Cập nhật nội dung chi tiết về Định Luật Dao Cạo Occam mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Làm việc nên cố gắng đơn giản hóa
Dao cạo Occam là một nguyên lý do tu sĩ William Hội San Francisco de Asis, Anh đưa ra ở thế kỷ 14. William sinh ra ở thị trấn Occam, quận Surrey, Anh. Ông từng học ở Đại học Paris và Đại học Oxford, kiến thức uyên bác, được mọi người gọi là “tiến sĩ không thể bắt bẻ”.
William viết một lượng lớn các tác phẩm, nhưng ảnh hưởng không lớn. Song ông lại là người đề ra một nguyên lý thế này: Nếu không cần thiết đừng tăng thêm thực thể. Nghĩa là: Chỉ thừa nhận những thứ tồn tại thực, phàm là những khái niệm mang tính phổ biến can dự vào những lỗ trống của sự tồn tại thực tế đều thừa và phí lời, nên hủy bỏ hết. Ông sử dụng nguyên lý này để chứng minh rất nhiều đến kết luận, bao gồm “kết luận thông qua suy nghĩ và phân tích không thể ra được sự tồn tại của Thượng đế”. Điều đó khiến ông không được giáo hoàng La Mã thích. Không lâu sau, ông bị giáo hoàng coi là nghịch đồ, giam vào nhà tù, mục đích là làmt hay đổi tư tưởng của ông. Bốn năm trong tù, ông tìm cơ hội trốn ra ngoài, đi nương nhờ vào địch thủ không đội trời chung của giáo hoàng – Vua của Bavaria. Ông nói với vua: “Ngài dùng gươm để bảo vệ tôi, tôi dùng bút để bảo vệ ngài”. Thật là một lần vượt ngục thành công, tên tuổi của William trở nên lẫy lừng. Cách ngôn của ông: “Nếu không cần thiết đừng tăng thêm thực thể” cũng được lan truyền rộng rãi. Cách tư duy dường như độc đoán, thiên kiến này, sau này được mọi người gọi là “Dao cạo Occam”.
Xuất phát điểm của “Dao cạo Occam” chính là: Thiên nhiên không làm bất cứ việc thừa nào. Nếu bạn có hai nguyên lý, chúng đều có thể giải thích những thực thể quan sát được, vậy bạn hãy dùng cái đơn giản ấy, cho đến khi phát hiện chứng cứ nhiều hơn. Những sự giải thích hiện tượng giản đơn nhất luôn chính xác hơn sự giải thích phức tạp. Nếu bạn có hai phương án giải quyết như thế, hạy chọn sự giải thích đơn giản nhất, cần ít giả thiết nhất, cái có khả năng chính xác nhất. Một câu: Hãy cắt bỏ những cái rườm rà, thừa thãi, hãy giữ cho sự việc đơn giản!
“Dao cạo Occam” là con dao công bằng nhất, bất luận nhà khoa học hay là người bình thường, ai có dũng khí cầm lấy nó, người đó sẽ là người thành công. Sau khi rút chiếc “dao cạo” này ra khỏi vỏ, từng người từng người một, như: Newton, Gebaini, Albert Einstein… đều sau khi “gọt” bỏ cái thừa của thực tế khách quan hoặc lý luận, “cạo” ra những kết luận khoa học tinh luận đến mức không thể tinh luận thêm được nữa. Mỗi người đều giải quyết được những phức tạp nhất, nhưng trước hết đều dùng “Dao cạo Occam” để biến những hiện tượng phức tạp thành hiện tượng giản đơn nhất, sau đó mới bắt tay vào giải quyết vấn đề.
Những nhà khoa học vĩ đại, thành công trước hết đều nhờ dũng khí sử dụng “Dao cạo Occam: sắc nhọn này – Định luật đơn giản hóa nhất những sự việc phức tạp nhất, sau đó mới “thông quan” được con đường huy hoàng của thiên tài.
Qua mấy trăm năm “Dao cạo Occam” đã được lịch sử mài giũa ngày càng nhanh, nó đã vượt khỏi lĩnh vực nhỏ hẹp ban đầu, có ý nghĩa rộng lớn hơn, phong phú hơn và sâu sắc hơn.
Trong giới doanh nghiệp Mỹ, từ rất lâu rồi đã tồn tại một ý thức truyền thống, công việc của những người giám đốc là cầu nối liên lạc trung gian giữa cấp dưới và cấp quản lý cấp cao, tổ chức các cuộc họp cấp cao, đảm bảo hoạt động của nhà máy và những bộ phận khác được bình thường. Nói tóm lại, công việc của giám đốc là giám sát cấp dưới hoạt động bình thường. Nhưng năm 1981 khi Jack Welch nhận chức Tổng giám đốc GE, đã chê trách cách làm này, ông cho rằng những giám đốc làm theo cách này là những nhà quản lý quan liêu, cổ hủ, lạc hậu. Từ trước đến giờ, Jack Welch cực kỳ ghét những truyền thống lạc hậu.
GE là một công ty đa nguyên hóa, với những bộ phận sự nghiệp đông đảo và lượng nhân viên lên đến hàng nghìn hàng vạn, để quản lý một cách có hiệu quả số nhân viên này, để họ đạt được năng suất cao nhất có thể, là một vấn đề luôn khiến Jack Welch phải lao tâm khổ tứ. Ông cho rằng, quản lý quá nhiều sẽ tạo ra thói quan liêu, lề mề, sẽ phá hỏng cái công ty êm đẹp này. Sau cùng, ông đưa ra một kết luận có hiệu quả mà theo ông là đúng đắn nhất và cũng cần thiết là: quản lý càng ít, tình hình công ty càng tốt lên.
Từ khi tiếp nhận cương vị đứng đầu GE, Jack Welch cho rằng đây là chỗ bị bệnh tác phong quan liêu nghiêm trọng. Tỷ lệ khống chế và giám sát, đôn đốc trong công việc quản lý là quá cao. Ông quyết định thay đổi phong cách quản lý của những người chủ quản.
Jack Welch muốn đào thải từ “giám đốc” khỏi từ điển của chính mình, lý do là từ đó có ý nghĩa “khống chế chứ không phải giúp đỡ, phức tạp hóa chứ không phải đơn giản hóa, hành động đó giống kẻ thống trị chứ không phải là máy tăng tốc”. “Một số giám đốc” Welch nói, “biến quyết sách kinh tế thành phức tạp, vụn vặt, không có một chút ý nghĩa nào. Họ đánh đồng quản lý với cái phức tạp bậc cao, vì nghe có vẻ như thông minh hơn tất cả mọi người chính là quản lý. Họ không hiểu phải đi khích lệ con người. Tôi không thích cái đặc trưng mà “quản lý” mang – khống chế, áp đặt mọi người, khiến họ phải sống trong bóng tối, lãng phí thời gian của họ vào những việc lặt vặt. Theo dõi họ quá chặt. Bạn không thể giúp họ nảy sinh sự tự tin”.
Ngược lại, Welch rất thích từ “người lãnh đạo”. Theo ông, lãnh đạo nên là những loại người có thể nói rõ với mọi người làm thế nào tốt hơn, đồng thời có thể vẽ ra viễn cảnh để kích thích mọi người nỗ lực. Các nhà quản lý cùng nhau bàn bạc, để lại lời dặn cho nhau, nhưng người lãnh đạo lại nói chuyện với công nhân của họ, cùng công nhân của họ bàn bạc, mang vào đầu óc họ những cảnh tượng tốt đẹp, khiến họ làm việc trên tầng thứ địa vị mà họ tự cho là không thể, sau đó người lãnh đạo chỉ cần mở đường ra là được.
Chính dưới sự chỉ đạo của những cách nghĩ này, Welch đã tuyên chiến với thói quan liêu của công ty GE; đơn giản hóa bộ phận quản lý; tăng cường sự hiểu biết trên dưới, biến lãnh đạo thành khích lệ, dẫn dắt; yêu cầu tất cả những người có quyết sách quan trọng của công ty phải hiểu tất cả tình hình thực tế cùng tầm quan trọng… Dưới sự cắt xen của con dao cạo thần kỳ Welch, GE liên tục 20 năm liền giữ thành tích huy hoàng.
Đừng cho rằng “Dao cạo Occam” chỉ đặt bên cạnh những thiên tài, thực ra, nó ở khắp mọi nơi, chỉ đợi mọi người cầm lấy. Chỉ cần chúng ta có dũng khí cầm lấy “Dao cạo Occam”, đơn giản hóa những cái phức tạp, bạn sẽ phát hiện cuộc đời thật ra rất đơn giản, thành công thật ra cách bạn hoàn toàn không xa.
TH: T.Giang – SCDRC
Share this:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Định Nghĩa : Tục Ngữ, Ca Dao, Thành Ngữ
Theo định nghĩa trong Tập “Tục Ngữ, Thành Ngữ Ca Dao và Dân Ca Việt Nam” của cụ Trần Ngọc Ngải, Chicago, Illinois, USA 1997:
Ca Dao(petite chanson populaire) = Câu hát ngắn thành khúc điệu được phổ thông trong dân gian
Cách Ngôn(Précepte, Maxime) = Lời nói làm khuôn phép (cách kiểu mẫu, khuôn mẫu)
Châm Ngôn((Précepte, conseil) Lời văn có vần điệu để khuyên đời
Dân Ca(Chanson populaire) Bài ca có tính cách dân tộc, dễ hiểu và hợp với tâm tình đơn giản của nhân dân
Ngạn Ngữ(Proverbe, dicton populaire) Câu nói ngắn gọn của dân gian với mục đích răn dạy
Phong Dao(Chanson populaire) = Lời ca câu hát của dân gian tại các địa phương mà có thể hiểu được phong tục tập quán của một dân tộc trong lịch sử
Phương Ngôn(Proverbe) = Lời nói thông dụng của từng địa phương có ý nghĩa như câu tục ngữ
Tục Ngữ(Proverbe) = Câu nói có tính cách răn dạy hay châm biếm chuyện đời
Thành NgữLà những câu nói ngắn gọn dân gian thường dùng trong khi nói hay viết cho có vẻ mầu mè. (Trang 3)
Theo Ông Lê Gia trong bộ sưu tập “Tâm Hồn Mẹ Việt Nam” (NXB Văn Nghệ, 1994) đưa ra những nhận định khá khác biệt với những Sưu tầm ca dao trước đây. (Trang 13 – 30 Quyển Một)
a. Tục Ngữ:Câu nói dựa theo phong tục ăn sâu vào tư tưởng mọi người, được mọi người chấp nhập và truyền tụng. (trang 13)
Có người hiểu theo nghĩa thứ 2 (Tầm thường thấp kém, tục tằn (t.13) mà cho rằng Tục ngữ là câu nói thô tục, quê mùa không văn vẻ (Bất thành văn) thuộc đám bình dận. (t. 14)
a1. Thành ngữ:là một phần câu, do một số tiếng góp nên, nhưng lại là phần quan trọng. (t. 18)
Thí dụ: Trong câu tục ngữ Nói phải như gãi chỗ ngứa (Tục Ngữ)
Cũng như trong câu phong giao: Một ngày hai bữa cơm đèn Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng
Thì “Gãi chỗ ngứa” và “Má phấn răng đen” là hai thành ngữ. Nhưng gãi trúng chỗ ngứa lại là một câu tục ngữ vì nó có ngụ ý (nghĩa bóng) và thay cho một câu trọn nghĩa: Làm đúng việc, làm có lợi…
a2. Ngạn Ngữ:Câu nói có từ lâu đời, được lưu truyền trong một nước, một vùng. Có nhiều người dùng “Ngạn ngữ” thay cho “Tục ngữ” (t.22)
a3. Sấm Ngữ:Nghiệm đúng sự việc sẽ xảy ra … như “Mặt rỗ, tổ ghen” “Chớp Đông hay nháy, gà gáy thì mưa” (Sấm Trạng)(t.22)
a4. Mê Ngữ(Câu đố): Mơ hồ, không rõ… Mê ngữ là các câu đố, có ẩn nghĩa như: Đầu bằng con ruồi đuôi bằng cái đĩa (t.23)
a5. Phương ngôn:1. Tiếng nói hoặc một câu văn hay của một vùng nào đó như: “Trai Cầu Vồng yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim” 2. Câu nói hay, chỉ phương hướng cho ta theo là phương pháp cho ta dùng, như: Bầu ơi thương lấy bí cùng , Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. (t.23)
a6. Cách Ngôn:Lề lối, phép tắc (t.24)
a7. Châm Ngôn:Có nghĩa là răn đời, lời nói dùng làm kim chỉ đường cho cuộc sống (t.24)
a8. Ngụ ngôn:Lời nói có ý nghĩa bên trong (t.24)
a9. Túy ngôn:Theo Hán tự Túy là: Của cải, gia sản, tức cái hay cái quý cái đẹp. (t.25)
Phân tách cho kỹ, ta thấy: Phương ngôn, cách ngôn, châm ngôn, túy ngôn… là lọai tục ngữ nói về cách cư xử, còn sấm ngữ, mê ngữ nói về việc làm ăn chơi bời. Tất cả đều gọi chung là Tục Ngữ(t.25)
b. Phong Dao:– Hát ngắn, bài hát câu hát không thành chương khúc, ít giọng điệu, chỉ dùng thanh nhạc, không có nhạc khi phụ họa, dùng hát hát ngâm chơi tùy hứng, không trình diễn với sân trường và bối cạnh
– Lời đồn đại, lời nói vô bằng cớ, không biết xuất xứ (Dao ngôn, Dao tục) Vậy phong dao có nghĩa là những câu , những bài hát ngắn chưa thành chương khúc, ít giọng điệu, dựa theo phong tục tập quán và được truyền tụng lâu đời, không rõ tác giả và xuất xứ, đôi khi có tính cách đồ đại một sự việc gì. (t.26)
b1. Đồng dao:Những câu hát ngắn, không rõ xuất xứ, của trẻ con hát chơi hay đồn đại một sự việc gì như:
“Ông tiển ông tiên Ông có đồn tiền ….” (t.27)
b2.a Lý ca hay Lý ngữ:…là câu hát nơi đồng quê, được hát một cách thản nhiên, một cách nhàn nhã như:
“Trời mưa lâm râm Cây trâm có trái… (t.28)
Vè của ta vừa là Thi vừa là Dao….(t.29)
c. Dân Ca:Hát lên, tiếng hát, bài hát có giọng điệu, tiết tấu, chương khúc (có bài bản) (t.29)
d. Ca Dao:Như trên ta đã thấy, hai chữ “Ca” và “Dao” có hai nghĩa khác nhau cũng như hai chữ “Thi” và “Phú” vậy.
Sách “cổ dao ngạn” (Phong dao, ngạn ngữ) xưa có viết: Ca va Dao khác nhau ở chỗ là Dao có thể dùng làm lời Của Ca.
Sách Mao Truyện (Truyện hay chọn lọc) nói: “Khúc hợp nhạc viết Ca, đồ ca viết Dao” có nghĩa là khúc hát có đệm nhạc là Ca, hát trơn là Dao.
Vậy một bài hát không thể vừa Ca vừ Dao nên cũng không thể có bài hát nào được gọi là bài Ca Dao cả (t.30)
Ca Dao Là Gì? Những Câu Ca Dao Bằng Tiếng Anh
Ca dao là gì?
Ca dao là thơ cơ dân gian của Việt Nam. Những câu ca dao này được truyền miệng từ đời này sang đời khác. Nhờ đó mà người dân ghi nhớ và thường xuyên sử dụng khi giao tiếp, viết văn, thơ.
Ca dao được thể hiện dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định. Nhưng người ta lại rất dễ ghi nhớ ca dao vì chúng được phổ theo thể lục bát. Thể loại này mang tới thanh điệu hay, đồng thời dễ thuộc, dễ lưu truyền.
Ca dao mang rất nhiều nét nghĩa. Thông qua ca dao, người dân Việt Nam phản ánh lịch sử, nếp sống, phong tục, truyền thống, thậm chí là những sự châm biếm sâu cay.
Ca dao chỉ đơn thuần được sáng tạo, truyền miệng bởi nhân dân. Do đó, không ai biết được nguồn gốc, tác giả ca dao là ai.
Những câu ca dao mang rất nhiều ý nghĩa đối với truyền thống, văn hoá Việt Nam.
Bao gồm nét nghĩa đen và nghĩa bóng
Ca dao là những câu nói của nhân dân đúc kết từ những kinh nghiệm, có vần điệu. Người dân thường mượn hình ảnh nào đó trong dân gian, để chỉ lớp nghĩa sâu sắc hơn. Chính vì thế, ca dao luôn bao gồm cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Thể hiện những truyền thống văn hoá
Ca dao là sản phẩm của nhân dân, lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra, thông qua đó, chúng ta còn biết thêm về vần điệu, thể thơ của tiếng Việt.
Những cách chơi từ hay mượn hình ảnh thông minh cũng góp phần thể hiện điều này rõ nét nhất.
Lưu truyền lại kinh nghiệm dân gian
Người dân Việt Nam từ xa xưa đã có hiểu biết về những hiện tượng tự nhiên. Họ lưu giữ và truyền lại cho nhau từ đời này sang đời khác. Cho nên, có thể nói, ca dao là hình thức lưu truyền lại kinh nghiệm vô cùng hiệu quả.
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau – Courtesy costs nothing
Hoạn nạn mới biết bạn hiền – A friend in need is a friend indeed
Anh em xa không bằng láng giềng gần – A stranger nearby is better than a far-away relative
Bắt cá hai tay, tuột ngay cả cặp – If you run after two hares you will catch neither
Cười người hôm trước hôm sau người cười – He who laughs today may weep tomorrow
Giàu đổi bạn, sang đổi vợ – Honour charges manners
Chương V: Định Luật Bernoulli, Ứng Dụng Định Luật Bernoulli
Chương V: Định luật Bernoulli, ứng dụng Định luật Bernoulli
1/ Chuyển động của chất lỏng lí tưởng, đường dòng, ống dòng Chuyển động của chất lỏng được chia làm hai loại chính là
chảy thành dòng ổn định
chảy cuộn xoáy không ổn định.
Chất lỏng lí tưởng là chất lỏng không nén được và chảy ổn định thành dòng. Đường dòng là đường chảy ổn định của các phần tử chất lỏng, các đường dòng không cắt nhau. Ống dòng là một phần của chất lỏng chuyển động có mặt biên tạo bởi các đường dòng.
2/ Lưu lượng chất lỏng, mối liên hệ giữa tốc độ chất lỏng và diện tích ống dòng:
Lưu lượng chất lỏng được định nghĩa bằng biểu thức
Trong đó
A: lưu lượng của chất lỏng (m3/s)
v: tốc độ dòng chảy của chất lỏng (m/s)
S: diện tích của ống dòng (m2)
Liên hệ giữa tốc độ và diện tích của ống dòng
Trong cùng một khoảng thời gian Δt ta có
Các phần tử chất lỏng đi ra khỏi diện tích S1 của ống dòng có tốc độ là v1
Các phần tử chất lỏng đi vào diện tích S2 của ống dòng có tốc độ là v2
Do chất lỏng không nén được nên thể tích chất lỏng dịch chuyển trong khoảng thời gian Δt là không đổi ta có
Tử biểu thức trên ta rút ra được kết luận
3/ Định luật Bernoulli
Vận dụng định luật bảo toàn năng lượng chứng minh Định luật Bernoulli:
Định luật Bernoulli tổng quát: Trong một dòng chảy ổn định tổng mọi dạng năng lượng trong chất lưu dọc theo đường dòng là như nhau tại mọi điểm trên đường dòng đó.
Lưu ý: chất khí cũng có thể chảy được thành dòng nên trong một số trường hợp có thể sử dụng Định luật Định luật Bernoulli cho chất khí giống như chất lỏng.
4/ Ứng dụng của Định luật Bernoulli:
Đặt ống hình trụ hở hai đầu (ống A) sao cho miệng ống song song với dòng chảy. Khi đó áp suất tĩnh trong lòng chất lỏng p = ρgh1 Đặt ống hình trụ hở hai đầu, một đầu được uốn vuông góc (ống B) đặt miệng ống B vuông góc với dòng chảy khi đó áp suất toàn phần trong ống ptp = ρgh2
Sử dụng ống Venturi (có cấu tạo như hình vẽ) để xác định vận tốc của chất lỏng Khi đó vận tốc của chất lỏng tại tiết diện S được xác định bằng biểu thức sau v1=2S2Δpρ(S12−S22)
Ống pitot dùng để đo vận tốc chuyển động của máy bay. Vận tốc được xác định bằng biểu thức
Cấu tạo ống pitot dùng để xác định vận tốc của máy bay
Các ống pitot trên máy bay dùng để xác định vận tốc của máy bay
Thí nghiệm vật lý vui vận dụng Định luật Bernoulli. Sử dụng một máy thổi không khí chuyển động thành dòng bao quanh quả bóng. Do áp suất động bao quanh quả bóng tăng lên làm áp suất tĩnh giảm xuống. Sự trênh lệch áp suất tĩnh của dòng không khí bao quanh của bóng và áp suất tĩnh phía bên ngoài tạo ra lực đẩy giúp quả bóng chuyển động lơ lửng ở không trung mà không rơi xuống.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Định Luật Dao Cạo Occam trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!