám phá, phát minh trong lĩnh vực sinh vật học, di truyền học như kỹ thuật gen, kỹ thuật nuôi cấy tế bào, công nghệ vi sinh…
Sự phát triển các ngành công nghệ này đã mở ra những triển vọng to lớn cho ngành nông nghiệp và đối với sự sống của con người, như việc nhân bản tế bào, xây dựng sơ đồ gen, men vi sinh, nuôi cấy mô… Kết quả giúp cho con người tạo ra nhiều vật chất mới, giảm sự phụ thuộc của con người vào tự nhiên, tăng khả năng chữa được nhiều bệnh nan y…
Phát triển công nghệ môi trường
Loài người sử đụng ngày càng nhiều nguyên, nhiên liệu và xả vào môi trường ngày càng nhiều chất thải. Ô nhiễm môi trường do các chất thải trở thành vấn đề đối mặt của các quốc gia và toàn thế giới.
Vì vậy, những thập kỷ gần đây có nhiều nghiên cứu, ứng dụng vào việc xử lý, tái chế các chất thải. Nước thải được thu gom, sử dụng công nghệ hóa sinh để làm sạch. Rác thải được thu gom, phân loại rồi tái chế hoặc xử lý, tạo ra nguồn năng lượng sử dụng trong các nhà máy nhiệt điện. Những nước công nghiệp phát triển đã tăng cường phát triển công nghệ này như: CHLB Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thụy Sỹ …
So Sánh 2 Cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật
Cách mạng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1733. Cuộc cách mạng này chính là khởi nguồn cho sự phát triển khoa học, công nghệ:
Năm này, John Kay đã phát minh ra chiếc “thoi bay” được sử dụng trong công nghệ dệt. Phát minh này đã giúp nâng cao hiệu suất lao động đáng kể.
Năm 1976, nhà phát minh James Hagreaves đã sáng chế ra xa kéo 8 sợi. Cỗ máy được đặt tên theo tên con trai của ông là Jenny.
Năm 1769, Richard Arkwright đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.
Năm 1785, linh mục Edmund Cartwright đã phát minh ra máy dệt. Đây chính là cỗ máy thay đổi hoàn toàn công nghệ dệt may, giúp tăng hiệu xuất lên 40 lần.
Phát minh ra máy dệt chính tác động không nhỏ đến các ngành công nghiệp khác phát triển. Cụ thể là thời điểm lúc bấy giờ, để lợi dụng sức nước, máy dệt thường được đặt ở khu vực sông, suối. Điều này gây ra không ít bất tiện.
Năm 17984, James Watt đã có một sáng chế vĩ đại. Đó chính là máy hơi nước. Điều này giúp cho hệ thống nhà máy dệt có thể được lắp đặt ở bất cứ đâu, không còn phụ thuộc vào các vị trí địa lý như sông, suối. Đây chính là phát minh đánh dấu cho sự phát triển của ngành cơ giới hóa.
Năm 1784, Henry Cort tạo ra cách luyện sắt mới được đặt tên là “puddling”. Đến năm 1885, Henry Bessemer đã sáng chế ra lò cao. Nó có khả năng luyện gang dạng lỏng thành thép cứng rắn.
Năm 1804: phát minh đầu máy xe lửa.
Năm 1829: xe lửa được cải tiến và nâng cấp đặt tốc độ 14 dặm/giờ.
Năm 1807, Robert Fulton phát minh ra tàu thủy có thể chạy bằng hơi nước. Đây là bước tiến vượt trội, giúp thay thế cho thuyền di chuyển bằng mái chèo, cánh buồm.
Galileo Galilei phát minh ra kính thiên văn dùng để quan sát bầu trời.
Isaac Newton tìm ra định luật Vạn vật hấp dẫn.
Joseph Priestley khám phá ra nguyên tố oxy.
Năm 1869, Dmitri Mendeleev phát minh ra Bảng hệ thống tuần hoàn.
Andreas Vesalius phát hành ấn phẩm về cấu trúc cơ thể người.
Năm 1860, James Clerk Maxwell đưa ra lý thuyết về bản chất của ánh sáng. Cụ thể, ông chỉ ra ánh sáng là một dạng sóng điện từ do mắt người nhìn thấy.
Năm 1885, Heinrich Hertz đã đưa ra lập luận và chứng minh các loại sóng điện từ có tốc độ khác nhau. Tên của ông được dùng để đặt cho đơn vị tính chu kỳ.
Năm 1895, Wilhelm Röntgen đã phát minh ra loại tia X. Đây là loại tia có khả năng đâm xuyên qua các vật thể.
Năm 1898, vợ chồng Pierre Curie và Marie Curie tinh chế được chất nguyên tử uranium vô cùng quý hiếm.
Năm 1876, Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại đầu tiên trên thế giới.
Năm 1879, Thomas A. Edison phát minh ra máy làm sáng.
So sánh 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật – Cách mạng lần thứ 2
Giai đoạn cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 là thời kỳ hàng loạt các phát minh lớn được ra đời. Con người đã ứng dụng các kiến thức về toán, lý, hóa… vào cải tiến kỹ thuật phục vụ cuộc sống và sản xuất.
Tháng 3 năm 1997: cừu Đôly sinh ra bằng sinh sản vô tính.
Tháng 4 năm 2003: “Bản đồ gen người” được công bố. Đây là tia sáng, niềm hi vọng về việc chữa trị các căn bệnh nan y.
Phát minh ra máy tính điện tử, robot, hệ thống máy tự động…
Tìm ra nguồn năng lượng mới: nguyên tử, gió, mặt trời, thủy triều, nhiệt bạch…
Phát minh ra loại vật liệu mới: polime, composite, gốm cao cấp…
Công nghệ sinh học
Giao thông vận tải: tàu hỏa siêu tốc, máy bay siêu âm
Thông tin liên lạc: truyền hình trực tiếp, cáp quang dẫn, điện thoại di động.
Các phát minh nổi tiếng, đánh dấu bước ngoặt này:
Có thể nói cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 chính cách mạng công nghệ thông tin. Giai đoạn này công nghệ thông tin đã bùng nổ trên toàn cầu.
Kết luận khi so sánh 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
Nhìn chung, sẽ không có sự so sánh 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nào mang tính chuẩn xác nhất. Nhưng có thể nói cuộc cách mạng lần thứ nhất chính là tiền đề, bước đầu tiên để đặt nền móng cho sự phát triển sau này.
Vì vậy dù có 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật như thế nào thì vai trò của chúng đối với sự phát triển của loài người và thế giới vẫn rất quan trọng. Mỗi một cuộc cách mạng đều là dấu mốc lịch sử giúp thay đổi thế giới.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Cuộc Cách Mạng Của Galileo Trong Vật Lý Học Thế Kỷ 17 (A. Koyré, 1943) trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!