Đề Xuất 5/2023 # Đề Tài Gia Đình Trong Văn Xuôi Những Năm Gần Đây # Top 5 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 5/2023 # Đề Tài Gia Đình Trong Văn Xuôi Những Năm Gần Đây # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đề Tài Gia Đình Trong Văn Xuôi Những Năm Gần Đây mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI

Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 23 (4-6-1988)

 

ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG VĂN XUÔI NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

MAI HUY BÍCH

Mấy năm trở lại đây, có một hiện tượng văn học đáng chú ý: gia đình trở thành đề tài được nhiều nhà văn quan tâm. Ma Văn Kháng với tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, Lê Lựu với Thời xa vắng, Dương Thu Hương với Bên kia bờ ảo vọng, Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn Tướng về hưu, mỗi người mỗi vẻ đã phát hiện ra, khái quát nhiều vấn đề nóng hổi của gia đình hiện nay mà xã hội học gia đình hằng xuyên quan tâm. Tuy nhiên, nguyên nhân của hiện tượng đó chẳng phải chỉ là sau chiến tranh, ai cũng trở về với gia đình mình: cũng không phải như một nhân vật trong Mùa lá rụng trong vườn nói: “Cái khuynh hướng củng cố gia đình, gia tộc, theo con, nó thể hiện một sự phản ứng, chống lại cái vô đạo đức này hình như có hơi nhiều lên”, hoặc như lời một nhân vật ở Bên kia bờ ảo vọng: “Con người cần gia đình như con thú cần hang ổ… chúng ta cần nơi trú ngụ, nơi trốn tránh mùa đông với những bão giông”. Nói cách khác, việc lý giải nguyên nhân sự quan tâm đến gia đình cũng như cách giải quyết nhiều vấn đề gia đình của một số nhà văn chưa đủ sức thuyết phục. Điều đó đòi hỏi phải xem xét những vấn đề gia đình trong văn học dưới nhãn quan xã hội học để bổ sung cho nhau, nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn gia đình Việt Nam, và nói chung, xã hội, con người Việt Nam hiện nay.

Khoảng 40 năm trước đây, khi những nhân vật như ông Bằng, ông tướng Nguyễn Thuấn đang thời xuân trẻ, đại gia đình “tam, tứ đại đồng đường” (ba, bốn thế hệ cùng sống dưới một mái nhà) nếu không phải một hiện thực phổ biến thì ít nhất cũng là ước mơ cho mọi nhà. Gia đình nói chung còn rất thuần nhất về phương diện xã hội: thời ấy, ông bà, bố mẹ, con cái đều thất học, thường cùng làm một nghề (phổ biến là nghề nông), gia đình là đơn vị sản xuất, các thành viên cùng đổ mồ hôi sôi nước mắt lao động chung nhau, mọi người lúc nào cũng gần nhau, do đó những lo toan, vui buồn của cuộc sống, mọi giá trị cơ bản mọi người đều san sẻ với nhau. Còn gia đình hiện nay, đối tượng thể hiện của các tác phẩm nêu trên mà tiêu biểu là gia đình ông Bằng đang “thấp thoáng những dấu hiệu của sự lủng củng, bất hòa, bất ổn trong các mối tương giao”, đang trải qua quá trình phân hóa sâu sắc. Thành công của các tác phẩm này là đã phản ánh chân thực quá trình đó. Trước hết là sự phân hóa không gian sống của đại gia đình, hay nói theo thuật ngữ xã hội học, hạt nhân hóa gia đình, tức là các đại gia đình chia sẻ thành nhiều gia đình nhỏ chỉ gồm cha mẹ và con cái chưa trưởng thành của họ. So với quá khứ, đây là bước biến chuyển lớn lao về cơ cấu, tác động sâu sắc đến quan hệ gia đình.

Trong khi đó, gia đình ba bốn thế hệ, nói theo lời văn hào L. Tolstoi, lại “đau khổ theo cách riêng của mình” mà gia đình hạt nhân không biết đến. Tuy chung sống dưới cùng một mái nhà, nhưng gia đình không thuần nhất về mặt xã hội như xưa nữa: mỗi người một trình độ học vấn, trong đó con cái có bằng cấp cao hơn cha mẹ già, mỗi người một ngành một nghề, một nơi làm việc riêng, do đó có những quan tâm riêng. Tiêu biểu là gia đình ông tướng về hưu: không có sự hiểu biết lẫn nhau ngay cả giữa vợ với chồng thế hệ già (“Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít”), giữa thế hệ trung niên với thế hệ già (“khi lớn lên tôi chẳng biết gì về cha mình cả”), giữa thế hệ trẻ với thế hệ già (“Hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội”). Khác biệt giữa các thế hệ không chỉ bó hẹp ở những điều tưởng chừng vặt vãnh như thị hiếu, tạo nên “khoảng cách thẩm mỹ” giữa họ (ông tưởng thích thứ sách dễ đọc, cháu ông chỉ có loại sách “đọc rất khó vào”; ông Bằng thích duy nhất bản nhạc Vườn khuya trong khi con ông mê cả nhạc Vécne)… mà còn đụng chạm đến nhiều chuẩn mực đạo đức khá cơ bản. Trong khi ông tướng hết sức bất ngờ biết mình đại diện họ nhà trai một đám cưới mà cô dâu đã không còn “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” nữa, còn em họ ông tức giận đuổi con dâu ra khỏi nhà, thì con dâu ông tướng thản nhiên coi đó là thường. Nếu như ông Bằng sống đơn sơ, “con cái được nuôi dưỡng trong tinh thần tu rèn bổn phận, thực bất cầu bão, cư bất cầu an, coi trọng đạo lý, rời xa phù phiếm”, ngay Cần, con trai ông, cũng nói: “Nhưng lúc này mà cứ nhấn mạnh đạo đức, e không hợp. Đói nghèo lâu quá rồi”, còn Lý phải kêu lên: “Chưa thấy cái nhà nào cổ hủ như cái nhà này. Chỉ thích đạo lý, sách vở… thế thì suốt đời đói nghèo là phải”.

Đặc biệt, do kết quả tự do hôn nhân, thế hệ con cái được lựa chọn bạn đời theo ý mình chứ không phải “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” như trước, con cái gần gũi, thân mật, gắn bó với vợ chồng hơn thời trước, và hơn là với cha mẹ. Với con mắt coi huyết thống cao hơn tâm lý, đặt quan hệ cha mẹ – con cái lên trên quan hệ vợ chồng, nhiều bậc cha mẹ thế hệ già khó lòng chấp nhận cảnh đứa con mà họ dứt ruột đẻ ra lại thân thiết với người không phải máu mủ ruột rà hơn là với họ. Ngòi bút sắc sảo của nhiều nhà văn đã thể hiện được điều đó. Nhân vật bà Bằng chỉ thoáng qua chốc lát nhưng đã để lại ấn tượng khá đậm cùng câu tuyên ngôn “nổi tiếng” với con trai: “Này thằng Đông kia, chết mẹ thì hết mẹ, chứ chết vợ này lấy được vợ khác con ạ!” và đòi nọc con trai đã bốn chục tuổi đầu ra quất roi, vì nghe vợ hơn nghe mẹ. Xuất phát từ mô hình hôn nhân cũ, thế hệ già không thấy được vai trò nhân tố tâm lý, tình cảm trong gia đình thế hệ sau họ.

Vậy là các thế hệ gia đình không chỉ khác nhau về thị hiếu nghệ thuật, quan hệ qua lại giữa các giới vốn có nhịp độ đổi mới nhanh chóng và thường hết sức thích hợp để các thế hệ sau tự khẳng định, tách mình ra khỏi thế hệ trước, mà còn ở nhiều giá trị xã hội quan trọng. Khách quan mà xét, những khác biệt đó, về một vài phương diện, nói lên sự giải phóng cá nhân, tiêu biểu cho xu thế phát triển tiến bộ, là điều mà giới xã hội học mệnh danh “sự di động xã hội đi lên giữa các thế hệ” còn dân gian ta gọi nôm na “con hơn cha là nhà có phúc”. Nhưng chúng đã làm cho thế hệ già vốn sinh trưởng, và được dạy dỗ trong một nền văn hóa coi mẫu mực là cha ông, đời này về cơ bản giống đời khác, lại ở tình thế đối ngược (đang ở đỉnh cao về công danh, địa vị xã hội chuyển sang địa vị người về hưu bình thường, “di động xã hội đi xuống” như ông tướng), khó lòng hiểu nổi. Từ đấy khác biệt sẽ chuyển thành mâu thuẫn, bùng nổ trong gia đình.

Nhưng sự phân hóa trong gia đình không dừng ở cấp độ từng thế hệ, mà tới tận cấp độ từng thành viên. Các thành viên khác nhau tới mức gia đình chỉ còn là nơi tập hợp những con người mà phần lớn thời gian sống của họ lại diễn ra ở một không gian khác, mỗi người một “vũ trụ” riêng, ngăn cách nhau bằng những bức tường vô hình, không còn “ngôn ngữ chung” nữa; nếp nhà biến thành “buồng ngủ chung” theo cách nói của một nhà xã hội học, trong đó cảnh “đồng sàng dị mộng” khá phổ biến. Tướng về hưu đã nêu bật được tình trạng đó. Các thành viên trong gia đình không ai giống ai, nhưng khác biệt sâu sắc nhất là giữa ông tướng với những người xung quanh, đến nỗi ông phải kêu lên: “Sao tôi cứ như kẻ lạc loài!”. Vì sao như vậy? Đó là vì ông tướng xuất thân từ một nhóm xã hội đặc biệt, hết sức khác với các nhóm còn lại. Hàng chục năm chiến tranh không ngớt đã sản sinh ra trong xã hội một nhóm đặc thù – nhóm những quân nhân chuyên nghiệp, “cả đời gắn với súng đạn, chiến tranh”, “ít khi về nhà”, “những lần về đều ngắn” như tướng Thuấn. Đảm nhiệm một chức năng xã hội lớn lao – chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, – chuyên môn hóa sâu sắc ở chức năng đó, tách hẳn các lĩnh vực sống khác, được tổ chức theo tôn ti cấp bậc chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, nên nhóm quân nhân có những giá trị đặc thù (lòng dũng cảm, niềm tin, danh dự, tinh thần phục vụ, tình đồng đội), ngay lối sống, hành vi ứng xử hàng ngày (y phục, cách xưng hô, chào hỏi) cũng khác hẳn. Rời môi trường tách biệt khá nhiều với phần còn lại của xã hội, tướng Thuấn đã chuyển thẳng những chuẩn mực, giá trị đạo đức tương đối tĩnh tại, bất biến của môi trường đó ra xã hội hết sức năng động bên ngoài, và như ta đã thấy, ông không sao hòa nhập được vào “xã hội dân sự”. Sự không hòa nhập đó không chỉ phổ biến qua các tập tục ma chay, cưới xin, mà trầm trọng nhất là ở cách nhìn cuộc sống giản đơn, tư tưởng bình quân và quá thiên về đạo lý mà coi thường những nhu cầu vật chất đa dạng, tốt xấu tất yếu nảy sinh trong xã hội hiện nay.

Ngoài mặt trận, giữa cái sống và cái chết, tinh thần bình quân giữa người chỉ huy và chiến sĩ, xóa nhòa cấp bậc, đồng cam cộng khổ với nhau theo phương châm cổ truyền “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng khiến ông tướng đinh ninh “bình quân là lẽ sống”. Ông không thể ngờ trong đời sống xã hội hiện nay, tư tưởng bình quân đó còn tạo nên mất công bằng, là sức ì ghê gớm kìm chân tiến bộ xã hội. Mặt khác, vị tướng đánh trăm trận đó được hưởng chế độ bao cấp đặc biệt trong quân đội, không phải lo toan cơm áo trong hoàn cảnh giá cả không ngừng leo thang, túi tiền có hạn, một nghịch lý mà có nhà báo gọi là “trận đánh của từng ngày”, lại về hưu sống ở một gia đình đầy đủ vật chất, ông không thấy được cái giá của miếng cơm manh áo đó. Khi phát hiện ra cái giá tàn nhẫn (những miếng rau thai nhi v.v…), ông cương quyết không chấp nhận (“Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này!”). Không hòa nhập được với “xã hội dân sự”, ông trở lại “xã hội quân sự” của mình, ra mặt trận. Phải chăng chi tiết cả nhà đào chum tìm vàng dưới ao, sau khi ông tướng quay lại đơn vị cũ, hàm ý rằng: đời thường của “xã hội dân sự” – do những đòi hỏi gay gắt, cấp thiết và cả do những lệch lạc của nó – vẫn tiếp tục như trước khi ông về, ai không hòa nhập được với nó, ắt bị đẩy ra ngoài lề?

Cả trong văn học lẫn ở ngoài đời, đây không phải là trường hợp của riêng tướng Thuấn. Trong văn học, về phương diện này, ông có nhiều vẻ giống với Đông, trung tá về hưu, ở Mùa lá rụng trong vườn: cũng xa nhà biền biệt, trong nhà “chỉ là người hưởng thụ chứ chưa hề phải lo toan một trọng trách nào, từ việc nuôi dạy con cái tới miếng ăn hàng ngày”, cũng được cuộc sống chiến sĩ tạo cho “một nếp sống, nếp nghĩ lành mạnh giản dị”, cũng tình trạng tách biệt, không thích nghi giữa “xã hội quân sự” và “xã hội dân sự”. Khoảng cách giữa “xã hội quân sự” và “xã hội dân sự” vốn đã lớn, lại càng thêm sâu sắc sau bao nhiêu khó khăn kinh tế và biến động xã hội: hàng chục năm chiến tranh, cả một thế hệ bạc đầu trong khói lửa, không còn điều kiện học nghề gì khác sinh nhai ngoài binh nghiệp, sự thích nghi, hòa nhập với “xã hội dân sự” càng khó khăn, gay gắt, trở thành một vấn đề xã hội lớn lao. Đặt ra được vấn đề xã hội ít người thấy, hoặc thấy nhưng chưa nhìn nhận đúng mức – đó là một thành công của Tướng về hưu. Còn giải quyết vấn đề ra sao, điều đó vượt ra ngoài khuôn khổ truyện ngắn, và có lẽ cũng vượt quá khả năng tác giả, nhưng chắc chắn phải có những biện pháp mà xã hội học gọi là “xã hội hóa để bước sang tuổi già”: chuẩn bị trước về tư tưởng, tâm lý để các quân nhân chuyên nghiệp từng bước về hưu. Và giải pháp khắc phục sự xa cách giữa người với người trong gia đình, củng cố mối tương giao không phải quay trở lại đại gia đình cũ như có nhà văn mong ước. Đời sống xã hội sẽ vận động theo hướng khẳng định cá nhân, cuộc sống gia đình sẽ ngày càng mang đậm tính chất riêng tư hơn; và như vậy, khoảng cách không gian “ở riêng nhưng gần” mới là lý tưởng đối với cha mẹ già và con cái lớn, vì vẫn có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau đồng thời giảm khả năng xung đột thế hệ đến thấp nhất.

***

Trong những vấn đề gia đình hiện nay, một số được các nhà văn tìm các giải quyết trong tác phẩm của mình, một số khác chỉ được đặt ra rồi mở ngỏ. Có nhà văn đề xướng “trở về quy tụ với gia đình, gia tộc”, coi gia đình là “lô cốt cố thủ” để “tất cả những mệt nhọc, buồn phiền, kinh sợ đều đã dừng lại ở ngưỡng cửa căn buồng nhỏ”, để “con người sống với những tình cảm thật sự”: nói theo lời một nhân vật, “chỉ cần khép cửa phòng lại, ôm em với Hương Ly trong vòng tay, anh quên hết mọi khắc nghiệt của cuộc đời”. Nhưng giải pháp này rất chông chênh, một mặt vì nó sai lầm trên quan điểm xã hội học: tách rời gia đình khỏi xã hội, coi gia đình như một ốc đảo trên đại dương đầy sóng gió của đời sống xã hội. Cuộc sống bên ngoài tác động vào chúng ta toàn diện và sâu sắc tới mức đâu dễ dàng rũ bỏ ảnh hưởng của nó mỗi lần trở về với gia đình mình như cởi chiếc áo ngoài bụi bặm trước khi vào nhà! Mỗi người giữ vai trò là chồng, là vợ, là cha, là con trong gia đình thì đồng thời cũng giữ các vai trò khác ngoài đời, có thể nào tách bạch rạch ròi các vai trò đó trong cùng một con người? Mặt khác muốn gia đình thật sự là “lô cốt”, “vấn đề là phải dìu dắt nhau, tạo ra sự hòa hợp về tâm lý trong cả quá trình chung sống chứ. Nghĩa là cả hai bên phải chủ động”. Giải pháp mà Ma Văn Kháng mượn lời một nhân vật tích cực của mình nói lên đã được chính một nhân vật khác trả lời: “Thế thì sống với nhau vất vả quá. Mà đời thì vốn đã khó nhọc lắm rồi”. Nghĩa là giải pháp nhà văn đề ra dễ gì được chấp nhận trong bối cảnh xã hội đầy phức tạp này!

Nhưng có lẽ đáng nói nhất là điều này: thông qua Luận, nhân vật tích cực Ma Văn Kháng viết: “Gia đình, đường phố, cơ quan, xã hội, các tập thể con người, những môi trường sống khác nhau mà đồng dạng, gắn liền”. “Gắn liền” thì rõ rồi, song nếu thế thì chính tác giả tự mâu thuẫn với mình khi chủ trương biến gia đình thành “lô cốt”, tách rời xã hội. Nhưng tại sao lại “đồng dạng”? Trong xã hội cổ truyền từng chịu ảnh hưởng Nho giáo, chính vì coi gia đình và xã hội là đồng dạng, lấy gia đình làm khuôn mẫu để quy chiếu ra xã hội, đưa mục tiêu ứng xử của gia đình – ổn định, hòa mục, trên kính dưới nhường thành mục tiêu của xã hội, thay thế cho tự do, hạnh phúc và tiến bộ, nên người ta đã thủ tiêu đấu tranh, phát triển nhân cách. Và suốt hơn bốn thập kỷ qua, do không ý thức được điều đó, chúng ta cũng đi vào con đường mòn lịch sử này, đã phải trả giá: trong gia đình cũng như xã hội, con người luôn luôn cảm thấy mình là con, là em, phải ăn ở sao cho trong ấm ngoài êm, không bao giờ trở thành một nhân cách độc lập, dám đấu tranh cho công bằng và tiến bộ. Ở ta, ý nghĩa xã hội lớn lao của vấn đề gia đình chính là ở quan hệ đặc biệt giữa gia đình với xã hội này, chứ không bình thường như nhiều xã hội khác.

Suốt một thời kỳ dài, đúng như Ma Văn Kháng nhận xét, một mặt “người ta có ảo tưởng là có thể coi nhẹ các quan hệ gia đình. Các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em… hình như không có gì phải bàn bạc nữa”, nhưng thực ra mọi nỗi niềm gia đình riêng tư con người phải dồn nén lại do chiến tranh khốc liệt, mặt khác, văn học hầu như chỉ được đề cập đến một vài mảng đời sống gia đình nên gia đình không trở thành vấn đề lớn cả trong cuộc sống cũng như văn học. Bây giờ, do tổng hòa những biến đổi mọi mặt, nhân tố riêng tư, cá nhân bắt đầu “cựa quậy”, đòi “xé rào”, đòi giải phóng, đáp ứng các nhu cầu ngày càng phong phú của mình, trong khi đó, gia đình kiểu cũ, gia đình thuần nhất nặng về ràng buộc cá nhân, nên chính nơi đây nảy sinh không ít vấn đề, gia đình trở thành “điểm nóng”. Có lẽ chính đây là nguyên nhân cơ bản khiến gia đình thu hút sự lưu tâm của dư luận xã hội và văn học đến thế.

Qua việc văn học khai thác đề tài gia đình, có thể nói: trong xu hướng chung văn học ngày càng tiếp cận đời sống xã hội, nếu chỉ riêng khả năng quan sát, nắm bắt vấn đề và tài năng nghệ thuật, vốn sống thôi, chưa đủ. Để nâng cao trình độ phản ánh và dự báo những xu hướng vận động, biến đổi của gia đình hiện nay, thiết nghĩ việc các nhà văn làm quen, tìm hiểu phương pháp và kết quả nghiên cứu xã hội học không phải là vô ích.

Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 23 (4-6-1988)

16-1-19

Đề Cương Bài Giảng: Gia Đình Và Công Tác Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa

1. Khái niệm, vai trò, vị trí, chức năng của gia đình 1.1. Khái niệm Gia đình là vấn đề lịch sử xã hội, có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống con người. Các học giả xưa nay, phương Đông hay phương Tây dù có khác nhau nhưng đều quan niệm chung rằng: Gia đình là một nhóm người ràng buộc với nhau bởi quan hệ huyết thống, đạo đức và pháp lý. Theo điều 8-Luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định Luật này; “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. 1.2. Vai trò vị trí, chức năng của gia đình a) Vai trò, vị trí của gia đình – Lịch sử đã chứng minh: Cá nhân-gia đình-làng xã-tổ quốc là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời, yếu tố tích cực hay tiêu cực của mỗi nhân tố này đều ảnh hưởng không nhỏ đến sự hưng thịnh của mỗi quốc gia trong đó gia đình là một thiết chế xã hội quan trọng, là nền tảng của xã hội và quốc gia. Gia đình là một xã hội thu nhỏ, là tổng hợp các quan hệ giá trị nhân cách, tình cảm, đạo đức, danh dự, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. – Gia đình là tế bào của xã hội do đó văn hóa gia đình đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Qua nhiều thời kỳ phát triển của đất nước, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam, như: Lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách… vẫn được giữ gìn, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Vai trò của gia đình đối với các thành viên: 1. Chăm sóc và giáo dục trẻ em 2. Chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi 3. Thực hiện an sinh xã hội, chăm sóc người ốm, người tàn tật, khuyết tật 4. Phát triển kinh tế 5. Chăm sóc sức khoẻ, luyện tập thể dục thể thao Vai trò của gia đình đối với cộng đồng và xã hội: 1. Giáo dục các thành viên thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước 2. Giữ gìn, kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, hương ước, quy ước của địa phương 3. Giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội 4. Thực hiện bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình 5. Phối hợp với nhà trường, các tổ chức xã hội trong giáo dục con người 6. Giáo dục đạo đức và hướng nghiệp Vai trò của gia đình quan trọng như vậy; năm 1983 tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc đã ra Nghị quyết và “Thập kỷ phát triển văn hoá thế giới” (1988- 1997), phát động lấy năm 1994 là “Năm quốc tế gia đình” với biểu tượng mái nhà và trái tim bên trong. Nước ta từ năm 2001 đã chọn ngày 28 tháng 6 hàng năm là “Ngày gia đình Việt Nam”. b) Chức năng của gia đình Gia đình gồm có các chức năng như sau: – Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người – Chức năng kinh tế – Chức năng giáo dục, xã hội hoá cá nhân – Chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý tình cảm Từ các chức năng cơ bản đó mà gia đình có các vai trò rất quan trọng đối với con người và xã hội. Gia đình là đơn vị kinh tế nhỏ nhất, vừa là đơn vị văn hóa nhỏ nhất của xã hội, là tế bào của xã hội và là môi trường đầu tiên cho việc giáo dục và hình thành nhân cách con người. 2. Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa, nội quan trọng trong công tác dựng đời sống văn hóa ở cơ sở 2.1. Văn hoá gia đình – một bộ phận của văn hoá dân tộc Gia đình là tế bào của xã hội do đó văn hóa gia đình đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Quá trình hình thành văn hoá dân tộc cũng là quá trình hình thành văn hoá gia đình. Chính gia đình là một thiết chế văn hoá góp phần tạo dựng nên một xã hội có văn hoá, văn hoá gia đình được hình thành trên cơ sở nền tảng của văn hoá dân tộc, là thước đo giá trị văn hoá dân tộc. Xã hội càng phát triển, càng phản ánh sự đa dạng phong phú trong cuộc sống gia đình, mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội phần nhiều được hình thành từ gia đình. Gia đình càng hoàn thiện, càng ổn định và có văn hoá sẽ góp phần xây dựng lối sống, nếp sống tốt đẹp cho xã hội. Khi gia đình và xã hội không gắn kết, đồng phát triển sẽ tạo nên sự trì trệ, xáo trộn và mất ổn định xã hội… Hiện nay, Văn hoá gia đình Việt Nam đang đứng trước sự lựa chọn các giá trị như sau: 1. Giữ nếp văn hoá gia đình truyền thống nguyên dạng với kiểu gia đình tam tứ đại đồng đường, trong đó các thế hệ trong gia đình sống theo đạo lý “kính trên, nhường dưới”, “chị ngã, em nâng”… Người già quyết định tối cao và được chăm sóc chu đáo. Cá nhân không được quyền quyết định, ít được quyền dân chủ, có tính bảo thủ, có khi cản trở sự phát triển. 2. Xây dựng gia đình hiện đại chỉ có 2 thế hệ, đề cao tự do cá nhân một cách tuyệt đối, cắt rời ít liên hệ với quá khứ, cội nguồn. Do đó xảy ra tình trạng nhiều người già lâm vào tình trạng cô đơn ít được chăm sóc chu đáo. 3. Xây dựng gia đình hiện đại, giàu có, ít con, hạnh phúc trên cơ sở văn hóa gia đình truyền thống, có sự giúp đỡ, hỗ trợ giữa các thế hệ, bảo lưu có chọn lọc giá trị văn hoá gia đình truyền thống. Đây là xu thế phù hợp nhất tạo nên gia đình tiên tiến, vừa hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, đây chính là mô hình gia đình văn hoá chúng ta cần xây dựng. 2.2. Nội dung công tác xây dựng gia đình văn hoá 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của phong trào xây dựng gia đình văn hoá Cuộc vận động có tiền thân ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 20-3-1947 dưới bút danh Tân Sinh, Bác Hồ đã viết tác phẩm “Đời sống mới” Người viết: “Mỗi người làm đúng theo đời sống mới thì đời trong một nhà cũng dễ thôi. Cũng như mỗi viên đá trơn tru vững chắc, thì chỉ cần một ít vôi là đắp thành một bức tường tốt. Về tinh thần thì phải trên thuận, dưới hoà, không thiên tư ai. Bỏ thói hành hạ mẹ chồng nàng dâu, gì ghẻ ghét bỏ con chồng. Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm phải ăn đều, tiêu sài có kế hoạch, có ngăn nắp. Cưới hỏi, giỗ, tết, nên giản đơn, tiết kiệm. Trong nhà, ngoài vườn phải luôn sạch sẽ, gọn gàng. Đối với xóm giềng phải thân mật và sẵn lòng giúp đỡ. Đối với việc làng, việc nước phải hăng hái làm gương. Người trong nhà, ai cũng biết chữ. Luôn luôn cố gắng làm cho nhà mình thành một nhà kiểu mẫu trong làng, một nhà như thế nhất định sẽ phát đạt” Năm 1960, 6 gia đình ở thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên (gồm gia đình ông Luyện Văn Để, Đinh Văn Để, Đinh Văn Khắc, Luyện Văn Ân, Nguyễn Văn Tục, Đỗ Văn Thức) đã thống nhất bàn bạc, giúp nhau trong sản xuất, dạy bảo con cái chăm ngoan học tập, giúp đỡ láng giềng lúc khó khăn. Đây được coi là mô hình gia đình văn hoá đầu tiên, Bộ Văn hoá (Nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) có chủ trương nhân rộng mô hình này. Năm 1962, tại Hội nghị phổ biến nhân rộng mô hình xây dựng Gia đình văn hoá tại Hải Phòng, Bộ Văn hoá đã công nhận 6 gia đình văn hoá này và tặng cho thôn Ngọc Tình (tỉnh Hưng Yên) bức trướng, đề tặng chiếc nôi của phong trào xây dựng gia đình văn hoá, đồng thời phát động phong trào xây dựng gia đình văn hoá trên phạm vi cả nước. Mục đích của phong trào nhằm đoàn kết giúp đỡ để gia đình hoà thuận, bình đẳng, dân chủ, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngày 15-3-1975, Bộ Văn hoá Thông tin và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch về việc đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Gia đình văn hoá mới (Nay là Gia đình văn hoá), tiêu chuẩn gia đình văn hoá mới thời kỳ này là: – Xây dựng gia đình hoà thuận, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. – Thực hiện sinh đẻ có kế hoạch: Sản xuất, tiêu dùng tiết kiệm; đoàn kết xóm giềng tốt. – Thực hiện đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ năm 1975-1985: Phong trào phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Từ 1986 đến 1990: Thời kỳ đổi mới, thay đổi cơ chế từ bao cấp sang hạch toán, khiến cho nguồn chi cho phong trào giảm sút, ngành Văn hoá, Thông tin, cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương vẫn cố gắng duy trì phong trào nhưng kết quả có hạn chế. Từ 1990-2000: Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương đã đề ra nội dung tiêu chuẩn gia đình văn hoá như sau: Xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ, hạnh phúc Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình Đoàn kết xóm giềng Thực hiện nghĩa vụ công dân Ngày 16-7-1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vấn đề gia đình và xây dựng gia đình văn hoá đã được đề cập một cách cấp thiết: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa Gia đình- Nhà trường-Xã hội” Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) với 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 nhóm giải pháp, trong đó: Cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” là một trong 4 nhóm giải pháp thực hiện nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Phong trào này bao gồm 7 phong trào cụ thể, trong đó có Phong trào Xây dựng gia đình văn hoá do Bộ Văn hoá-Thông tin (Nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) chủ trì. Bộ Văn hoá-Thông tin đã ban hành Quyết định số 01/2002/QĐ-BVHTT ngày 2-1-2002 Quy chế công nhận danh hiệu “gia đình văn hoá”, “làng văn hoá”, “khu phố văn hoá”, tiêu chuẩn Gia đình văn hoá gồm: Gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, khoẻ mạnh và hạnh phúc Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình Đoàn kết tương trợ cộng đồng dân cư Năm 2011, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư 12/2011/TT-BVHTTDL quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận Danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và tương đương. Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá hiện nay vẫn được kế thừa có chọn lọc với những yếu tố của gia đình truyền thống Việt Nam. 2.2.2. Tiêu chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa hiện nay Thông tư 12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch quy định gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa phải đảm bảo 4 tiêu chuẩn sau:

1. Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương:

a) Thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân; không vi phạm pháp luật Nhà nước, quy định của địa phương và quy ước, hương ước cộng đồng;

b) Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; vệ sinh môi trường; nếp sống văn hóa nơi công cộng; bảo vệ di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan của địa phương; tích cực tham gia các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư;

c) Không vi phạm các quy định về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; không sử dụng và lưu hành văn hóa phẩm độc hại; không mắc các tệ nạn xã hội; tham gia tích cực bài trừ tệ nạn xã hội và phòng chống các loại tội phạm;

d) Tham gia thực hiện đầy đủ các phong trào thi đua; các sinh hoạt, hội họp ở cộng đồng.

2. Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng:

a) Vợ chồng bình đẳng, thương yêu giúp đỡ nhau tiến bộ. Không có bạo lực gia đình dưới mọi hình thức; thực hiện bình đẳng giới; vợ chồng thực hiện sinh con đúng quy định, cùng có trách nhiệm nuôi con khỏe, dạy con ngoan;

b) Gia đình nề nếp; ông bà, cha mẹ gương mẫu; con cháu thảo hiền; giữ gìn các giá trị văn hóa gia đình truyền thống, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa mới về gia đình;

c) Giữ gìn vệ sinh phòng bệnh; nhà ở ngăn nắp; khuôn viên xanh-sạch-đẹp; sử dụng nước sạch, nhà tắm và hố xí hợp vệ sinh; các thành viên trong gia đình có nếp sống lành mạnh, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao;

d) Tích cực tham gia chương trình xóa đói, giảm nghèo; đoàn kết tương trợ xóm giềng, giúp đỡ đồng bào hoạn nạn; hưởng ứng phong trào đền ơn đáp nghĩa, cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” và các hoạt động nhân đạo khác ở cộng đồng.

2.2.3. Điều kiện, thủ tục công nhận Danh hiệu Gia đình văn hóa Danh hiệu “Gia đình văn hóa” do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn công nhận. 1. Điều kiện công nhận: a) Đạt các tiêu chuẩn quy định như trên b) Thời gian đăng ký xây dựng danh hiệu “Gia đình văn hóa” là 01 năm. 2. Hồ sơ đề nghị gồm có: a) Bản đăng ký xây dựng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; b) Biên bản họp bình xét ở khu dân cư kèm theo danh sách những gia đình được đề nghị công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” (có từ 50% trở lên số người tham gia dự họp nhất trí đề nghị). 3. Căn cứ vào biên bản họp bình xét ở khu dân cư, Ban vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” hàng năm. 4. Khu dân cư tổ chức công bố Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” vào dịp “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” ở khu dân cư hàng năm (ngày 18/11) và ghi “Sổ vàng Gia đình văn hóa” ở khu dân cư. 5. Đối với gia đình được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” 3 năm liên tục, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trao Giấy chứng nhận 03 năm đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa” 2.2.4. Một số nội dung về công tác chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng gia đình văn hoá trong giai đoạn hiện nay – Xây dựng Gia đình văn hóa là một trong những phong trào xây dựng đời sống văn hóa đầu tiên, có quá trình phát triển thường xuyên, liên tục, ngày càng sâu rộng. Nội dung, tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa được kế thừa và phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Từ phong trào của quần chúng, danh hiệu Gia đình văn hóa cùng với danh hiệu Làng văn hóa đã trở thành danh hiệu thi đua Nhà nước, được Luật Thi đua khen thưởng ghi nhận. Tiêu chuẩn công nhận Gia đình văn hóa theo Điều 29 Luật Thi đua khen thưởng được Bộ Văn hóa-Thông tin cụ thể hóa trong Quy chế 62, đề cao vai trò của Gia đình văn hóa trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; gắn việc xây dựng gia đình hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc với đoàn kết, tương trợ xóm giềng; đề cao yếu tố văn hóa phát triển trong việc tổ chức xây dựng gia đình trở thành Gia đình văn hóa, đáp ứng yêu cầu về sự phát triển của gia đình trong thời đại hiện nay.Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện phong trào xây dựng Gia đình văn hóa tập trung vào một số nội dung như sau: – Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, củng cố và nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn cấp xã về ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung của công tác gia đình nói chung, xây dựng Gia đình văn hóa nói riêng. – Ban Chỉ đạo Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cấp xã và các Ban Vận động cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, cần tổ chức điều tra, khảo sát, phân loại gia đình trên địa bàn, xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện phong trào phù hợp. – Tổ chức việc học tập, nắm vững nội dung, tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa đến từng hộ, từng thành viên của các hộ gia đình, đồng thời, tuyên truyền, cổ vũ phong trào xây dựng Gia đình văn hóa trên hệ thống truyền thanh công cộng, các hình thức tuyên truyền cổ động trực quan trên địa bàn. – Tổ chức đăng ký xây dựng Gia đình văn hóa, trên cơ sở tự giác, tự nguyện của các gia đình, sự tuyên truyền, vận động của các đoàn thể quần chúng. – Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, các ngành, đoàn thể quần chúng, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, các đoàn viên, hội viên, tạo thành lực lượng nòng cốt trong phong trào xây dựng Gia đình văn hóa. – Tăng cường các hoạt động tự quản cộng đồng, các hoạt động tuyên truyền, vận động, thuyết phục, đôn đốc, nhắc nhở các gia đình đã đăng ký xây dựng Gia đình văn hóa, phấn đấu thực hiện tốt các tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa. – Gắn phong trào xây dựng Gia đình văn hóa với các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, đặc biệt là thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa hiện nay ở địa phương cơ sở. – Xây dựng, biểu dương, tôn vinh và nhân rộng các gia đình văn hóa tiêu biểu, tạo nên mũi nhọn cho phong trào xây dựng Gia đình văn hóa. – Tổ chức cho các gia đình tự đánh giá (hoặc chấm điểm) về kết quả thực hiện các tiêu chuẩn công nhận Gia đình văn hóa, trước khi đưa ra các cuộc họp ở khu dân cư, lấy ý kiến của nhân dân để bình bầu Gia đình văn hóa hàng năm. – Ban Vận động ở khu dân cư tổng hợp báo cáo Ban Chỉ đạo Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cấp xã trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa hàng năm. Khu dân cư tổ chức công bố quyết định công nhận Gia đình văn hóa và ghi Sổ vàng Gia đình văn hóa vào dịp Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, 18/11 hàng năm. – Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá phải phù hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sống của người dân, đáp ứng được nguyện vọng tâm tư tình cảm mới tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân. Đây chính là yếu tố quyết định sự thành công của phong trào xây dựng gia đình văn hoá. 2.2.5. Về yêu cầu của công tác xây dựng gia đình văn hóa – Được triển khai thường xuyên, liên tục trở thành nhiệm vụ quan trọng được các cấp các ngành quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện để thực hiện tốt. – Phải có nội dung, tiêu chí phù hợp với đặc điểm bản sắc, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, của từng thời kỳ, giai đoạn phát triển xã hội của mỗi địa phương. – Việc xây dựng gia đình văn hóa thuộc ý thức tự nguyện của mỗi gia đình, từng người dân do đó phải có phương pháp tuyên truyền vận động để nhân dân tự nguyện tham gia, tránh gò ép, cứng nhắc. – Việc xây dựng gia đình văn hóa cần được phát triển rộng nhưng phải chú ý đến chiều sâu, chú trọng chất lượng thực chất của phong trào, chất lượng của mỗi gia đình văn hóa, không chạy theo hình thức, bệnh thành tích chủ nghĩa, làm giảm giá trị danh hiệu gia đình văn hóa, giảm ý nghĩa giáo dục và hiệu quả tích cực của phong trào.

Phòng VHVN (Tổng hợp từ Trang tin điện tử Văn hóa – Thể thao và Du lịch)

Vai Trò Của Gia Đình Và Văn Hóa Gia Đình

Gia đình có thể chỉ là một tập hợp nhỏ, gồm hai vợ chồng với một hai đứa con. Cũng có thể là một tập hợp lớn gồm nhiều thế hệ: ông bà, cha mẹ, các con, các cháu, các chắt…

Ngày xưa, “tam đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường” – nhiều thế hệ sống chung dưới một mái nhà, thường là điển hình của những gia đình có phúc đức, có nền nếp gia giáo.

Ngày nay, do sự phát triển nhiều mặt, quan niệm về gia đình có thể khác trước. Nhưng bất kể thế nào, con người sinh ra, ai cũng cần có một GIA ĐÌNH. Không gia đình là biểu hiện của sự bất hạnh.

Không gia đình con người rất khó trưởng thành theo đúng nghĩa một con người. Những đứa trẻ sớm mồ côi, bị ném vào xã hội, thì “chúng là cái mồi rất tốt cho những tật xấu thói hư” (NHỚ NGHĨ CHIỀU HÔM – Hồi ký của giáo sư Đào Duy Anh. NXB Văn nghệ TP HCM. 2003). Và nếu như sinh ra, lập tức đã không có gia đình, không có người MẸ cho bú mớm, ôm ấp vỗ về… , con người đó sống làm sao và hiểu sao được tình mẫu tử và lẽ sống ở đời?. Nhà phân tâm học D. Winnicott nói: “một trẻ sơ sinh – con người ấy không tồn tại”. Còn Gerard Poussin, giáo sư tâm lý học, người Pháp thì viết: “Con người không tự mình sáng tạo ra (mình) cũng không tự mình tạo dựng được cuộc sống (của mình)”[1].

Gia đình là môi trường sống đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi con người. Tiếp mới đến xã hội. Và ngay khi con người hòa nhập vào cuộc sống xã hội để mưu sinh, để khẳng định mình, để làm “ông nọ bà kia”, thì gia đình vẫn luôn là môi trường không thể thiếu được. Trước mọi sóng gió cuộc đời, gia đình phải luôn luôn là cái cảng an bình nhất, là “tổ ấm” hạnh phúc nhất, là nơi chia sẻ mọi nỗi buồn vui, sự thành đạt cũng như nỗi bất hạnh…

Nhưng gia đình ấy là gia đình như thế nào chứ?

Một gia đình mà “Nhà kia lỗi phép, con khinh bố; Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng” (Thơ Trần Tế Xương); một gia đình mà bề trên sống không mẫu mực, không hết lòng vì con cháu,… Một gia đình mà đồng tiền ngự trị trên mọi giá trị tinh thần, văn hóa, đạo đức… – “gia đình” ấy đã tự đánh mất vai trò của mình, “gia đình” ấy không còn nguyên cái nghĩa sơ đẳng của một gia đình.

Ngày xưa, để tạo dựng một gia đình, cha ông ta đưa ra rất nhiều quy chuẩn: “Gia giáo” hay “Gia huấn” là cách thức giáo dục con cháu của từng gia đình, trong đó, nội dung chủ yếu là giáo dục về đạo đức, phẩm chất một con người. Đa số “con nhà có gia giáo” đều trở thành những “người tử tế”. “Gia lễ” là những quy định chặt chẽ về đường ăn nết ở của mỗi thành viên trong gia đình: ngôn ngữ trong nói năng, cử chỉ điệu bộ, cách ăn mặc phục sức… trước và với từng cấp bậc các thành viên trong gia đình phải như thế nào cho phải phép.. Bề trên khác, “ngang bằng phải lứa” khác, không thể “cá đối bằng đầu”, “cá mè một lứa” được! Khổng Tử nói: “Đạo đức nhân nghĩa, phi lễ bất thành”. Gia giáo và gia lễ của từng gia đình có thể khác nhau, nhưng nhìn chung,người ta lấy chữ “Nhân Từ” để dạy cho bậc làm cha mẹ; lấy chữ “Hiếu” dạy cho con cháu; lấy chữ “Nghĩa” dạy cho kẻ làm chồng; lấy chữ “Đoan chính” dạy cho người làm vợ; lấy chữ “Lương” (hiền lành) dạy cho anh, chị; lấy chữ “Đễ” (nhún nhường) dạy cho các em..

Muốn thực hiện được “gia giáo”. “gia lễ” thì phải có “gia pháp”.. Gia pháp nhằm bảo vệ, đề cao uy thế của người chủ gia đình (“nghiêm đường”); đồng thời duy trì sự thống nhất chung trong nếp sống gia đình.

“Gia phong” (hay còn gọi là nếp nhà) là cái lề thói mà mỗi thành viên trong gia đình phải noi theo; là bản sắc văn hóa của một gia đình. Giáo sư Đào Duy Anh coi gia phong là sự tổng hòa những thành quả của gia giáo, gia lễ, gia pháp. Gia phong giúp chuẩn bị một cách tốt nhất cho mỗi một con người, để họ trở thành hữu ích, khi hòa nhập vào môi trường xã hội.

Mấy chục năm nay chúng ta đã nói rất nhiều và cũng đã làm rất nhiều về “xây dựng gia đình văn hóa mới”. Nhưng hình như “nội dung cốt lõi” của một gia đình văn hóa mới, lại chưa cụ thể? Đã có rất nhiều gia đình được tặng danh hiệu “gia đình văn hóa mới”. Bản thân người viết bài này cũng đã có lần đi xa mấy tháng trở về, bỗng nhiên được ông tổ trưởng dân phố mang đến cho một tấm bằng công nhận và một cái phích nước nóng Rạng đông có in dòng chữ “tặng gia đình văn hóa xuất sắc” – danh hiệu dành cho những gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa ba năm liền. Trong khi đó, hai năm trước, gia đình tôi chưa hề được bầu chọn lấy một lần (vì nhiều lý do, trong đó có lý do hay đi xa với con, không tham gia thường xuyên các hoạt động đường phố). Tôi có đem điều ấy hỏi những người có trách nhiệm, thì được trả lời: “cấp ủy, mặt trận và các đoàn thể đã nhận xét, thống nhất biểu quyết, bác không phải băn koăn”. Cũng có thể hiểu: chẳng qua chẳng có ai chịu nhận, thì cấp ủy, đoàn thể đành ép cho gia đình tôi, là người vắng mặt, cho hết chối từ! Nhận thì thấy mình “dơ” quá; đem trả lại thì sợ phật ý cấp ủy và các đoàn thể. Đành chọn cách đem một số tiền tương đương giá chiếc phích nước, ùng hộ công quỹ, để khỏi mang tiếng “tham”. Riêng giấy khen thì vì đã ghi rõ tên gia đình tôi, nên không thể “xung công” được; mà đem treo lên thì cứ ngượng ngượng thế nào ấy, vậy thì đem cất kỹ một chỗ là hơn cả!..

Đã có một thời hế cứ nói đến cái gì thuộc xã hội cũ, người ta đều cho là lạc hậu, là phải xóa bỏ. Gia giáo, gia lễ,… cũng chung số phận đó. Người ta lầm tưởng có thể dùng “giáo dục xã hội” thay thế cho giáo dục gia đình. Vai trò gia đình bị hạ thấp. Đoàn thể mới là nơi giáo dục và rèn luyện con người mới. Dẫn đến cha mẹ mất đi vai trò người “gia trưởng”, vai trò “tấm gương”. Con cái chỉ tuân theo những gì “xã hội” giáo dục. Thậm chí có lúc, con gọi bố đẻ bằng “đồng chí”; rồi con cái “phê phán” cha, mẹ, ông, bà là “cổ hủ lạc hậu”, là “lỗi thời”!… Chữ “hiếu” vẫn còn nhắc đến trong lớp người trẻ tuổi, nhưng là “hiếu với Dân”, tức với một đối tượng rất chung chung, rất “xã hội”.

Thiết nghĩ, nếu cái GIA PHONG cũ không còn thích hợp với cuộc sống mới, xin hãy tìm ra cho được một “khuôn mẫu mới” cho một gia đình kiểu mới. Khuôn mẫu này nhất định phải hơn hẳn cái “gia phong” cổ lỗ kia, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, như phương hướng mà Đảng ta đang lãnh đạo Đất nước ta. Tại sao thế? Bởi vì, nói như Phan Bội Châu: “Nhà tức là cái nước nhỏ, nước tức là cái nhà lớn”. Nhà (gia) không bao giờ là chuyện riêng trong nội bộ một gia đình.

Xây dựng VĂN HÓA GIA ĐÌNH phải bắt đầu từ bên trên, chứ không phải từ dưới. Nghĩa là phải dạy cho người làm cha, mẹ cách thức và đạo lý làm cha, mẹ – khi người ấy đóng vai trò phụ huynh. Rồi phải dạy chính họ cách thức làm con, em – để họ biết nêu gương sáng cho chính con em họ. Thậm chí còn phải làm ngược lại, dạy cách làm tròn phận sự con em trước, rồi mới dạy đến cách làm cha mẹ. Phải làm cho gia đình trở thành nền tảng đạo đức của xã hội. Trách nhiệm này thuộc nhiều tổ chức, nhưng trước hết, không thể không nói đến vai trò của ngành giáo dục, ngành văn hóa.

“Nhà tức là cái nước nhỏ, nước tức là cái nhà lớn”. Chân lý đó cần được ghi nhớ.

[1] GIA ĐÌNH VIỆT – Giáo sư Bác sỹ Đặng Phương Kiệt chủ biên. Trang 537, 538.

LTS Dân trí – Theo tâm thức của người Việt ta thì “Mái ấm gia đình” luôn là cái nôi sinh thành, để lại dấu ấn dưỡng dục không thể phai mờ trong suốt đời người.

Văn hóa gia đình không thể hình thành trong một sớm một chiều mà phải qua quá trình phát triển lâu dài để hình thành nên “mái ấm gia đình” có tính truyền thống của Việt .

Ngày nay, chúng ta xây dựng Gia đình văn hóa mới cũng trên cơ sở kế thừa đạo lý truyền thống và những nét đẹp của gia giáo, gia phong xưa kia, từ đó xây dựng những tiêu chi thích hợp cho gia đình văn hóa ngày nay trên cơ sở kết hợp hài hòa tính truyền thống và tính hiện đại. Không thể áp đặt ý muốn chủ quan hay cách làm còn nặng “tính phong trào” mà thiếu công phu nghiên cứu, chưa tôn trọng đầy đủ tính kế thừa, điều đó tất yếu dẫn tới kết quả ngoài mong muốn.

Sinh Con Năm 2022 Vào Những Tháng Này, Gia Đình Đại Cát

Cha mẹ đang lên kế hoạch sinh bé vào năm Kỷ Hợi 2019? Các vị phụ huynh tương lai có muốn biết sinh con năm 2019 tháng nào tốt nhất hay không?

Có câu nói: “Con cái giống như những ngôi sao lấp lánh tự do, chỉ là vừa vặn, rơi vào sân nhà chúng ta!” Tuy nhiên, theo quan niệm lâu đời ở các nước có nền văn hóa phương Đông thì ngày tháng sinh của con lại có ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ tương lai của con mà còn đến cuộc sống sau này của cha mẹ.

Tuổi, mệnh và tính cách của em bé sinh năm 2019

Năm 2019 là năm Kỷ Hợi, ngũ hành Bình Địa Mộc. Em bé sinh năm 2019 sẽ mang mệnh Mộc và tuổi Hợi. “Heo” là con giáp cuối cùng trong bộ 12 con giáp, luôn được xem là con vật ngộ nghĩnh, thông minh và đáng yêu. Năm 2019 Kỷ Hợi là năm được nhiều người chọn sinh con vì ý nghĩa tuổi con heo thường có số an nhàn, giàu sang.

Em bé sinh năm Kỷ Hợi mệnh Mộc lớn lên sẽ là người có ý chí, có quyết tâm, rất kiên cường trước những thử thách, khó khăn của cuộc đời, không dễ dàng bỏ cuộc chỉ vì 1 vài lần thất bại, giữ bình tĩnh, quyết tâm đến cùng để đạt được mục đích của mình. Phong cách sống của người sinh năm Kỷ Hợi mệnh Mộc cũng luôn phóng khoáng, không quá coi trọng vật chất. Tuy nhiên điều này dễ đưa họ vào cuộc sống túng thiếu, do đó nên học cách tiết kiệm để phòng những tình huống bất trắc xảy đến.

Tính cách của em bé tuổi Hợi sau này cũng thân thiện và ôn hòa, luôn khiến người khác cảm thấy dễ chịu khi tiếp xúc cùng. Trong chuyện tình cảm cũng luôn thực tế, thích sự an toàn và hướng đến tình yêu bền vững. Tuy nhiên, con cũng có một nhược điểm là khi đột nhiên nhớ ra việc gì sẽ gạt bỏ tất cả mà làm việc đó ngay lập tức.

Sinh con năm 2019 tháng nào tốt nhất

Muốn sinh em bé năm Kỷ Hợi 2019 hưởng trọn phúc khí của đất trời, các ông bố bà mẹ tương lai có thể lựa chọn những tháng sinh sau đây.

Tháng Giêng

Em bé tuổi Kỷ Hợi sinh đúng tháng Giêng thì học hành giỏi giang, trí tuệ uyên bác, phong cách nhanh nhẹn và dứt khoát. Vận mệnh cuộc đời em bé này cực kì tốt, làm nên sự nghiệp lớn, tiền tài nhiều không kể xiết, trong đời không có tai họa gì lớn hay gặp phải hoạn nạn khó khăn ảnh hưởng đến cuộc sống. Em bé này có số trường thọ, phúc lộc dồi dào, được mọi người nể trọng.

Tháng 2 âm lịch

Em bé tuổi Kỷ Hợi sinh tháng 2 âm lịch cực kì tài hoa, nhờ thế mà cuộc đời cũng hạnh phúc và sung túc, số phú quý vinh hiển. Là mẫu người thông minh, trí tuệ, tôn nghiêm, tinh lực sung mãn, thông minh hơn người, lại được trưởng bối yêu thương, nâng đỡ, thêm cả quý nhân giúp sức nên sự nghiệp đạt được nhiều thành công, có địa vị cao trong xã hội. Sức khỏe tốt, là người hiền lành hướng thiện, có ý chí, có quyết tâm, số mệnh không hề tầm thường.

Tháng 3 âm lịch

Đặc biệt, đây là người có tài về văn chương nghệ thuật, nếu đi theo con đường này thì có thể gặt hái được nhiều thành công.

Tháng 10 âm lịch

Tuổi Kỷ Hợi năm 2019 sinh vào tháng 10 có tính tình hiền hậu, cởi mở, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh. Bởi thế mà họ thường được hưởng phúc trời ban, công việc thuận lợi, tình duyên, sức khỏe đều tốt đẹp. Bé sinh vào tháng 10 sẽ được an nhàn đức độ, người người quý mến, về già dư dả.

Tháng 11 âm lịch

Em bé tuổi Kỷ Hợi sinh vào tháng 11 âm sẽ có cuộc đời hạnh phúc vô lo vô nghĩ, danh lợi song toàn, an nhàn đầy đủ. Từ bé đã thông minh đĩnh ngộ, ngũ quan đoan chính, tính tình thành thực, biết khoan dung, hòa đồng với mọi người.

Lớn lên được nhiều người kính trọng, sự nghiệp hanh thông, thành công rực rõ. Dù là về đường tình duyên hay sự nghiệp đều không có gì phải lo phiền, cuộc đời không phải đối mặt với đại nạn gì quá lớn.

Nói tóm lại các tháng 1 tháng 2 tháng 3 tháng 10 tháng 11 là tháng tốt nhất năm 2019 để sinh bé Heo. Theo quan niệm phong thủy, các tháng hợp mùa sinh sẽ mang lại số phận tốt cho con, mang đại cát tới cho cả gia đình.

Tuy nhiên nếu ngày dự sinh của các mẹ không trùng với những tháng này, đừng lo lắng. Ngoài việc hợp tháng sinh, vận mệnh của em bé còn phụ thuộc vào giờ sinh, ngày sinh, cộng thêm với Can, Chi có hợp với bố mẹ không. Chúc các cha mẹ sẽ có một cô công chúa hay một chàng hoàng tử Heo khỏe mạnh trong năm nay!

Theo: The Asianparent

Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay!

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đề Tài Gia Đình Trong Văn Xuôi Những Năm Gần Đây trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!