Đề Xuất 3/2023 # Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội # Top 12 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 3/2023 # Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Khoa học và Công nghệ

-

Khoa học xã hội chia ra làm hai nửa: khoa học xã hội truyền thống và khoa học xã hội tính toán. Phe nào sẽ được vinh danh trên ‘đại lộ danh vọng’ của ngành khoa học này?

Các nhà khoa học nghiên cứu dữ liệu từ hàng ngàn người sử dụng mạng xã hội để phân tích các nhóm có hành vi cực đoan. Nguồn: Minzhang Zheng và Neil Johnson

Sau gần một thập kỷ miệt mài trên con đường trở thành một nhà xã hội học thực thụ, bỗng ngày nọ khi đang thực hiện một dự án, Elizaveta Sivak – đang làm việc tại Trường Kinh tế Cao cấp trực thuộc Đại học Nghiên cứu Quốc gia ở Moscow, chuyên nghiên cứu về gia đình và thời thơ ấu – nhận ra rằng còn rất nhiều điều mà cô cần phải học.    Vào năm 2015, cô đã tiến hành nghiên cứu các hoạt động của thanh thiếu niên bằng cách thực hiện một loạt các cuộc phỏng vấn yêu cầu họ kể tên mười địa điểm mà họ đã đến trong năm ngày qua. Một năm sau, dù đã phân tích xong dữ liệu nhưng cô vẫn cảm thấy khá thất vọng vì kết quả chỉ dựa trên cơ sở các cuộc phỏng vấn riêng lẻ. Khi người đồng nghiệp cho Sivak xem một bài báo phân tích dữ liệu từ Copenhagen Networks Study – một dự án đột phá theo dõi các mối liên hệ trên mạng xã hội, nhân khẩu học và vị trí của khoảng 1.000 sinh viên, với thời gian cập nhật phân tích là 5 phút một lần, trong suốt năm tháng. Khoảnh khắc ấy, cô biết rằng lĩnh vực nghiên cứu của mình sắp rẽ sang một hướng mới. “Tôi nhận ra rằng những kiểu dữ liệu mới này sẽ cách mạng hóa ngành khoa học xã hội mãi mãi. Và tôi nghĩ điều đó thật tuyệt”. Sau đó, Sivak quyết định học lập trình, và tham gia vào “cuộc cách mạng”. Giờ đây, cô và các nhà khoa học xã hội tính toán khác đang khảo sát các tập dữ liệu khổng lồ và phức tạp, rút ra ý nghĩa từ những hoạt động trên nền tảng số của xã hội. Họ đang theo dõi các hoạt động  trực tuyến của mọi người; khảo sát sách và tài liệu lịch sử đã được số hóa; diễn giải dữ liệu từ các thiết bị cảm biến gắn trên người để ghi lại mọi bước đi và liên hệ của một cá nhân; thực hiện các cuộc khảo sát và thử nghiệm trực tuyến nhằm thu thập hàng triệu điểm dữ liệu; và thăm dò các cơ sở dữ liệu đồ sộ đến mức chúng có thể tiết lộ những bí mật to lớn của xã hội – chỉ bằng sự trợ giúp của các phép phân tích dữ liệu đầy tinh vi.  Markus Strohmaier, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Kỹ thuật Rhine-Westphalia Aachen ở Đức cho biết: “Thành tựu lớn nhất là các nhà khoa học đã thay đổi suy nghĩ của mình về dữ liệu hành vi kỹ thuật số và bắt đầu nhìn nhận nó như một nguồn dữ liệu thú vị và hữu ích”. Nhưng không phải ai cũng chấp nhận sự thay đổi này. Một số nhà khoa học xã hội lo ngại các nhà khoa học máy tính đang quá tham vọng, họ vội vã tràn vào lĩnh vực này dù những bộ dữ liệu lớn của họ vẫn chưa thực sự tương hợp với các nghiên cứu trước đó. Một số người thì phàn nàn rằng các nhà nghiên cứu tính toán chỉ xem xét mẫu mà bỏ quên nguyên nhân, hoặc họ đưa ra kết luận khá mau chóng từ nguồn dữ liệu không đầy đủ và lộn xộn – thường thu được từ các nền tảng truyền thông xã hội và các nguồn dữ liệu bẩn khác. Mặt khác, một số nhà khoa học xã hội tính toán đến từ các lĩnh vực như vật lý và kỹ thuật cho rằng nhiều lý thuyết khoa học xã hội quá viển vông hoặc không thể kiểm chứng. Marc Keuschnigg, nhà xã hội học phân tích tại Đại học Linköping ở Norrköping, Thụy Điển, cho biết tất cả những luồng tranh cãi này giống như “một cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe phái. Kẻ chiến thắng cuối cùng sẽ được vinh danh trên ‘đại lộ danh vọng’ của ngành khoa học xã hội”. Nhưng hai phe rốt cục cũng hòa hoãn. Keuschnigg chia sẻ “Sự giao thoa của khoa học xã hội tính toán với khoa học xã hội truyền thống là không thể phủ nhận”, ông chỉ ra sự bùng nổ của nó trên các tạp chí, hội nghị và chương trình học. “Họ cũng bắt đầu tôn trọng nhau hơn”. 

Cuộc cách mạng tính toán

“Thành tựu lớn nhất là các nhà khoa học đã thay đổi suy nghĩ của mình về dữ liệu hành vi kỹ thuật số và bắt đầu nhìn nhận nó như một nguồn dữ liệu thú vị và hữu ích”. (Markus Strohmaier, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Kỹ thuật Rhine-Westphalia Aachen).

Sau đó, các tạp chí lớn đã xuất bản một loạt các nghiên cứu khoa học xã hội tính toán. Một nghiên cứu từ năm 2006 đã xem xét cách xã hội ảnh hưởng đến sự phổ biến của một bài nhạc bằng việc tạo ra một thị trường âm nhạc trực tuyến nhân tạo có 14.341 người sử dụng. Những người tham gia đã tải xuống các bài nhạc – mà không phải lúc nào cũng được biết trước rằng bài nhạc đó có nổi tiếng hay không. Nghiên cứu cho thấy mức độ phổ biến của một bài hát trở nên khó dự đoán hơn khi hành vi của người dùng bị ảnh hưởng bởi hành vi của những người khác, điều này phần nào giải thích cho lý do vì sao các nhà sản xuất khó có thể dự đoán trước thành công của một bài nhạc.  Hai năm sau, một nghiên cứu đã phân tích sự di chuyển của 100.000 người dùng điện thoại di động trong vòng sáu tháng và phát hiện ra rằng khá dễ để dự đoán xu hướng đi du lịch của mọi người. Các tác giả có thể tính toán khả năng tìm thấy một cá nhân ở bất kỳ địa điểm cụ thể nào, họ cho rằng việc xác định những điểm tương đồng trong các mô hình đi lại trong cộng đồng có thể là một nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà quy hoạch đô thị, đồng thời giúp chúng ta hiểu được sự lây lan của dịch bệnh hoặc chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp. Cùng năm đó, một bài báo trên tạp chí công nghệ Wired cho rằng, kỷ nguyên dữ liệu lớn sẽ đánh dấu hồi kết của lý thuyết trong các ngành khoa học. Mặc dù bị nhiều người chỉ trích là bài báo đang làm quá lên, nhưng nó thực sự gây chấn động: hơn một thập kỷ sau, các nhà khoa học xã hội vẫn liên tục đề cập đến bài báo trên Wired như một tín hiệu cho thấy các lý thuyết khoa học xã hội đang bị tấn công.   Nhưng dữ liệu lớn vẫn tiếp tục phát triển. Đối với Duncan Watts, nhà xã hội học tại Đại học Pennsylvania ở Philadelphia, những thay đổi trong khoa học xã hội gợi nhớ đến những gì đã xảy ra trong ngành sinh học vào những năm 1990, khi công nghệ bắt đầu tạo ra hàng loạt dữ liệu về trình tự DNA và biểu hiện gene. “Dữ liệu mới ào ạt như thác đổ, đòi hỏi chúng tôi phải nhìn nhận về dữ liệu theo một cách rất khác”.  Nhưng các nhà khoa học xã hội truyền thống tỏ ra không mấy ấn tượng trước thành quả ban đầu của cuộc cách mạng. Họ coi các nghiên cứu về mạng xã hội là những thí nghiệm được thực hiện trên hàng nghìn người – mà những người ấy không hay biết rằng mình là ‘vật thí nghiệm’. Vào năm 2018, công ty tư vấn Cambridge Analytica của Anh bị cáo buộc đã thu thập dữ liệu từ hàng triệu tài khoản Facebook mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu. Sau vụ bê bối, mọi người tỏ ra ngờ vực các nghiên cứu trên mạng xã hội, thậm chí nhiều dự án đã vấp phải khó khăn khi các nền tảng đưa ra những chính sách bảo mật mới.

Mặt trái của thuật toán

Những nghiên cứu ban đầu về các vấn đề phức tạp đã làm nảy ra những câu hỏi là phương pháp tiếp cận mới này có thể thấy câu trả lời từ dữ liệu nhưng chắc gì đã giải quyết được những vấn đề cơ bản và tồn tại đã lâu của khoa học xã hội như vấn đề bất bình đẳng hoặc ảnh hưởng của quan điểm xã hội. “Tôi nghĩ là các nhà khoa học xã hội không quan tâm lắm đến nhiều nghiên cứu về mạng Twitter ở thời điểm bắt”, Claudia Wagner, một nhà khoa học xã hội tính toán tại Viện nghiên cứu KHXH GESIS Leibniz, Đức, nói. Một nhà trị liệu ở Mỹ đang kiểm tra phổi của bệnh nhân. Một thuật toán thiên kiến đã đưa ra khuyến nghị về chính sách y tế trên nhiều nhóm bệnh nhân. Nguồn: Alexandra Hootnick/NYT/Redux/eyevine Một số người cho rằng, ít nhất những nghiên cứu đó là sản phẩm của một lĩnh vực mới nổi đang tìm cách định vị mình trong thế giới khoa học. Khi các phân tích trở nên phức tạp và các nguồn dữ liệu trở nên đa dạng hơn, lĩnh vực này đã giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng như gốc rễ của phân biệt đối xử, bất bình đẳng và cực đoan hóa, Strohmaier nói. “Hiện tại thì chúng tôi mới có được loại dữ liệu mình cần để làm cơ sở nghiên cứu các vấn đề lớn”, ông cho biết. Ví dụ, năm ngoái, các nhà nghiên cứu về y tế công cộng và kinh tế học hành vi đã sử dụng bệnh án của hơn 50.000 bệnh nhân trong hệ thống y tế Hoa Kỳ để kiểm tra ngược một thuật toán phân tích, vốn được dùng để đưa ra khuyến nghị nên giám sát và can thiệp sức khỏe thêm đối với một số người. Họ đã dùng mô hình để chỉ ra là thuật toán này có xu hướng phân biệt đối xử một cách có hệ thống đối với người da đen, và do đó có thể ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe của hàng triệu người. Sau đó, các nhà nghiên cứu sử dụng hiểu biết này để tìm ra nguồn gốc của sự thiên vị đó và đề xuất các cách loại bỏ nó. Ví dụ, các thuật toán không nên căn cứ vào số tiền chi cho việc chăm sóc sức khỏe của một cá nhân là yếu tố để đánh giá mức độ chăm sóc mà họ cần vì khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe không bình đẳng bởi người Mỹ da đen thường chi ít tiền hơn so với người Mỹ da trắng, ngay cả khi họ có cùng nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Nhưng đây không phải là thách thức duy nhất: các nhà khoa học xã hội tính toán từ ngành vật lý hoặc khoa học máy tính nhảy sang thường bị cho là không tìm hiểu các lý thuyết khoa học xã hội giải thích về hành vi của con người. Giulia Andrighetto, từng là một triết gia nhưng hiện là nhà khoa học xã hội tính toán tại Viện Khoa học Nhận thức và Công nghệ (Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Ý ở Rome), cho biết: “Họ có mẫu hành vi để phân tích nhưng thường thì họ không tìm hiểu cơ chế làm phát sinh những hành vi đó.”  Để làm được công việc đó đòi hỏi nhà khoa học phải nắm chắc lý thuyết khoa học – xã hội. Jisun An, nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Hamad Bin Khalifa ở Doha, tiến hành nghiên cứu về hành vi chia sẻ tin tức trên mạng xã hội ngay khi phong trào khoa học xã hội tính toán bắt đầu nở rộ. Lúc đầu, cô chỉ làm việc với các nhà khoa học máy tính khác, và họ phải vật lộn để xoay sở với các lý thuyết khoa học xã hội khác nhau. Giờ đây, cô hợp tác với các nhà chính trị học để nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông đối với dư luận – và ngược lại – cũng như cách khuyến khích mọi người tăng cường sự đa dạng cho các nguồn tin tức. “Theo thời gian, mỗi bên rồi cũng sẽ thấu hiểu về ngôn ngữ và phương pháp của nhau”, An cho biết. Đã có những dấu hiệu cụ thể về cú bắt tay này. Các nhà khoa học đang lên kế hoạch tổ chức hội nghị lớn đầu tiên kết hợp hai phương pháp tiếp cận vào năm 2021. Các trường đại học cũng đang mở ra những cơ sở nghiên cứu tập hợp thành viên từ các bộ phận khác nhau để thu hẹp dần khoảng cách, thậm chí Đại học George Mason ở Fairfax, Virginia đã thành lập một khoa riêng. Trại hè dành cho khoa học xã hội tính toán đã diễn ra tại hơn 30 địa điểm trên khắp thế giới, và một nhóm sinh viên trẻ nhiệt tình đã mang lại hy vọng rằng cuộc “đấu tranh” giờ đây sẽ nhường chỗ cho những hợp tác nghiên cứu đa dạng.

Những mâu thuẫn của hai cách tiếp cận 

Hai cách tiếp cận này có thể sẽ kết hợp vô cùng hiệu quả. Nhà khoa học dữ liệu Joshua Blumenstock tại Đại học Washington ở Seattle đã cùng các cộng sự sử dụng dữ liệu điện thoại di động của hàng triệu người ở Rwanda để suy ra tình trạng kinh tế xã hội của họ, sau đó xác nhận kết quả bằng cách so sánh chúng với dữ liệu được thu thập bằng các cuộc khảo sát thông thường. Các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng kết quả để đề xuất những vùng nghèo của đất nước cần được hưởng chính sách mới của chính phủ, hoặc để theo dõi tác động của các chính sách đã được ban hành. Johnson không phải là người duy nhất hoài nghi về tầm quan trọng của lý thuyết đối với các nghiên cứu kiểu như thế này. Giangiacomo Bravo, trước là nhà kinh tế xã hội và hiện là nhà khoa học xã hội tính toán tại Đại học Linnaeus ở Växjö, Thụy Điển, cho rằng nhiều lý thuyết khoa học xã hội hiện nay quá viển vông để có thể kiểm chứng được bằng dữ liệu lớn. Ví dụ, các nhà khoa học thường định nghĩa vốn xã hội là những hiểu biết và giá trị được chia sẻ trong một xã hội cho phép các cá nhân làm việc cùng nhau. “Công thức ban đầu của khái niệm này quá mơ hồ để có thể kiểm chứng. Làm sao mà tôi đo lường được nó?”. Bà không đơn độc trên hành trình sử dụng khoa học xã hội để tác động vào xã hội. Watts cho biết ông và các nhà nghiên cứu khác thường thích xuất bản bài báo hơn là đưa ra các giải pháp thực tế. “Tôi cảm thấy công việc của mình hoàn thành vào lúc bài báo được xuất bản,” ông nói. “Nhiệm vụ của tôi là nêu những ý tưởng và tạo điều kiện cho người khác tìm ra cách biến chúng thành những biện pháp có ý nghĩa.” Watts cho biết, để những thay đổi đó xảy ra, các nhà nghiên cứu từ cả hai lĩnh vực phải hợp tác để cùng phát triển. Và hiện tại thì một vài người đã thấy điều đó đang xảy ra. “Khoa học xã hội truyền thống và khoa học xã hội tính toán đang xích lại gần nhau hơn theo thời gian”, Wagner cho biết. “Trong 20 năm tới, chúng sẽ nhập làm một”. □

Hà Trang dịch Nguồn: https://www.nature.com/articles/d41586-020-01747-1

Khái Quát Về Cuộc Cách Mạng Khoa Học

Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật (KHKT) là một quá trình thay đổi căn bản của hệ thống kiến thức về KHKT diễn ra trong mối quan hệ khăng khít với quá trình phát triển của xã hội loài người. Cho đến nay, loài người đã trải qua hai cuộc Cách mạng KHKT. Cuộc Cách mạng KHKT gắn với cuộc Cách mạng Công nghiệp vào thế kỷ XVIII – XIX và cuộc Cách mạng KHKT hiện đại diễn ra từ năm 1940 đến nay. Hai cuộc Cách mạng KHKT đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tác động mạnh mẽ đến đời sống và kinh tế – xã hội của thế giới, đặc biệt là cuộc Cách mạng KHKT hiện đại. Cuộc Cách mạng KHKT hiện đại đã trải qua hai giai đoạn: giai đoạn I từ năm 1940 đến năm 1970 và giai đoạn II từ năm 1970 đến nay.

Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật: Giai đoạn I

Tăng cường khai thác các nguồn năng lượng, mở rộng các cơ sở nguyên vật liệu;

Tăng cường cơ khí hóa, nâng cao năng suất lao động;

Chú trọng phát triển các ngành sản xuất truyền thống sử dụng nhiều nguyên liệu như: luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất và dệt;

Mở rộng phạm vi nghiên cứu ra các đại dương và khoảng không vũ trụ;

Nghiên cứu ứng dụng di truyền học như kỹ thuật gen để nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.

Nhờ vậy, khối lượng các sản phẩm hàng hóa tăng nhanh, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế thế giới trung bình năm khá cao (khoảng 5 – 6%). Nguồn của cải vật chất dồi dào đã làm cho đời sống của nhân dân nhiều nước được cải thiện.

Nhưng sự phát triển với tốc độ nhanh của nền kinh tế theo chiều rộng trong giai đoạn này, đặc biệt là sản xuất công nghiệp với cường độ và quy mô lớn đòi hỏi khối lượng nguyên, nhiên liệu lớn, dẫn đến tình trạng suy kiệt các tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Thập kỷ 70 đã xảy ra cuộc khủng hoảng năng lượng và nguyên liệu, giá các loại nguyên vật liệu cũng như nhân công tăng rất cao, sự cạnh tranh thị trường giữa các nước công nghiệp diễn ra khốc liệt.

Trước tình trạng đó, buộc các nước phải chuyển hướng sang phát triển bền vững, phát triển kinh tế tri thức, tăng cường sử dụng KHKT nhiều hơn vào việc đổi mới nền sản xuất, phát triển các ngành công nghệ mới nhằm giảm bớt sự tiêu hao các nguyên vật liệu và nhân công lao động, tạo được nhiều sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ. Do vậy, cuộc Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật hiện đại chuyển sang giai đoạn II.

Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật: Giai đoạn II

Thay thế và giảm bớt việc sử dụng các nguồn năng lượng, nguyên vật liệu truyền thống

Các nguồn năng lượng truyền thống vẫn được sử dụng trong sản xuất gồm: than đá, dầu mỏ, khí đốt… Các nguồn năng lượng này đều thuộc các loại tài nguyên có khả năng cạn kiệt. Việc khai thác chúng ngày càng trở nên khó khăn, tốn kém và các nguồn tài nguyên này đang bị suy kiệt. Thêm vào đó, việc sử dụng các loại năng lượng truyền thống lại gây ra tình trạng hiệu ứng nhà kính, làm cho Trái Đất nóng lên và ô nhiễm môi trường.

Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang tăng cường phát triển các nhà máy điện chạy bằng năng lượng nguyên tử để thay thế cho các nhà máy nhiệt điện. Ở một số nước, nguồn điện mới này đã chiếm tới 50% tổng sản lượng điện (như ở Pháp). Những năm gần đây, công nghệ nano được nghiên cứu và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt vào việc chế tạo, xây dựng các nhà máy điện năng lượng nguyên tử để nâng cao độ an toàn của các thiết bị, tạo ra nguồn năng lượng sạch (Pháp là nước đi đầu trong lĩnh vực này). Kế hoạch của Việt Nam năm 2020 sẽ có nhà máy điện năng lượng nguyên tử đầu tiên đi vào vận hành.

Song song với việc phát triển điện nguyên tử, các nhà khoa học và các nước cũng đang tăng cường nghiên cứu, ứng dụng việc sử dụng các nguồn năng lượng của thủy triều, gió, năng lượng Mặt Trời, nhiệt trong lòng đất…

Việc giảm bớt mức tiêu thụ năng lượng, nguyên vật liệu còn có nhiều thành cồng trong việc chế tạo ra các loại phương tiện, thiết bị, máy móc sử dụng ít nguyên liệu truyền thống và giảm tiêu hao năng lượng, hoặc sử dạng năng lượng mới không gây ô nhiễm…

Ngoài ra cũng đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu và sử dụng các loại nguyên vật liệu nhân tạo mới, có tính năng tốt hơn như: hợp kim, chất dẻo, sợi thủy tinh, các chất tổ hợp, các chất gốm sứ chịu áp lực cao, các chất bán dẫn, siêu dẫn… giúp cho việc giảm mức tiêu thụ các loại nguyên, nhiên vật liệu, giải quyết các vấn đề phức tạp trong công nghệ và kinh doanh.

Tăng cường tự động hóa trong sản xuất công nghiệp và nhiều ngành kinh tế

Để tăng cường tự động hóa đã có nhiều nghiên cứu, ứng dụng nhằm chế tạo ra các thiết bị hiện đại như máy tính điện tử, máy điều khiển số, người máy (rôbôt)… Nhờ đó mà có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn. Những kết quả này đã góp phần giảm bớt hoặc thay thế cho người lao động trong những công việc đơn giản, công việc nặng nhọc hoặc nguy hiểm để tăng cường nguồn lao động có kỹ thuật cao.

Phát triển nhanh và không ngừng hoàn thiện kỹ thuật điện tử và tin học viễn thông

Đây là những ngành mới, nhưng có vai trò quan trọng, chi phối toàn bộ phương tiện kỹ thuật hiện đại. Nhờ đó, có thể phát huy tốt nhất sức mạnh và trí tuệ của con người, rút ngắn được khoảng cách về thời gian và không gian trong thu thập, xử lý thông tin, liên lạc cũng như trong nhiều lĩnh vực khác.

Phát triển công nghệ sinh học để có những sản phẩm mới, năng suất cao, chất lượng tốt

Các ngành công nghệ sinh học được phát triển trên cơ sở những khám phá, phát minh trong lĩnh vực sinh vật học, di truyền học như kỹ thuật gen, kỹ thuật nuôi cấy tế bào, công nghệ vi sinh…

Sự phát triển các ngành công nghệ này đã mở ra những triển vọng to lớn cho ngành nông nghiệp và đối với sự sống của con người, như việc nhân bản tế bào, xây dựng sơ đồ gen, men vi sinh, nuôi cấy mô… Kết quả giúp cho con người tạo ra nhiều vật chất mới, giảm sự phụ thuộc của con người vào tự nhiên, tăng khả năng chữa được nhiều bệnh nan y…

Phát triển công nghệ môi trường

Loài người sử đụng ngày càng nhiều nguyên, nhiên liệu và xả vào môi trường ngày càng nhiều chất thải. Ô nhiễm môi trường do các chất thải trở thành vấn đề đối mặt của các quốc gia và toàn thế giới.

Vì vậy, những thập kỷ gần đây có nhiều nghiên cứu, ứng dụng vào việc xử lý, tái chế các chất thải. Nước thải được thu gom, sử dụng công nghệ hóa sinh để làm sạch. Rác thải được thu gom, phân loại rồi tái chế hoặc xử lý, tạo ra nguồn năng lượng sử dụng trong các nhà máy nhiệt điện. Những nước công nghiệp phát triển đã tăng cường phát triển công nghệ này như: CHLB Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thụy Sỹ …

Khoa Học Xã Hội (Social Sciences) Là Gì? Ví Dụ Về Khoa Học Xã Hội

Khái niệm

Khoa học xã hội trong tiếng Anh là Social Sciences.

Khoa học xã hội là một nhóm các ngành học thuật chuyên về nghiên cứu xã hội. Nhánh khoa học này nghiên cứu cách mọi người tương tác với nhau, cư xử, phát triển thành một nền văn hóa và ảnh hưởng đến thế giới.

Khoa học xã hội giúp giải thích cách xã hội hoạt động, khám phá mọi thứ từ các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nguyên nhân gây ra thất nghiệp, cho đến những gì làm cho con người hạnh phúc.

Những thông tin này rất quan trọng và có thể được sử dụng cho nhiều mục đích, một trong những số đó là giúp định hình chiến lược của công ty và chính sách của chính phủ.

Khoa học xã hội phân tích các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cũng như sự phát triển và hoạt động của các xã hội, thay vì nghiên cứu thế giới vật chất. Những môn trong ngành học này phụ thuộc nhiều vào phương pháp giải thích và nghiên cứu định tính.

Khoa học xã hội bao gồm:

– Nhân chủng học

– Kinh tế học

– Khoa học chính trị

– Xã hội học

– Tâm lí xã hội

Luật cũng có một số mối quan hệ với khoa học xã hội, và địa lí cũng vậy.

Ở Mỹ, giáo dục về khoa học xã hội bắt đầu sớm từ cấp tiểu học và phát triển trong suốt trung học cơ sở và trung học phổ thông, tập trung vào các ngành khoa học xã hội cốt lõi như kinh tế và khoa học chính trị. Cấp đại học cung cấp các môn học chuyên ngành hơn.

Nguồn gốc của khoa học xã hội

Nguồn gốc của khoa học xã hội có thể bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại. Cuộc sống của họ, những nghiên cứu ban đầu của họ về bản chất con người, nhà nước và tỉ lệ tử vong, đã giúp hình thành nền văn minh phương Tây.

Adam Smith, Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, Denis Diderot, Immanuel Kant và David Hume là một trong những trí thức lớn đã đặt nền móng cho nghiên cứu khoa học xã hội ở phương Tây.

Ví dụ về khoa học xã hội

Ngày nay, các trường cao đẳng và đại học cung cấp nhiều chương trình khoa học xã hội. Ví dụ, Đại học California, Berkeley có 12 khoa học thuật được phân loại là khoa học xã hội, bao gồm:

– Nghiên cứu người Mỹ gốc Phi

– Nhân chủng học

– Nhân khẩu học

– Kinh tế học

– Nghiên cứu dân tộc

– Nghiên cứu về giới tính và phụ nữ

– Địa lí

– Lịch sử

– Ngôn ngữ học

– Khoa học chính trị

– Tâm lí học

– Xã hội học

(Theo investopedia)

Hằng Hà

So Sánh 2 Cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật

Cách mạng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1733. Cuộc cách mạng này chính là khởi nguồn cho sự phát triển khoa học, công nghệ:

Năm này, John Kay đã phát minh ra chiếc “thoi bay” được sử dụng trong công nghệ dệt. Phát minh này đã giúp nâng cao hiệu suất lao động đáng kể.

Năm 1976, nhà phát minh James Hagreaves đã sáng chế ra xa kéo 8 sợi. Cỗ máy được đặt tên theo tên con trai của ông là Jenny.

Năm 1769, Richard Arkwright đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.

Năm 1785, linh mục Edmund Cartwright đã phát minh ra máy dệt. Đây chính là cỗ máy thay đổi hoàn toàn công nghệ dệt may, giúp tăng hiệu xuất lên 40 lần.

Phát minh ra máy dệt chính tác động không nhỏ đến các ngành công nghiệp khác phát triển. Cụ thể là thời điểm lúc bấy giờ, để lợi dụng sức nước, máy dệt thường được đặt ở khu vực sông, suối. Điều này gây ra không ít bất tiện.

Năm 17984, James Watt đã có một sáng chế vĩ đại. Đó chính là máy hơi nước. Điều này giúp cho hệ thống nhà máy dệt có thể được lắp đặt ở bất cứ đâu, không còn phụ thuộc vào các vị trí địa lý như sông, suối. Đây chính là phát minh đánh dấu cho sự phát triển của ngành cơ giới hóa.

Năm 1784, Henry Cort tạo ra cách luyện sắt mới được đặt tên là “puddling”. Đến năm 1885, Henry Bessemer đã sáng chế ra lò cao. Nó có khả năng luyện gang dạng lỏng thành thép cứng rắn.

Năm 1804: phát minh đầu máy xe lửa.

Năm 1829: xe lửa được cải tiến và nâng cấp đặt tốc độ 14 dặm/giờ.

Năm 1807, Robert Fulton phát minh ra tàu thủy có thể chạy bằng hơi nước. Đây là bước tiến vượt trội, giúp thay thế cho thuyền di chuyển bằng mái chèo, cánh buồm.

Galileo Galilei phát minh ra kính thiên văn dùng để quan sát bầu trời.

Isaac Newton tìm ra định luật Vạn vật hấp dẫn.

Joseph Priestley khám phá ra nguyên tố oxy.

Năm 1869, Dmitri Mendeleev phát minh ra Bảng hệ thống tuần hoàn.

Andreas Vesalius phát hành ấn phẩm về cấu trúc cơ thể người.

Năm 1860, James Clerk Maxwell đưa ra lý thuyết về bản chất của ánh sáng. Cụ thể, ông chỉ ra ánh sáng là một dạng sóng điện từ do mắt người nhìn thấy.

Năm 1885, Heinrich Hertz đã đưa ra lập luận và chứng minh các loại sóng điện từ có tốc độ khác nhau. Tên của ông được dùng để đặt cho đơn vị tính chu kỳ.

Năm 1895, Wilhelm Röntgen đã phát minh ra loại tia X. Đây là loại tia có khả năng đâm xuyên qua các vật thể.

Năm 1898, vợ chồng Pierre Curie và Marie Curie tinh chế được chất nguyên tử uranium vô cùng quý hiếm.

Năm 1876, Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại đầu tiên trên thế giới.

Năm 1879, Thomas A. Edison phát minh ra máy làm sáng.

So sánh 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật – Cách mạng lần thứ 2

Giai đoạn cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 là thời kỳ hàng loạt các phát minh lớn được ra đời. Con người đã ứng dụng các kiến thức về toán, lý, hóa… vào cải tiến kỹ thuật phục vụ cuộc sống và sản xuất.

Tháng 3 năm 1997: cừu Đôly sinh ra bằng sinh sản vô tính.

Tháng 4 năm 2003: “Bản đồ gen người” được công bố. Đây là tia sáng, niềm hi vọng về việc chữa trị các căn bệnh nan y.

Phát minh ra máy tính điện tử, robot, hệ thống máy tự động…

Tìm ra nguồn năng lượng mới: nguyên tử, gió, mặt trời, thủy triều, nhiệt bạch…

Phát minh ra loại vật liệu mới: polime, composite, gốm cao cấp…

Công nghệ sinh học

Giao thông vận tải: tàu hỏa siêu tốc, máy bay siêu âm

Thông tin liên lạc: truyền hình trực tiếp, cáp quang dẫn, điện thoại di động.

Các phát minh nổi tiếng, đánh dấu bước ngoặt này:

Có thể nói cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 chính cách mạng công nghệ thông tin. Giai đoạn này công nghệ thông tin đã bùng nổ trên toàn cầu.

Kết luận khi so sánh 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật

Nhìn chung, sẽ không có sự so sánh 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nào mang tính chuẩn xác nhất. Nhưng có thể nói cuộc cách mạng lần thứ nhất chính là tiền đề, bước đầu tiên để đặt nền móng cho sự phát triển sau này.

Vì vậy dù có 2 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật như thế nào thì vai trò của chúng đối với sự phát triển của loài người và thế giới vẫn rất quan trọng. Mỗi một cuộc cách mạng đều là dấu mốc lịch sử giúp thay đổi thế giới.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Cuộc Cách Mạng Về Dữ Liệu Hành Vi Trong Khoa Học Xã Hội trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!