Cập nhật nội dung chi tiết về Điều Kiện Kinh Doanh Dịch Vụ Taxi mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Dịch vụ taxi đangg dần trở thành một lĩnh vực phổ biến hiện nay không chỉ ở các thành phố lớn mà đã mở rộng ra nhiều địa phương trên toàn nước. Tuy nhiên đây lại là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ này phải đáp ứng các điều kiện và thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật. Vậy điều kiện, thủ tục xin cấp phép kinh doanh vận tải taxi như thế nào? Công ty luật Việt An sẽ giúp các bạn giải đáp thắc mắc trên.
Căn cứ pháp lý
Luật giao thông đường bộ năm 2008;
Nghị định số 86/2014/NĐ-CP về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô;
Thông tư số 63/2014/TT-BGTVT quy định về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ taxi
Doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ taxi phải đáp ứng các điều kiện chung về kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Ngoài ra còn phải đáp ứng điều kiện riêng đối với kinh doanh dịch vụ taxi. Cụ thể như sau:
Điều kiện chung kinh doanh vận tải bằng xe ô tô:
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 86/2014/NĐ-CP thì đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ô tô phải đáp ứng các điều kiện sau:
Đăng ký kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo quy định của pháp luật;
Phương tiện phải bảo đảm số lượng, chất lượng phù hợp với hình thức kinh doanh, cụ thể:
a) Khi hoạt động kinh doanh vận tải phải có đủ số lượng phương tiện theo phương án kinh doanh đã được duyệt; phương tiện phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị kinh doanh vận tải hoặc quyền sử dụng hợp pháp theo hợp đồng của đơn vị kinh doanh vận tải với tổ chức cho thuê tài chính hoặc tổ chức, cá nhân có chức năng cho thuê tài sản theo quy định của pháp luật.
Trường hợp xe đăng ký thuộc sở hữu của thành viên hợp tác xã phải có hợp đồng dịch vụ giữa thành viên với hợp tác xã, trong đó quy định hợp tác xã có quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ quản lý, sử dụng, điều hành xe ô tô thuộc sở hữu của thành viên hợp tác xã;
b) Xe ô tô phải bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường;
c) Xe phải được gắn thiết bị giám sát hành trình theo quy định.
Lái xe và nhân viên phục vụ trên xe:
Lái xe không phải là người đang trong thời gian bị cấm hành nghề theo quy định của pháp luật;
Lái xe và nhân viên phục vụ trên xe phải có hợp đồng lao động bằng văn bản với đơn vị kinh doanh vận tải theo mẫu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (trừ các trường hợp đồng thời là chủ hộ kinh doanh hoặc là bố, mẹ, vợ, chồng hoặc con của chủ hộ kinh doanh).
Người điều hành vận tải phải có trình độ chuyên môn về vận tải từ trung cấp trở lên hoặc có trình độ từ cao đẳng trở lên đối với các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật khác và có thời gian công tác liên tục tại đơn vị vận tải từ 03 năm trở lên.
Nơi đỗ xe: Đơn vị kinh doanh vận tải phải có nơi đỗ xe phù hợp với phương án kinh doanh và đảm bảo các yêu cầu về an toàn giao thông, phòng chống cháy, nổ và vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật.
Về tổ chức, quản lý:
Đơn vị kinh doanh vận tải có phương tiện thuộc diện bắt buộc phải gắn thiết bị giám sát hành trình của xe phải trang bị máy tính, đường truyền kết nối mạng và phải theo dõi, xử lý thông tin tiếp nhận từ thiết bị giám sát hành trình của xe;
Đơn vị kinh doanh vận tải bố trí đủ số lượng lái xe theo phương án kinh doanh, chịu trách nhiệm tổ chức khám sức khỏe cho lái xe và sử dụng lái xe đủ sức khỏe theo quy định;
Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô theo tuyến cố định, xe buýt, xe taxi phải đăng ký và thực hiện tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ vận tải hành khách.
Điều kiện kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi:
Ngoài điều kiện chung về vận tải bằng xe ô tô, Doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ taxi cần phải đáp ững các điều kiện sau:
Xe taxi phải có sức chứa từ 09 chỗ ngồi trở xuống (kể cả người lái xe).
Xe taxi có niên hạn sử dụng không quá 08 năm tại đô thị loại đặc biệt; không quá 12 năm tại các địa phương khác.
Trên xe phải gắn đồng hồ tính tiền được cơ quan có thẩm quyền về đo lường kiểm định và kẹp chì.
Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi phải đăng ký và thực hiện sơn biểu trưng (logo) không trùng với biểu trưng đã đăng ký của đơn vị kinh doanh vận tải taxi trước đó và số điện thoại giao dịch cho các xe thuộc đơn vị.
Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi phải có trung tâm điều hành, duy trì hoạt động của trung tâm điều hành với lái xe, đăng ký tần số liên lạc và có thiết bị liên lạc giữa trung tâm với các xe thuộc đơn vị.
Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi phải có số xe tối thiểu là 10 xe; riêng đối với đô thị loại đặc biệt phải có số xe tối thiểu là 50 xe.
Thủ tục xin cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ taxi
Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ taxi trước khi hoạt động phải được cấp Giấy phép kinh doanh dịch vận tải bằng xe taxi.
Bước 1: Doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ theo hướng dẫn và nộp hồ sơ tại Sở Giao thông vận tải.
Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh bao gồm:
Đơn đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh theo mẫu do Bộ Giao thông vận tải quy định;
Bản sao có chứng thực (hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Bản sao có chứng thực (hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu) văn bằng, chứng chỉ của người trực tiếp điều hành vận tải;
Phương án kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo quy định của Bộ Giao thông vận tải;
Quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ của bộ phận quản lý, theo dõi các điều kiện về an toàn giao;
Bản đăng ký chất lượng dịch vụ vận tải.
Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh là Sở Giao thông vận tải các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Bước 2: Tiếp nhận hồ sơ
Sở Giao thông vận tải tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của các loại giấy tờ trong hồ sơ; yêu cầu bổ sung, hoàn thiện nếu hồ sơ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ.
Bước 3: Sở Giao thông vận tải thẩm định hồ sơ
Trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu thì tiến hành đi kiểm tra thực tế.
Trường hợp xét thấy hồ sơ không đạt yêu cầu thì lập phiếu hướng dẫn yêu cầu bổ sung.
Bước 4: Trả kết quả
Sau 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Giao thông vận tải sẽ trả kết quả cho doanh nghiệp.
Điều Kiện Kinh Doanh Dịch Vụ Bất Động Sản
Kinh doanh bất động sản hiện đang là ngành nghề hot, chính vì vậy kinh doanh dịch vụ bất động sản là ngành nghề hot không kém so với kinh doanh bất động sản.
Khái niệm kinh doanh dịch vụ bất động sản
Khác với kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bất động sản là các hoạt động hỗ trợ để phục vụ việc mua, bán, thuê, cho thuế bất động sản bao gồm:– Dịch vụ môi giới bất động sản– Sàn giao dịch bất động sản– Tư vấn, quản lý bất động sản
Ghi ngành nghề kinh doanh dịch vụ bất động sản
Tư vấn, môi giới, đấu giá bất động sản, đấu giá quyền sử dụng đấtChi tiết: – Dịch vụ môi giới bất động sản; Tư vấn bất động sản; Quản lý bất động sản; Sàn giao dịch bất động sản; (Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản 2014)– Quản lý vận hành nhà chung cư (Điều 105 luật nhà ở 2014)
6820
Điều kiện kinh doanh dịch vụ bất động sản
Điều 62. Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp và phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.2. Cá nhân có quyền kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập nhưng phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản và đăng ký nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không được đồng thời vừa là nhà môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất động sản.
Sàn giao dịch bất động sản: Thực hiện việc giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản. Tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; giới thiệu, niêm yết, cung cấp công khai thông tin về bất động sản cho các bên tham gia có nhu cầu giao dịch; kiểm tra giấy tờ về bất động sản bảo đảm đủ điều kiện được giao dịch; làm trung gian cho các bên trao đổi, đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản.
Điều 69. Điều kiện thành lập sàn giao dịch bất động sản1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải thành lập doanh nghiệp.2. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản; người quản lý, điều hành sàn giao dịch bất động sản phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản.3. Sàn giao dịch bất động sản phải có quy chế hoạt động, tên, địa chỉ, cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động.Điều 75. Dịch vụ quản lý bất động sản:1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản phải thành lập doanh nghiệp. Trường hợp kinh doanh dịch vụ quản lý nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở thì phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về nhà ở.2. Nội dung kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản bao gồm:a) Bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản theo ủy quyền của chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng, người có quyền sử dụng đất;b) Tổ chức thực hiện việc cung cấp các dịch vụ bảo đảm duy trì hoạt động bình thường của bất động sản;c) Tổ chức thực hiện việc bảo trì, sửa chữa bất động sản;d) Quản lý, giám sát việc khai thác, sử dụng bất động sản của khách hàng theo đúng hợp đồng;đ) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với khách hàng, với Nhà nước theo ủy quyền của chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng, người có quyền sử dụng đất.3. Nội dung, thời gian, phạm vi quản lý bất động sản, quyền và nghĩa vụ của các bên và giá dịch vụ quản lý bất động sản do các bên thỏa thuận trong hợp đồng.4. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản chịu trách nhiệm thực hiện cam kết trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản phải đáp ứng các điều kiện trên thì mới được phép hoạt động, tuy nhiên doanh nghiệp vẫn có thể đăng ký trên đăng ký kinh doanh trước và hoạt động sau khi có đủ điều kiện.
Luận Văn: Điều Kiện Kinh Doanh Dịch Vụ Du Lịch Theo Pháp Luật, Hot
, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi
Published on
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, cho các bạn tham khảo
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ TÂM ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội- 2018
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ TÂM ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG Hà Nội- 2018
3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quý Trọng. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu trong bài phục vụ cho việc phân tích, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Tâm
4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………………………………1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH …………………………………………………………………………….7 1.1. Khái quát về du lịch và hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch…………………………7 1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch và lý do việc quy định điều kiện kinh doanh với hoạt động du lịch……………………………………………………………………………………………17 1.3. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch24 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH……………………………28 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Du lịch Việt Nam…………………………28 2.2. Các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch ……………………………………….30 2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Ninh Bình …………………………………………………………………………………………………………………….44 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA TỈNH NINH BÌNH ………………………………………………………………………..58 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch…………………………………………………………………………………………………………….58 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam……………………………………………………………………………………………………………..61 3.3. Các giải pháp nâng cao hiểu quả thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch tại Việt Nam………………………………………………………………………………………………….65 KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………………..69 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………………70
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương BQL Ban quản lý GDP Tổng sản phẩm quốc nội GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn ISO Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for Standardization) PATA Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương TCDL Tổng cục du lịch TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TNHH Trách nhiệm hữu hạn USD Đô la Mỹ UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNWTO Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization) WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) XHCN Xã hội chủ nghĩa
7. 2 các loại hình dịch vụ du lịch, đóng góp không nhỏ trong việc tăng nguồn thu ngân sách. Tài nguyên du lịch của Ninh Bình tương đối phong phú, đa dạng bao gồm hệ thống núi đá vôi, rừng, hồ, các di tích lịch sử – văn hóa nổi tiếng. Đây chính là điều kiện rất tốt để phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch, có sức hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Phát huy lợi thế đó, trong những năm qua, Ninh Bình đã tập trung đầu tư phát triển du lịch đồng bộ trên cả ba nội dung: xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, xây dựng hệ thống cơ sở và đội ngũ nhân viên ngành du lịch. Ngày 13/07/2009, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU về phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Với sự quan tâm chỉ đạo sát sao và được đầu tư thích đáng, các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch đã phát triển một cách nhanh chóng. Tuy nhiên trong giai đoạn chuyển giao giữa luật cũ và luật mới vẫn bộc lộ những hạn chế gây ra khó khăn không nhỏ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng. Thực tế trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về kinh doanh dịch vụ du lịch đặc biệt là trong kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú tại tỉnh Ninh Bình cần đặt ra các vấn đề cần làm rõ những cơ sở lý luận và luận cứ thực tiễn để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liênquan đến đề tài Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn về kinh doanh dịch vụ du lịch mà trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Minh Đức (2007) “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Mai Phước năm 2007: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010) “Xử lý vi phạm hành chính trong lịch vực du lịch”; Luận văn Thạc sĩ Luật học Phạm Văn Minh (2015) “Hoạt động kinh doanh lữ hành
8. 3 theo luậtdu lịch 2005 từ thực tiễn thànhphố Hà Nội”; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị Hiền năm 2012 “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Vietsovpetro”(2012)… Ngoài ra, qua nghiên cứu các bài viết, tạp chí liênquan tác giả còn tiếp cận được một số bài báo đăng trên các tạp chí như Hoàng Thị Lan Hương (2010), “Một số bất cập trong hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch”, đăng trên Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11; hay một số bài viết trên các tờ báo điện tử, chẳng hạn như bài viết “Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh lưu trú du lịch khi luật du lịch thực thi” của tác giả Đỗ Thị Hồng Xoan…Các công trình nghiên cứu, các bài viết tạp chí trên phần lớn mới chỉ tập trung vào phân tích sự quản lý nhà nước trong kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật trong kinh doanh du lịch nói chung, hoặc so sánh đánh giá sự thay đổi giữa pháp lệnh Du lịch 1999 và Luật Du lịch 2005, các cam kết khi gia nhập WTO đối với dịch vụ kinh doanh du lịch. Dưới góc độ luật học, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích pháp luật về điều kiện kinh doanh điều chỉnh trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch một cách cụ thể đặc biệt là khi Luật Du lịch mới đã có hiệu lực vào ngày 01/01/2018. Dù vậy, các nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo quan trọng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh dịch vụ lữ hành và lưu trú du lịch nói riêng. Chính vì vậy, tác giả cho rằng đây là đề tài rất sát thực, không trùng lập với các đề tài trước đó, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý ở cấp luận văn thạc sĩ luật học đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay. Bên cạnh đó, qua việc đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tại địa bàn tỉnh Ninh Bình để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch thời gian tới.
9. 4 Nhiệm vụ nghiên cứu – Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tập trung vào hai loại hình kinh doanh dịch vụ lữ nội địa và lưu trú tại Việt Nam hiện nay. – Phân tích đánh giá nội dung, kết quả đạt được cũng như khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại địa bàn tỉnh Ninh Bình. – Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại Việt Nam. Đồng thời luận văn đánh giá, nhận xét thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Bình những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh qua hai loại hình kinh doanh dịch vụ là lữ hành nội địa và lưu trú du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện nay qua thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh đó, luận văn sẽ phân tích, đánh giá khái quát về thực trạng áp dụng pháp luật, xác định định hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành và kinh doanh lưu trú tại Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
14. 9 không phải là du lịch. Khái niệm du lịch theo quy định của pháp luật của Việt Nam được giới hạn hẹp hơn với 4 mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng. Hay nói cách khác du lịch phát sinh từ nhu cầu của người đi, thực hiện sự di chuyển ra ngoài nơi cư trú thường xuyên, từ nơi này đếnnơi khác bằng bất kỳ phương tiện nào với mục đích tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ dưỡng có thời gian cụ thể và có sự trở về nơi xuất phát ban đầu. 1.1.2. Nhận diện kinh doanh dịch vụ du lịch 1.1.2.1. Khái niệm Trước khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, có thể thấy “kinh doanh” là thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh tế của các nước trên Thế giới cũng như ở Việt Nam. Khái niệm “kinh doanh” chính thức đã được pháp luật Việt Nam sử dụng từ năm 1990 trong Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 1999, khái niệm “kinh doanh” một lần nữa được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp như sau: “Kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[19]. Luật Doanh nghiệp 2014 đưa ra khái niệm cụ thể hơn về kinh doanh như sau:”Kinh doanh là việc thực hiện liên tụcmột, một số hoặctất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[25]. Theo đó, kinh doanh bao hàm cả các hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa, các hoạt động sản xuất, gia công, đầu tư hay các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi. Cách hiểu này khá tương đồng với khái niệm thương mại được nêu ra trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005khi quy định hoạt động thương mại “là hoạtđộng nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”[22]. Như vậy, hiện nay khái niệm kinh doanh được hiểu như là hoạt động thương mại theo nghĩa rộng. Vào những thế kỉ trước, người ta chỉ quan niệm hoạt động du lịch là một hoạt động mang tính chất văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí, hiểu biết của con người, hoạt động du lịch vốn không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, du lịch được xem là một ngành
19. 14 hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch, thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ [14]. Cụ thể, đó là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. 1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch: Thứ nhất: Kinh doanh du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành thương mại dịch vụ. Du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người, nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng nhu cầu sinh lý và nhu cầu tinh thần. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội, làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như chất lượng cuộc sống con người ngày càng được cải thiện. Từ đó, hoạt động du lịch đã trở thành một nền kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Sản phẩm và quá trình sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chung của dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch. Thứ hai: Du lịch là một loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch thường là những dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung. Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ mà nhà cung ứng du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng… Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ cung cấp cho khách nhằm thỏa mãn các nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung của khách du lịch. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ
20. 15 đời sống nhằm thỏa mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm cho con người sống ngày càng phong phú hơn. Thứ ba: Tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch Tính thời vụ trong hoạt động du lịch có thể hiểu là những thay đổi lặp đi lặp lại hằng năm của cung cầu du lịch. Tính thời vụ của hoạt động du lịch bị ảnh hưởng bởi các nhân tố tự nhiên, nhân tố xã hội- kinh tế – tâm lý, nhân tố mang tính tổ chức – kĩ thuật.Các nhân tố trên thông thường vừa tác động riêng lẻ, vừa tác động đồng thời, trong thực tế mùa du lịch thường chịu ảnh hưởng của một vài nhân tố cùng một lúc. Vì vậy cũng cần hiểu rõ các mối liên hệ và ràng buộc qua lại giữa các yếu tố ảnh hưởng tới độ dài mùa của từng loại hình du lịch. Từ đó để tìm ra được mọi khả năng kéo dài mùa kinh doanh du lịch hoạt động trong cả năm, nâng cao chất lượng phục vụ và tăng nguồn thu cho doanh nghiệp du lịch. Thứ tư: Đối tượng phục vụ của ngành du lịch luôn di động và phức tạp Do khách hàng rất muốn chăm sóc như là những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hóa và không đồng nhất. Vì vậy, cảm giác của sự tin tưởng, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn so với khi mua bán những hàng hóa khác. Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc vào sự sẵn sàng và khả năng phục vụ của nhân viên, thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả những tiêu chí kĩ thuật. Vì vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Thứ năm: Kinh doanh du lịch là ngành kinh tế tổng hợp. Du lịch được coi là một ngành kinh tế kinh doanh tổng hợp: sản xuất, trao đổi hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch. Do tính chất tổng hợp của kinh doanh du lịch mà hoạt động này chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của rất nhiều ngành kinh tế. Tiểu thủ công nghiệp cung cấp cho du lịch các đồ lưu niệm làm cho các sản phẩm du lịch phong phú hơn, hải quan, công an kiểm soát và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bưu chính viễn thông giúp quảng bá cho du lịch, giáo dục giúp thay đổi nhận thức của người dân về du lịch, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao…
21. 16 Thứ sáu: Việc tiêudùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trongcùng một thời gian và không gian Đây là một đặc điểm quan trọng, thể hiện sự khác biệt giữa các dịch vụ và hàng hóa. Người ta có thể sản xuất ở một nơi khác và một thời gian khác với nơi bán và nơi tiêu thụ còn đối với dịch vụ du lịch thì không như vậy. Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ tới cho khách hàng mà tùy vào nhu cầu của bản thân, khách hàng tự tìm tới nơi cung cấp dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm trước, nó là một sản phẩm trừu tượng mà họ chưa một lần tiêu dùng nó. Dịch vụ du lịch luôn đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng không thay đổi tính phi vật chất của mình. Từ đặc điểm này, nên các nhà cung ứng dịch vụ du lịch phải cung cấp đầy đủ các thông tin nhấn mạnh tính lợi ích của dịch vụ mà không đơn thuần là mô tả dịch vụ, từ đó làm cho du khách quyết định mua dịch vụ của mình. Vì vậy khi xây dựng các điểm du lịch cần chú ý tới các điều kiện tự nhiên (như địa hình, địa chất, thủy văn, khí hậu, tài nguyên, môi trường sinh thái…) và điều kiện xã hội (dân số, dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung ứng lao động, cơ sở hạ tầng…) nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Đồng thời phải tiến hành các hoạt động xúc tiến và quảng bá mạnh mẽ để thu hút khách đến với du lịch. Cuối cùng: Du lịch chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định Du lịch là lĩnh vực nhạy cảm với những vấn đề chính trị, xã hội. Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh, sự bất ổn về chính trị sẽ ngăn cản các hoạt động du lịch. Hòa bình, ổn định chính là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch[13]. Ví dụ tiêu biểu như vụ khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ, khủng bố tại đảo Bali- Indonêxia, sự kiện ” đảo chính” ở Thái Lan… đã làm cho ngành du lịch các nước này lao đao sau nhiều năm mới phục hồi. Mặt khác, tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường …cũng là những nhân tố rất quan trọng tác động tới kinh doanh du lịch.
22. 17 1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịchvà lý do quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịchdu lịch. 1.2.1. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Trong xu thế phát triểncủa nền kinh tế thị trường, việc mở rộng hành lang pháp lý trong kinh doanh luôn được ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên Thế giới. Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh tại Điều 57″Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”[18]. Nhiều nghiên cứu cho rằng, quyền tự do kinh doanh có nhiều ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì đây là sự tự do trong hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất của cải vật chất cho xã hội, mà hoạt động kinh tế giữ một vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định hay ảnh hưởng các mặt hoạt động của quốc gia[3]. Tuy nhiên quyền tự do kinh doanh luôn gắn liền với một hệ thống pháp luật cụ thể, một quốc gia nhất định và trong một nước có pháp luật tự do nghĩa được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm[2]. Trong bối cảnh đó quan niệm về tự do kinh doanh và giới hạn quản lý của nhà nước đối với sự phát triển của thị trường luôn có những bước phát triển mới. Và với mỗi giai đoạn phát triển, pháp luật lại có những thay đổi trong việc nhận định lại nội hàm của quyền tự do kinh doanh. Một lẽ đương nhiên khi quyền tự do kinh doanh của cá nhân được mở rộng, pháp luật phải thay đổi cách thức và nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường[32]. Sau gần 30 năm kể từ ngày đổi mới, đây chính là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Việt Nam ghi nhận và tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân được thể chế hóa trong Hiến Pháp. Mặc dù còn hạn chế ở phạm vi tự do kinh doanh, khi các chủ thể kinh doanh chỉ được “tự do” kinh doanh trong lĩnh vực mà pháp luật cho phép, song so với các quan điểm quản lý kinh tế vào thời kì trước, đây cũng đã được xem là bước tiến đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đã chủ động ghi nhận quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cụ thể của quyền con người. Đến Hiến pháp 2013, quyền tự do kinh doanh đã có một bước tiến mới, thông thoáng hơn, cởi mở hơn khi quy định tại Điều 33 “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” [23]. Hiến pháp 2013 đãđặt đúng vị trí quyền con người như là chế định cơ bản, bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa,
24. 19 các hạn chế, bất cập của luật cũ, tiếp tục hướng tới việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Để tìm hiểu về khái niệm điều kiện kinh doanh, trước tiên cần phải hiểu được khái niệm về điều kiện. Theo Từ điển Tiếng Việt, điều kiện là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra”[17]. Như vậy, có thể hiểu điều kiện chính là những yếu tố tiên quyết, mang tính quyết định đối với sự xuất hiện của một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó. Khái niệm về điều kiện kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005, “Điều kiệnkinh doanhlà yêucầu mà doanhnghiệpphảicó hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”[20]. Tuy nhiên tới Luật Doanh nghiệp 2014 không nêu ra định nghĩa hay khái niệm về điều kiện kinh doanh hoặc những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà thay vào đó đã được cụ thể hóa trong Luật Đầu tư 2014 tại khoản 1 Điều 7″Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [24]. Như vậy, điều kiện kinh doanh được hiểu là những yêu cầu nhà nước đặt ra buộc các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng được khi thực hiện kinh doanh trong những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 7, Luật Đầu tư cũng liệt kê và tổng hợp các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện bao gồm 243 ngành, nghề kinh doanh đồng thời các điềukiện kinh doanh phải được quy định tại “các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, các nhân kháckhôngđược ban hànhquy định về điều kiệnđầu tư kinh doanh” [24]. Hình thức áp dụng của điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 118/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư như sau: “1) Giấy phép kinh doanh; 2) Giấy chứng nhận đủ điều kiệnkinh doanh;3) Chứng chỉ hànhnghề; 4) Chứng nhậnbảo hiểm trách nhiệm
25. 20 nghề nghiệp; 5) Xác nhận vốn pháp định; 6) Các hình thức văn bản khác theo quy định của pháp luật ngoài các hình thức điều kiện trên; 7) Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinhtế phảiđáp ứng để thực hiện hoạt độngđầu tư kinh doanhmà khôngcần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức văn bản”[5]; Các quy định nhằm tạo hiệu quả và tối ưu hóa việc nhà nước quản lý hoạt động kinh tế, tạo lập nên một khung pháp lý để các chủ thể kinh doanh được đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Thông qua các chế định pháp luật về điều kiện kinh doanh, Nhà nước có thể điều tiết được hoạt động sản xuất – kinh doanh, giữ được sự phát triển ổn định bền vững cho nền kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là yêu cầu mà các tổ chức, cá nhân phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh dịch vụ du lịch được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thể hiện bằng các hình thức theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Lý do quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch Hiến pháp 2013 đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh là quyền con người và là một trong những quyền cơ bản của công dân. Song đối với việc kinh doanh trong một số ngành, nghề nhất định mặc dù tinh thần “được tự do kinh doanh” nhưng các chủ thể kinh doanh cần đáp ứng được các điều kiện nhất định đối với ngành, nghề đó. Ngày nay, sự phát triển du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao do nó khai thác những giá trị tài nguyên sẵn có cả về tự nhiên và nhân văn. Trong quá trình khai thác những tài nguyên du lịch không bị mất đi nếu biết bảo tồn gìn giữ và cũng không gây ô nhiễm môi trường như một số ngành kinh tế khác. Kinh doanh dịch vụ du lịch cũng như bao ngành nghề khách đều phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó, kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa và lưu trú du lịch là một ngành nghề đặc thù, tác động đến nhiều lợi ích chung của cộng đồng cũng như tác động đến nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch khác. Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh cũng như hài hòa các quyền lợi khác như kinh tế, an ninh, trật tự xã hội, môi trường, danh lam thắng cảnh việc đăng ký kinh doanh lữ hành và lưu trú cần phải đảm bảo điều kiện do pháp luật quy định. Tạo ra các điều kiện kinh doanh lữ hành và
27. 22 Do vậy, năm 1979, Đại hội của UNWTO đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới. – Đối với văn hóa, xã hội: Du lịch là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội của con người, có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân dân. Du lịch góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế vùng có hoạt động du lịch và giảm quá trình đô thị hóa. Dựa vào việc tài nguyên du lịch tự nhiên có ở các vùng hẻo lánh, xa xôi, vùng ven biển…Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế văn hóa, xã hội… Do vậy mà việc phát triểndu lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế – xã hội giữa các vùng trong cả nước, giảm đi sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế – xã hội ở những vùng đó, đồng thời góp phần làm giảm đi sự tập trung dân cư ở những trung tâm dân cư. Thông qua việc sử dụng các dịch vụ du lịch, khách du lịch sẽ thường xuyên tiếp xúc với người dân địa phương làm tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị. Du lịch còn làm phong phú thêm khả năng thẩm mỹ, sự hiểu biết của con người khi họ được tham quan các kho tàng mỹ thuật, di tích lịch sử văn hóa. Bên cạnh đó, du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống của dân tộc từ đó có ý nghĩa rất to lớn đối với việc khai thác và bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội. – Đối với môi trường sinh thái: Vai trò sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và hoạt động của con người. Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Lúc này con người phải đặt ra vấn đề trong việc bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
29. 24 lịch mang tính thời vụ, khách du lịch không ổn định, khi tới mùa du lịch, lượng khách du lịch tới các khu du lịch tăng đột biến. Khách du lịch đi lẻ với tâm lý ngẫu hứng, thiếu thông tin cũng như sự không tập trung của nguồn khách lẻ đã dẫn tới khó khăn trong việc quản lý khách du lịch của nhà nước, khó khăn trong việc cung cấp sản phẩm du lịch cũng như an ninh khu vực. Sản phẩm du lịch được tạo ra từ sự kết nối các sản phẩm du lịch khác một cách khoa học, một chương trình du lịch tác động đến nhiều doanh nghiệp khác như lưu trú, ăn uống, vận chuyển…, tác động đến di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh… cũng như tác động đến khách du lịch, đất nước Việt Nam trong mắt khách du lịch.. Trong một sản phẩm du lịch như vậy, rất nhiều quan hệ phát sinh dễ dẫn đến nhiều tranh chấp phức tạp. Từ những lý donhư trên đòi hỏi cần có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch để phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng vận động chung của thị trường, nâng cao được hiệu quả của hoạt động du lịch một mặt đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch, mặt khác đảm bảo quyền lợi của khách du lịch cũng như lợi ích chung của quốc gia, của dân tộc. 1.3. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về điều kiện kinh doanh du lịch 1.3.1. Khái niệm Pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là hệ thống tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch và hoạt động quản lý của nhà nước đốivới đăng kí kinh doanh dịch vụ du lịch. Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch: – Quan hệ giữa ngành chủ quản với các doanh nghiệp du lịch; – Quan hệ giữa doanh nghiệp du lịch với khách, giữa các doanh nghiệp du lịch với nhau; – Quan hệ nội bộ của các doanh nghiệp du lịch; – Quan hệ giữa nước đón tiếp du lịch với khách du lịch nước ngoài; – Quan hệ giữa nước phát sinh nguồn khách (nước gửi khách) và nước đón tiếp khách;
31. 26 kinh doanh: gồm các tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập, chấp nhận cho đầu tư kinh doanh; 2) Ký quỹ doanh nghiệp: phải phù hợp với quy định của pháp luật; 3) Cơ sở vật chất tối thiểu đáp ứng các tiêu chuẩn về: Phòng cháy chữa cháy, về cơ sở hạ tầng; 4) Điều kiện về trình độ chuyên môn của người quản lý; 5) Một số các loại điều kiện khác như an toàn phòng chống cháy nổ, trật tự an ninh, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… Mỗi một nhóm, mỗi một loại hình kinh doanh dịch vụ du lịchlại được áp dụng các loại điều kiện kinh doanh riêng. Nhìn chung, các quy định pháp luật tuy có một số khác biệt trong các thời kỳ khác nhau theo từng giai đoạn của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nhưng vẫn nhất quán với quan điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch thường cấu thành bởi những yếu tố: – Điều kiện đối với chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch: Điều kiện về chủ thể đối với kinh doanh lữ hành là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Theo khoản 7, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2014 :”Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” [25]. Theo quy định của tại Điều 6 của Luật Thương mại 2005, thương nhân bao gồm “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Đối với nhóm kinh doanh dịch vụ du lịch lưu trú, vận tải du lịch hoặc các dịch vụ khác thì điều kiện về chủ thể kinh doanh theo Luật Du lịch 2017 đã mở rộng đến các “tổ chức và cá nhân”. – Điều kiện về ký quỹ trong kinh doanh dịch vụ du lịch: Tiền kí quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [25]. Số tiền ký quỹ sử dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh lữ hành. Điều kiện về ký quỹ được áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa vì xét thấy tính chất và mức độ rủi ro của hoạt động này đối với các đối tượng khác, đặc biệt là khách du lịch. Việc ký quỹ nhằm mục đích chính là đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ đối với khách du lịch, tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi của khách du lịch.
32. 27 – Điều kiện về yêu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kỹ thuật, phòng cháy chữa cháy, trật tự an toàn xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm, trình độ chuyên môn… Đối với từng hình thức kinh doanh dịch vụ du lịch sẽ có các điều kiện kinh doanh tương ứng, phù hợp với yêu cầu về các tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kĩ thuật theo thiết kế công trình, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường. Người quản lý hay hướng dẫn viên du lịch phải có bằng cấp, trình độ chuyên môn, kiến thức về du lịch, y tế, nghiệp vụ quản lý. Ngoài ra đối với kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống phải xin cấp phép về an toàn phòng chống cháy nổ,vệ sinh an toàn thực phẩm… Tiểu kết chương Một là vai trò của du lịch có ý nghĩa hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, đời sống, xã hội. Từ việc phân tích, đánh giá về tính chất, đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh du lịch; những rủi ro, tác động trong kinh doanh dịch vụ du lịch, qua đó nhìn nhận việc quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch là sự cần thiết và tất yếu khách quan. Hai là, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đang trên đà hội nhập quốc tế, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ du lịch, đòi hỏi các quy định pháp luật về điềukiện kinh doanh dịch vụ du lịch cũng từng bước phát triển với xu hướng mở rộng hành lang pháp lý để các chủ thể kinh doanh khác nhau có thể gia nhập thị trường. Bên cạnh đó, tác giả Luận văn cũng đã nêu ra những điều kiện đăng kí kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014, Luật Du lịch 2017 đã có nhiều điểm mới, quy định chi tiết và phù hợp với xu thế phát triển. Sự thay đổicác quy định của pháp luật không chỉ là sự kế thừa những quy định cũ mà còn phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân, tổ chức, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước.
33. 28 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH 2.1. Lịch sử hình thành và phát triểnpháp luật Du lịch Việt Nam Kinh doanh dịch vụ du lịch được vận hành theo hướng cơ chế thị trường đã tạo ra môi trường kinh doanh đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Ngày 16/03/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty du lịch Việt Nam. Giai đoạn 1971-1978 làthời kì hoạt động du lịch được mở rộng. Có thể nói, đây là giai đoạn “tập dượt”của du lịch Việt Nam để bước vào hoạt động kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh du lịch quốc tế một cách bài bản. Tuy còn nhiều hạn chế về mặt quản lý nhà nước nhưng đây là giai đoạn vô cùng quan trọng để ngành du lịch có được cái nhìn đầy đủ hơn về bản chất kinh doanh du lịch, về tính liên ngành trong hoạt động kinh doanh du lịch và sự kết hợp giữa mở rộng kinh doanh du lịch với đảm bảo an ninh quốc phòng như một nguyên tắc hoạt động của ngành, đặc biệt trong du lịch tiếp cận quốc tế. Giai đoạn 1979-1991, Tổng cục Du lịchthực hiện hai chức năng chính là quản lý nhà nước và quản lý trực tiếpchỉ đạo hoạt độngkinh doanh du lịch đốivới một số công ty trực thuộc. Tuy nhiên, cả hai chức năng mà Tổng cục Du lịchđảm nhiệm đềurất hạn chế, chưa có đủ điều kiện để phát triển. Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 (từ 27/7 – 12/08/1991)đãban hành Nghị quyết chuyển chức năng quản lý nhà nước về du lịchvà đổi tên một số Bộ, theo đó chức năng quản lý nhà nước về du lịch được chuyển sang Bộ Thương mại và đổi tên Bộ thương mại thành Bộ Thương mại- Du lịch. Giai đoạn 1992-2005, du lịch có bước phát triển mạnh mẽ với vị thế của một ngành kinh tế. Cách đây 38 năm, Hội nghị Du lịch thế giới họp tại Manila Philippin (1980) đã đưa ra tuyên bố Manila về du lịch, trong điều 2 đã khẳng định “Trước ngưỡng cửa của thế kỉ 21 và trước những triển vọng của những vấn đề đang đặt ra đối với nhân loại, đã đến lúc cần thiết và phải phân tích bản chất của du lịch, chủ yếu đi sâu vào bề rộng mà du lịch đã đạt được kể từ khi người lao động được quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng du lịch từ một phạm vi hẹp của thú vui sang phạm
34. 29 vi lớn của cuộc sống kinh tế xã hội. Phần lớn đóng góp của du lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế đang làm cho nó trở thành yếu tố quan trọng cho sự phát triển của thế giới. Vai trò thiết thực của du lịch trong hoạt động kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và trong sự cân bằng cán cân thanh toán, đang đặt du lịch vào vị trí trong số các ngành hoạt động kinh tế thế giới quan trọng nhất”[11]. Nhận thấy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của du lịch, trong văn kiện của các kì Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định đẩy mạnh phát triển du lịch, tạo bước đột phá để phát triển vượt bậc khu vực dịch vụ, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Quan điểm của Đảng đối với phát triển du lịch được cụ thể hóa trong giai đoạn phát triển mới, theo đó du lịch được khẳng định là”ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước” theo (Nghị quyết 45/CP ngày 22/06/1993) và “phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa…góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước” theo (Chỉ thị 46/CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí thư TW Đảng). Ngày 08/02/1999 UBTV Quốc hội khóa X đã thông qua Pháp lệnh Du lịch. Đây có thể coi là bước tiếnquan trọng đối với ngành du lịch. Pháp lệnh du lịch ra đời gồm có 9 chương, 56 điều quy định một cách cơ bản nhất về hoạt động kinh doanh du lịch, khách sạn, vận tải du lịch…Ngày 14/06/2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI Luật Du lịch đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01/01/2006. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Du lịch Việt Nam sau hơn 45 năm xây dựng và phát triển ngành du lịch. Cùng với Luật Du lịch, nhiều chính sách hỗ trợ phát triển du lịch đã được xây dựng và ban hành. Giai đoạn 2005-2017làkhoảng thời gian Du lịch Việt Nam đã khẳng định được vai trò của ngành kinh tế với việc lần đầu tiên trong lịch sử phát triển ngành đã xây dựng được chiến lược và quy hoạch tổng thể. Sự tăng trưởng không ngừng về khách du lịch đã mở rộng quy mô kinh doanh du lịch Việt Nam trên mọi lĩnh vực.Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định “phát triển du lịch thành một nền kinh tế mũi nhọn, phấn đấu sau năm 2010 Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch
37. 32 du lịch. Cụ thể: các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa không phải ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch và không cần có hướng dẫn viên du lịch. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa chỉ phải gửi thông báo thời điểm hoạt động kèm theo phương án kinh doanh và chương trình du lịch nội địa tới Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịchnơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Song theo thống kê mới nhất của các Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước có chỉ có 1.528 trong tổng số trên 13.000 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa gửi thông báo hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch và duy trì các điều kiện kinh doanh và hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch nội địa. Việc phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa thiếu nghiêm túc trong việc chấp hành các quy định của pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra. Số lượng doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchnội địa phát triển mạnh mặc dù nhiều doanh nghiệp trong số đó không đủ năng lực kinh doanh. Hiện nay, các cơ quan quản lý về du lịch ở địa phương chưa quản lý, kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp du lịch nội địa. Điều này đã nảy sinh khá nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp không đảm bảo điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa, không thực hiện việc thông báo với cơ quan quản lý du lịch cấp tỉnh nhưng vẫn tổ chức thực hiện chương trình cho khách du lịch nội địa. Để khắc phục hạn chế của này, Luật Du lịch 2017 đã bổ sung quy định cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa nhằm đảm bảo quyền lợi khách du lịch, đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp. – Điều kiện về ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa được quy định tại điểm b, khoản 1, điều31, Luật Du lịch2017. “Mức ký quỹ kinhdoanhdịch vụ lữ hành nội địa100.000.000(Một trăm triệu đồng), doanhnghiệpthực hiện ký quỹbằngđồng Việt Nam tại ngânhàngthương mại, ngânhàng hợp tácxã hoặc chi nhánhngânhàng nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam và được hưởng lãi suất theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp và ngân hàng nhận ký quỹ phù hợp với quy định của pháp luật. Tiền ký quỹ phảiđược duy trì trongsuốtthời giandoanhnghiệpkinhdoanhdịch vụ lữ hành”[7]. – Điều kiện về yêu cầu đáp ứng trình độ chuyên môn: Người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành phải tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành về lữ hành;
38. 33 trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch nội địa. Theo Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2018 quy định: “Người phụ trách kinh doanh dịch vụ lữ hành là người giữ một trong các chức danh sau: chủ tịch hội đồng quản trị; chủ tịch hội đồng thành viên; chủ tịch công ty; chủ doanh nghiệp tư nhân; tổng giám đốc; giám đốc hoặc phó giám đốc; trưởng bộ phận kinh doanh dịch vụ lữ hành. Chuyên ngành về lữ hành bao gồm một trong những chuyên ngành sau: quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; quản trị lữ hành; điều hành tour du lịch; marketing du lịch; du lịch; du lịch lữ hành; quản lý và kinh doanh du lịch” [36].Luật Du lịch 2005 quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchphải có người điều hành có kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ hành; việc xác định điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch thông qua bản xác nhận của doanh nghiệp lữ hành du lịch hoặc quyết định thôi việc hoặc giấy tờ đóng bảo hiểm. Tuy nhiên quy định này chưa có hình thức kiểm tra tính xác thực của các giấy tờ này. Nhiều trường hợp các giấy tờ xác nhận trên không đúng sự thật, khi kiểm tra doanh nghiệp mới phát hiện được và thực tế đã phải thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành du lịchcủa công ty làm giả hồ sơ. Tới Luật Doanh nghiệp 2017, quy định này đã được xóa bỏ tạo điều kiện thuận lợi hơn khi đăng kí kinh doanh dịch vụ lữ hành. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa: Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa đóng vai trò trung gian trong hoạt động du lịch, tác động đến nhiều mối quan hệ pháp luật, việc quy định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp lữ hành là cần thiết, nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đối với các sản phẩm du lịch, với các đối tượng cung cấp dịch vụ du lịch khác cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch. Quyền của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa được quy định tại Điều 37 Luật Du lịch 2017 như sau: – Được Nhà nước bảo hộ hoạt động kinh doanh du lịch hợp pháp khi doanh nghiệp kinh doanh lữ hành được thành lập theo đúng pháp luật.Không ai được phép tước quyền kinh doanh hợp pháp, cấm đoán trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp được bình đẳng với nhau trước pháp luật.
Kinh Doanh Dịch Vụ Giáo Dục Và Những Điều Phải Biết
Kinh doanh dịch vụ giáo dục đã và đang là một quyết định đầu tư được rất nhiều người quan tâm vì tính dài hạn và khả năng mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, đây cũng là một quyết định đầu tư nguy hiểm nếu như bạn không có sự nghiên cứu thị trường chuẩn xác và chuẩn bị kỹ càng.
1. Điều kiện kinh doanh dịch vụ giáo dục
Để phục vụ nhu cầu học tập của các em học sinh, ngày càng xuất hiện nhiều dịch vụ giáo dục. Theo đó, các dịch vụ kinh doanh giáo dục ngày càng thu hút được nhiều người đầu tư vì đây là một lĩnh vực ít sự rủi ro mà tỷ suất lợi nhuận khá cao. Một tổ chức, cá nhân đứng ra thực hiện bất kỳ kinh doanh một dịch vụ giáo dục nào đó đều cần phải đáp ứng đúng và đủ mọi điều kiện về:
Thủ tục cho phép thành lập: Để mở cơ sở kinh doanh dịch vụ giáo dục, người đứng đầu cần phải thực hiện và chuẩn bị đúng, đủ mọi thủ tục, giấy tờ hành chính để cơ sở đó được thành lập.
Thủ tục cho phép hoạt động: Khi cơ sở kinh doanh dịch vụ giáo dục đó được thành lập, không phải cơ sở đó có quyền đi vào hoạt động ngay lập tức. Muốn cơ sở đó được hoạt động bình thường, ổn đúng, không phạm luật thì cần phải hoàn thành mọi thủ tục, giấy tờ cho phép hoạt động. Khi này cơ sở mới có thể hoạt động một cách doanh chính ngôn thuận theo pháp luật.
2. Những ý tưởng kinh doanh giáo dục phổ biến
Trên thực tế, giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng đối với không chỉ riêng một cá nhân ai mà còn cả cho sự phát triển của xã hội. Chính vì thế, kinh doanh dịch vụ giáo dục đang là một địa hạt cực kỳ hấp dẫn và thu hút sự đầu tư của nhiều người. Với những ý tưởng hay, độc đáo, thế giới của những ý tưởng kinh doanh giáo dục ngày càng đa sắc màu.
Nhượng quyền giáo dục
Nhượng quyền giáo dục đang là một ý tưởng kinh doanh độc đáo nhất. Với nhượng quyền giáo dục, bản thân bên nhận nhượng quyền sẽ không cần tự tạo dựng thương hiệu mà thương hiệu đã có sẵn, tránh được nhiều rủi ro. Bên cạnh đó, bên nhận nhượng quyền còn tiết kiệm được khá nhiều thời gian hơn là tự kinh doanh một dịch vụ giáo dục.
Nhượng quyền giáo dục cho phép các nhà đầu tư nhanh chóng thu hút được một lượng khách ổn định do thừa hưởng được danh tiếng có sẵn từ thương hiệu kinh doanh. Nhờ đó mà kết quả kinh doanh thường khá khả quan và thời gian lấy lại vốn nhanh hơn so với các loại hình kinh doanh khác.
Thực tế, dịch vụ giáo dục cho trẻ đang là một ngành phát triển cực tốt không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Tuy nhiên, ở Việt Nam các mô hình kinh doanh giáo dục hiện đại, chất lượng cũng như các thương hiệu nổi tiếng trên thị trường thế giới chưa xuất hiện nhiều. Do vậy, Việt Nam cần đưa các thương hiệu giáo dục uy tín trên thế giới, những mô hình giáo dục gắn nhiều với thực hành về Việt Nam. Nói cách khác, Việt Nam cần có nhiều thương hiệu nhượng quyền giáo dục hơn để làm phong phú thị trường này
Kinh doanh theo mô hình nhượng quyền giáo dục UCMAS
Dạy học online
Dạy học online hay còn gọi là dạy học trực tuyến là những khái niệm đã quá quen thuộc đối với các em học sinh hay các bậc phụ huynh. Đây cũng là một trong những ý tưởng kinh doanh giáo dục thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Sản phẩm của hàng loạt hoạt động kinh doanh giáo dục dạy học online là hàng loạt các trung tâm dạy học trực tuyến ra đời. Mô hình kinh doanh cho ý tưởng kinh doanh này ngoài hạ tầng công nghệ thông tin, cần tìm được các giáo viên dạy giỏi cũng như đội tư vấn viên chuyên nghiệp để đảm bảo đầu vào và đầu ra.
Dạy học online – mô hình kinh doanh phổ biến
Trung tâm tiếng Anh
Tiếng Anh là một trong những ngoại ngữ đang được săn đón với số lượng người học khá lớn ở Việt Nam. Hiện nay, số lượng trung tâm tiếng Anh ở Việt Nam không phải ít. Tuy nhiên, số lượng trung tâm vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của các em học sinh và các bậc phụ huynh.
Chính vì vậy, muốn kinh doanh giáo dục bằng ý tưởng mở trung tâm tiếng Anh thì cần tạo sự khác biệt. Khác biệt trong chính chất lượng đào tạo và hơn thế là những khóa học phù hợp với từng trình độ, lứa tuổi, từng nhu cầu của người học, tránh tình trạng học lẫn lộn.
Điều quan trọng tiếp theo không thể thiếu trong ý tưởng kinh doanh này là chọn lọc đội ngũ giáo viên. Đội ngũ giáo viên phải là những giáo viên nước ngoài hoặc giáo viên Việt giỏi tiếng Anh để có thể mang đến tri thức tốt nhất, cách giảng dạy phù hợp và hiệu quả nhất cho các em học sinh.
Mở trung tâm tiếng anh đang là ý tưởng thu hút các nhà đầu tư
Kinh doanh đồ chơi giáo dục
Ý tưởng kinh doanh đồ chơi giáo dục là một ý tưởng tuyệt vời. Thực tế, trẻ nhỏ thường thích thú với đồ chơi. Vậy nên, thông qua đồ chơi để dạy trẻ học cũng là một phương pháp hay.
Đồ chơi giáo dục có thể kể đến như: bộ lắp ráp xếp khối gỗ, tranh ghép, bộ tô màu… Các đồ chơi giáo dục này sẽ giúp trẻ nhỏ cảm thấy thích thú hơn, vừa được học, vừa được chơi.
Kinh doanh thiết bị giáo dục
Thiết bị giáo dục là những vật dụng cần thiết trong quá trình giảng dạy và học tập, như: bàn, ghế, bảng, đồ dùng học tập, thiết bị dạy và học,…
Kinh doanh thiết bị giáo dục cũng là một trong những ý tưởng kinh doanh nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, ý tưởng này cần xác định rõ đối thủ cũng như vị trí kinh doanh để đảm bảo được lợi nhuận.
3. Mô hình kinh doanh dịch vụ giáo dục tốt nhất cho bạn
Thông tin về mô hình nhượng quyền giáo dục UCMAS
Nhượng quyền giáo dục “UCMAS” là một trong số những mô hình kinh doanh nhượng quyền hàng đầu tại Việt Nam. Thương hiệu UCMAS với chương trình “Bàn tính và Số học trí tuệ” có nguồn gốc từ Malaysia đã được khoa học chứng nhận giúp phát triển tư duy và não bộ cho trẻ từ 4 đến 14 tuổi thông qua công cụ bàn tính gảy.
UCMAS Việt Nam là đơn vị phân phối độc quyền chương trình “Bàn tính và Số học trí tuệ” UCMAS tại Việt Nam. UCMAS Việt Nam sở hữu chương trình mang thương hiệu Quốc tế uy tín hàng đầu. Tính đến nay, UCMAS Việt Nam đã có hơn 10 năm hoạt động và phát triển với hơn 180 trung tâm, phân bố rộng khắp các tỉnh thành trên cả nước.
Nhượng quyền mô hình giáo dục tại UCMAS Việt Nam là một mô hình kinh doanh chuyên nghiệp, bài bản. Nhận nhượng quyền tại UCMAS Việt Nam, các đối tác của UCMAS sẽ nhận được rất nhiều lợi ích, cụ thể như sau:
Đối tác sẽ có ngay trung tâm đào tạo riêng chỉ sau 15 – 30 ngày set-up và đào tạo với quy trình đào tạo cực kỳ chuyên nghiệp, dễ dàng vận hành và quản lý ngay sau khi hoàn thiện trung tâm.
UCMAS Việt Nam luôn là người bạn đồng hành đáng tin cậy và tận tâm với mọi đối tác. UCMAS Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ mọi quyết định kinh doanh, đem lại thành công lớn cho bạn với mức lợi nhuận lên tới 800 triệu/năm chỉ với vốn đầu tư ban đầu 80 – 100 triệu.
Ngoài ra, UCMAS Việt Nam còn hỗ trợ marketing từ A – Z định kỳ hàng tháng, hàng năm, từ truyền thông cho đến quảng bá thương hiệu, giúp các trung tâm nhượng quyền có được lượng học sinh ổn định, đạt tiêu chuẩn đầu ra.
Đặc biệt, UCMAS Việt Nam đảm bảo tư vấn và hỗ trợ bên nhận nhượng quyền hồ sơ thành lập trung tâm, giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục và chuẩn bị cho trung tâm hoạt động.
Có thể nói, nhượng quyền UCMAS là mô hình kinh doanh dịch vụ giáo dục an toàn, lâu dài, mang tới lợi nhuận cao và nhiều giá trị tích cực cho xã hội. Hệ thống UCMAS Việt Nam vẫn đang không ngừng mở rộng và tìm kiếm thêm các nhà đầu tư cùng chí hướng. Để biết thêm thông tin chi tiết về việc nhượng quyền UCMAS, quý vị vui lòng truy cập website http://nhuongquyen.ucmasvietnam.com/ hoặc liên hệ theo số 0916868154 (gặp Ms Phượng) để được tư vấn.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Điều Kiện Kinh Doanh Dịch Vụ Taxi trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!