Đề Xuất 4/2023 # Định Luật Kepler Về Chuyển Động Của Hành Tinh # Top 11 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 4/2023 # Định Luật Kepler Về Chuyển Động Của Hành Tinh # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Định Luật Kepler Về Chuyển Động Của Hành Tinh mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Định luật thứ ba có thể được sử dụng để xác định khoảng cách của một hành tinh từ Mặt trời nếu người ta biết chu kỳ quỹ đạo của nó, hoặc ngược lại. Đặc biệt, nếu thời gian được đo bằng năm và khoảng cách theo đơn vị của trục bán nguyệt của quỹ đạo Trái đất (tức là khoảng cách trung bình của Trái đất đến Mặt trời, được gọi là đơn vị thiên văn , hoặc AU), định luật thứ ba có thể được viết 2 = a 3 , trong đó τ là chu kỳ quỹ đạo.

Định luật thứ hai của Kepler cũng được minh họa trong Hình 1 . Nếu thời gian cần thiết để hành tinh di chuyển từ P đến F bằng với thời gian di chuyển từ D đến E , thì diện tích của hai vùng được tô bóng sẽ bằng nhau theo định luật thứ hai. Hiệu lực của định luật thứ hai có nghĩa là một hành tinh phải có vận tốc trung bình cao hơn gần điểm cận nhật và vận tốc thấp hơn vận tốc trung bình gần điểm cận nhật. Các vận tốc góc (tốc độ thay đổi của góc f ) phải thay đổi xung quanh quỹ đạo trong một cách tương tự. Vận tốc góc trung bình, được gọi là chuyển động trung bình, là tốc độ thay đổi của sự bất thường có nghĩa là l định nghĩa ở trên.

An ellipse ( Hình 1 ) là một đường cong mặt phẳng được xác định sao cho tổng khoảng cách từ điểm G bất kỳ trên ellipse đến hai điểm cố định ( S và S ′ trong Hình 1 ) là không đổi. Hai điểm S và S ′ được gọi là foci , và đường thẳng mà các điểm này nằm giữa các điểm cực trị của elip tại A và P được gọi là trục chính của elip. Do đó, G S + G S ′ = A P = 2 a trong Hình 1 , trong đó a là trục bán nguyệt của hình elip. Tiêu điểm được ngăn cách với tâm C của hình elip bởi phần nhỏ của trục bán kính cho bởi tích a e , trong đó e <1 được gọi là độ lệch tâm . Như vậy, e = 0 tương ứng với một đường tròn. Nếu Mặt trời ở tiêu điểm S của hình elip, thì điểm P mà hành tinh gần Mặt trời nhất được gọi là điểm cận nhật và điểm xa nhất trong quỹ đạo A là sự mơ hồ . Thời hạn helion đề cập cụ thể đến Mặt trời như là thiên thể chính mà hành tinh quay quanh. Vì các điểm P và A còn được gọi là apses, periapse và apoapse thường được sử dụng để chỉ định các điểm tương ứng trong quỹ đạo về bất kỳ thiên thể chính nào, mặc dù các thuật ngữ cụ thể hơn, chẳng hạn như perigee và apogee cho Trái đất , thường được sử dụng để chỉ các thân hình. Nếu G là vị trí tức thời của một hành tinh trên quỹ đạo của nó, thì góc f , được gọi là điểm dị thường thực sự , xác định vị trí điểm này so với điểm cận nhật P với Mặt trời (hoặc tiêu điểm S ) là điểm gốc hoặc đỉnh của góc. Góc u , được gọi là lập dị bất thường , cũng nằm G tương ứng với P nhưng với trung tâm của elip là nguồn gốc chứ không phải là trọng tâm S . Một góc được gọi là độ bất thường trung bình l (không được chỉ ra trong Hình 1) cũng được đo từ P với S là gốc; nó được xác định là tăng đồng đều theo thời gian và bằng với dị thường thực sự f ở điểm cận nhật và điểm cận nhật.

Những quan sát của Tycho đã được kế thừa bởi Johannes Kepler (1571–1630), người được Tycho làm việc không lâu trước khi ông qua đời. Từ những vị trí chính xác này của các hành tinh vào những thời điểm chính xác tương ứng, Kepler đã xác định bằng thực nghiệm ba định luật nổi tiếng của mình mô tả chuyển động của hành tinh: (1) quỹ đạo của các hành tinh là hình elip với Mặt trời tại một tiêu điểm; (2) đường hướng tâm từ Mặt trời đến hành tinh quét ra các diện tích bằng nhau trong thời gian bằng nhau; và (3) tỷ lệ bình phương của các chu kỳ quay quanh Mặt trời của hai hành tinh bất kỳ bằng tỷ lệ của các hình lập phương của các trục semimajor của các elip quỹ đạo tương ứng của chúng.

Các định luật thực nghiệm của Kepler mô tả chuyển động của hành tinh, nhưng Kepler không cố gắng xác định hoặc hạn chế các quá trình vật lý cơ bản chi phối chuyển động. Nó đãIsaac Newton , người đã hoàn thành kỳ tích đó vào cuối thế kỷ 17. Newton định nghĩađộng lượng tỷ lệ thuận với vận tốc với hằng số tỷ lệ thuận được định nghĩa là khối lượng. (Như đã mô tả trước đó, động lượng là một đại lượng vectơ theo nghĩa là hướng chuyển động cũng như độ lớn được bao gồm trong định nghĩa.) Sau đó Newton định nghĩaLực (cũng là một đại lượng vectơ) về tác dụng của nó đối với các vật chuyển động và trong quá trình này, nó đã hình thành ba định luật chuyển động: (1)động lượng của một vật là không đổi trừ khi bên ngoàilực tác dụng lên vật; điều này có nghĩa là bất kỳ vật thể nào vẫn đứng yên hoặc tiếp tục chuyển động thẳng đều trên một đường thẳng trừ khi bị tác động bởi một lực. (2) Tốc độ biến thiên theo thời gian của động lượng của vật bằng hợp lực tác dụng lên vật. (3) Đối với mọitác dụng (lực) có phản lực (lực) bằng nhau và ngược chiều. Luật thứ nhất được coi là một trường hợp đặc biệt của luật thứ hai.Galileo , người cùng thời với Kepler người Ý, người đã áp dụng quan điểm Copernicus và thúc đẩy nó một cách mạnh mẽ, đã dự đoán hai định luật đầu tiên của Newton với các thí nghiệm của ông trong cơ học . Nhưng chính Newton là người đã định nghĩa chúng một cách chính xác, thiết lập cơ sở của cơ học cổ điển, và tạo tiền đề cho ứng dụng của nó như cơ học thiên thể đối với chuyển động của các thiên thể trong không gian .

Theo định luật thứ hai, một lực phải tác động lên một hành tinh để làm cho đường đi của nó cong về phía Mặt trời. Newton và những người khác lưu ý rằng gia tốc của một vật thể trong chuyển động tròn đều phải hướng về tâm của vòng tròn; hơn nữa, nếu một số vật thể chuyển động tròn xung quanh cùng một tâm ở các khoảng cách khác nhau r và chu kỳ quay của chúng thay đổi là r 3/2 , như định luật thứ ba của Kepler đã chỉ ra cho các hành tinh, thì gia tốc — và do đó, theo định luật thứ hai của Newton, lực cũng vậy — phải thay đổi 1 / r 2. Bằng cách giả định lực hấp dẫn này giữa các khối lượng điểm, Newton đã chỉ ra rằng một khối cầu phân bố đối xứng đã thu hút một vật thể thứ hai bên ngoài quả cầu như thể tất cả khối lượng phân bố đều nằm trong một điểm ở tâm quả cầu. Do đó, lực hút của các hành tinh bởi Mặt trời giống nhưhấp dẫn lựchút các vật vào Trái đất. Newton tiếp tục kết luận rằng lực hút giữa hai vật thể khối lượng lớn tỷ lệ thuận với bình phương nghịch đảo của sự phân tách của chúng và với tích của khối lượng của chúng, được gọi làluật vạn vật hấp dẫn . Định luật Kepler có thể suy ra từ định luật Newton chuyển động với lực hấp dẫn trung tâm thay đổi 1 / r 2 từ một điểm cố định, và định luật hấp dẫn Newton có thể suy ra từ định luật Kepler nếu người ta giả sử định luật chuyển động của Newton.

Trong suốt lịch sử, chuyển động của các hành tinh trong hệ mặt trời đã đóng vai trò như một phòng thí nghiệm để hạn chế và hướng dẫn sự phát triển của cơ học thiên thể nói riêng và cơ học cổ điển nói chung. Trong thời hiện đại, những quan sát ngày càng chính xác về các thiên thể đã được so sánh với những dự đoán ngày càng chính xác về các vị trí trong tương lai – một sự kết hợp đã trở thành phép thử cho chính định luật hấp dẫn của Newton . Mặc dù chuyển động của mặt trăng (trong phạm vi sai số quan sát) có vẻ phù hợp với lực hấp dẫn giữa các khối điểm giảm đi chính xác là 1 / r 2 , định luật hấp dẫn này cuối cùng đã được chứng minh là một sự gần đúng của mô tả đầy đủ hơn về lực hấp dẫn được đưa ra bởi lý thuyếtthuyết tương đối rộng . Tương tự, sự chênh lệch khoảng 40 giây cung mỗi thế kỷ giữa tốc độ tiến lên của điểm cận nhật quan sát được của sao Thủy và tốc độ được dự đoán bởi nhiễu động của hành tinh với lực hấp dẫn Newton gần như được tính chính xác với thuyết tương đối rộng của Einstein. Sự khác biệt nhỏ này có thể được khẳng định một cách tự tin là có thật là một thành công của cơ học thiên thể định lượng.

Các Định Luật Của Newton Về Chuyển Động

Bài này nói về các định luật Newton trong cơ học. Xem các định luật khác mà Newton đã phát biểu cho các lĩnh vực khác tại định luật Newton (định hướng)

Các định luật của Newton về chuyển động (gọi tắt là các định luật Newton) là tập hợp ba định luật cơ học phát biểu bởi nhà bác học người Anh Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi là cơ học Newton). Các định luật Newton được công bố lần đầu tiên năm 1687 trong cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathematica ( Các nguyên lý toán học trong triết học tự nhiên, vật lý từng được xem là môn triết học về tự nhiên). Ba định luật cơ bản này cùng với một định luật nổi tiếng khác của Newton, định luật vạn vật hấp dẫn, lần đầu tiên giải thích khá thuyết phục các quan sát của Kepler về chuyển động của các hành tinh.

Ba định luật của Newton về chuyển động được phát biểu (lần đầu tiên) như sau:

Định luật 1 Newton: Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc chịu tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.

Định luật 2 Newton: Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật.

Định luật 3 Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị, cùng độ lớn, nhưng ngược chiều.

Trải qua mấy thế kỷ, mặc dù ba định luật của Newton được phát biểu theo nhiều hình thức khác nhau nhưng bản chất không có gì thay đổi.

Định luật 1 Newton bắt nguồn từ một phát biểu trước đó của Galileo Galilei và còn được gọi là định luật quán tính.

Định luật quán tính nêu lên một đặc tính quan trọng của một vật chuyển động, đó là khuynh hướng giữ nguyên trạng thái chuyển động ( quán tính). Trạng thái chuyển động ở đây được đặc trưng bởi vận tốc (hay tổng quát là động lượng) của chuyển động. Nếu không chịu tác dụng bởi một tổng hợp lực có giá trị khác không thì một vật đang đứng yên sẽ đứng yên mãi mãi, và một vật đang chuyển động sẽ chuyển động thẳng đều mãi mãi.

Định luật 1 chỉ ra rằng lực không phải là nguyên nhân cơ bản gây ra chuyển động của các vật, mà đúng hơn là nguyên nhân gây ra sự thay đổi trạng thái chuyển động (thay đổi vận tốc/động lượng của vật).

Nếu không xét tới các lực quán tính, định luật 1 của Newton chỉ nghiệm đúng trong các hệ quy chiếu quán tính, tức là hệ quy chiếu có vận tốc không đổi. Nếu áp dụng định luật này đối với các hệ quy chiếu phi quán tính, chúng ta phải thêm vào lực quán tính. Khi đó, tổng lực bằng lực cơ bản cộng lực quán tính.

Trong thực tế, không có hệ quy chiếu nào là hệ quy chiếu quán tính hoàn toàn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cụ thể, một hệ quy chiếu có thể coi gần đúng là hệ quy chiếu quán tính. Ví dụ, khi xét chuyển động của các vật trên bề mặt Trái đất, người ta thường xem hệ quy chiếu gắn với mặt đất như một hệ quy chiếu quán tính.

Định luật 2 Newton được viết dưới dạng toán học như sau:

Với:

Phương trình toán học trên đưa ra một định nghĩa cụ thể và chính xác cho khái niệm . Lực, trong vật lý, được định nghĩa là sự thay đổi của động lượng trong một đơn vị thời gian. Như vậy, tổng ngoại lực tác dụng lên một vật tại một thời điểm nhất định ( lực tức thời) được biểu thị bởi tốc độ thay đổi động lượng của vật tại thời điểm đó. Động lượng của vật biến đổi càng nhanh khi ngoại lực tác dụng lên vật càng lớn và ngược lại.

Ngoài việc đưa ra định nghĩa cho lực, định luật 2 Newton còn là nền tảng của định luật bảo toàn động lượng và định luật bảo toàn cơ năng. Hai định luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc đơn giản hóa nghiên cứu về chuyển động và tương tác giữa các vật.

Định luật 2 Newton trong cơ học cổ điển

Trong cơ học cổ điển, khối lượng có giá trị không đổi, bất kể chuyển động của vật. Do đó, phương trình định luật 2 Newton trở thành:

Với:

Như vậy trong cơ học cổ điển, tổng ngoại lực bằng tích của khối lượng và gia tốc.

Cũng trong cơ học cổ điển, nếu không xét tới lực quán tính, định luật 2, giống như định luật 1, chỉ đúng trong hệ quy chiếu quán tính. Khi áp dụng cho hệ quy chiếu không quán tính, phải có lực quán tính.

Định luật 2 Newton trong thuyết tương đối hẹp

Trong thuyết tương đối hẹp, định luật 2 Newton được mở rộng để áp dụng cho liên hệ giữa lực và động lượng hay gia tốc-4:

Định luật 3 Newton chỉ ra rằng lực không xuất hiện riêng lẻ mà xuất hiện theo từng cặp động lực-phản lực. Nói cách khác, lực chỉ xuất hiện khi có sự tương tác qua lại giữa hai hay nhiều vật với nhau. Cặp lực này, định luật 3 nói rõ thêm, là cặp lực trực đối. Chúng có cùng độ lớn nhưng ngược chiều nhau.

Liên kết ngoài

Thể loại:Cơ họcThể loại:Định luật vật lýThể loại:Isaac Newton

Những Quy Định Của Pháp Luật Hiện Hành Về Đạo Dức Hành Nghề

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠO ĐỨC HÀNH NGHỀ

Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy đối với cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là những người hành nghề chuyên nghiệp thì vấn đề “đạo đức công vụ”, “đạo đức nghề nghiệp”, “đạo đức hành nghề” luôn luôn được đề cao, coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong hoạt động công vụ, nghề nghiệp. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì trong một số luật chuyên ngành đã có các quy định về vấn đề này. Đối với nhiều lĩnh vực, ngành nghề cụ thể thì có các luật, thông tư, quy chế và văn bản khác quy định về đạo đức hành nghề, đạo đức nghề nghiệp, về ứng xử, giao tiếp trong hành nghề, về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Các văn bản này do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc các hội nghề nghiệp tự ban hành hoặc hội nghề nghiệp phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Cụ thể là:

Về đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức.

Luật cán bộ, công chức năm 2008 đã có một số điều quy định về đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức như sau:

Luật đã quy định về đạo đức của cán bộ, công chức là “phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ” (Điều 15).

Luật quy định về văn hóa giao tiếp ở công sở của cán bộ, công chức là: “phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc; phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ….” (Điều 16).

Luật quy định về văn hóa giao tiếp với nhân dân của cán bộ, công chức là: “phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc; không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ” (Điều 17).

Đạo đức nghề nghiệp là các chuẩn mực về nhận thức và hành vi phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định.

Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của viên chức trong thi hành nhiệm vụ và trong quan hệ xã hội do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phù hợp với đặc thù công việc trong từng lĩnh vực hoạt động và được công khai để nhân dân giám sát việc chấp hành.

Luật quy định các nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức là: “Tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật trong quá trình thực hiện hoạt động nghề nghiệp; tận tụy phục vụ nhân dân; tuân thủ quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử; chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và của nhân dân” (Điều 5).

Luật Viên chức còn quy định rõ: “Nhà nước có chính sách xây dựng, phát triển đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công; phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng để nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân” (Khoản 4 Điều 10).

Luật Viên chức quy định viên chức có các quyền như “được pháp luật bảo vệ trong hoạt động nghề nghiệp; được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, v v…(Điều 11).

Luật Viên chức quy định viên chức có các nghĩa vụ như: ” Thường xuyên học tập nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ; có thái độ lịch sự, tôn trọng nhân dân; có tinh thần hợp tác, tác phong khiêm tốn; không hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà đối với nhân dân; chấp hành các quy định về đạo đức nghề nghiệp, v v…” (Điều 12).

Luật Viên chức còn quy định viên chức phải “có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, thực hiện quy tắc ứng xử của viên chức” (Khoản 4 và khoản 5, Điều16).

Một trong những quy định quan trọng góp phần thực hiện tốt đạo đức nghề nghiệp đó là những việc viên chức không được làm, như không được “trốn tránh trách nhiệm, thoái thác công việc hoặc nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc; tham gia đình công; gây phương hại đối với thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và xã hội v v… (Điều 19).

Về đạo đức nghề nghiệp đối với công chứng viên.

Luật công chứng năm 2014 đã có một số quy định về đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên như sau:

Luật công chứng quy định các nguyên tắc hành nghề công chứng, như phải “tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; khách quan, trung thực; tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng…”(Điều 4).

Luật công chứng quy định các nghĩa vụ của công chứng viên, như phải “tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng; tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng; chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình;…”(Điều 17).

Luật công chứng quy định “Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên là tổ chức tự quản được thành lập ở cấp trung ương và cấp tỉnh để đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công chứng viên; ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; giám sát việc tuân thủ quy định của pháp luật về công chứng, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng;…” (Điều 39).

Ngày 30/10/2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2012/TT-BTP quy định về Quy tắc đạo đức hành nghề của công chứng.

Về đạo đức nghề nghiệp đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.

Luật khám bênh, chữa bệnh năm 2009 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có một số quy định về đạo đức nghề nghiệp đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh như sau:

Luật quy định về nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh như phải “kịp thời và tuân thủ đúng quy định chuyên môn kỹ thuật; bảo đảm đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề, v v…” (Điều 3).

Luật quy định các quyền của người khám bệnh, chữa bệnh như “được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nếu việc khám bệnh, chữa bệnh đó trái với quy định của pháp luật hoặc đạo đức nghề nghiệp, v v ….” (Điều 32).

Luật quy định các nghĩa vụ của người khám bệnh, chữa bệnh như phải “tham gia giám sát về năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề khác, v v…”(Điều 39).

Luật quy định: “Người hành nghề có nghĩa vụ thực hiện đạo đức nghề nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế” (Điều 40).

Về đạo đức nghề nghiệp đối với luật sư.

Luật luật sư quy định Liên đoàn luật sư Việt Nam “Ban hành và giám sát việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam không được trái với Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam”(Điều 65).

Các văn bản pháp luật khác

Ngoài các văn bản nêu trên thì còn có một số cơ quan, tổ chức khác đã ban hành các văn bản quy định về đạo đức nghề nghiệp như sau:

Luật kiểm toán năm 2011 quy định về chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kế toán, kiểm toán viên.

Thông tư 70/2015/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính đã quy định cụ thể về các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của kế toán, kiểm toán viên.

Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về đạo đức nhà giáo.

Thông tư 30/2017/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về Quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên dự bị đại học, trong đó đã quy định tiêu chuẩn chung về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên dự bị đại học.

Thông tư liên tịch 27/2015/TTLT-BYT-BNV của Bộ trưởng Bộ Y tế – Bộ trưởng Bộ Nội vụ về mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp dược, trong đó quy định Tiêu chuẩn chung về đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề dược.

Thông tư số 01/2017/TT-BLĐTBXH ngày 2/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đối với người làm công tác xã hội.

Hội điều dưỡng Việt Nam sau khi xin ý kiến của Tổng hội Y học Việt Nam và Bộ y tế đã ban hành văn bản về Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam.

Hội trang, thiết bị y tế Việt Nam đã ban hành Chuẩn đạo đức hành nghề trong lĩnh vực trang thiết bị y tế sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Y tế.

Trong một số văn bản khác có quy định về đạo đức hành nghề./.

Đặng Đình Luyến-nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa XIII

Quy Định Pháp Luật Về Hoạt Động Thương Mại

Quy định pháp luật về hoạt động thương mại

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

Căn cứ pháp lý: Luật thương mại 2005 

Nghị định 39/2007/NĐ-CP

1. Khái niệm “hoạt động thương mại”:

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 , “hoạt động thương mại” là khái niệm dùng để chỉ chung những hoạt động có thể sinh lợi, tạo ra lợi nhuận, được thể hiện dưới các hình thức như mua bán, trao đổi hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến đầu tư thương mại và các hoạt động khác nhằm tạo ra lợi nhuận. Trong đó:

“Mua bán hàng hoá”, theo khoản 8 Điều 3 Luật thương mại năm 2005,  được hiểu là hoạt động trao đổi các loại hàng hoá, gồm các loại động sản, và những vật gắn liền với đất đai (khoản 2 Điều 3 Luật này); trong đó bên bán sẽ có trách nhiệm giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán theo sự thoả thuận của hai bên; còn bên mua hàng hoá sẽ được nhận và sở hữu hàng hoá đã mua nhưng phải có trách nhiệm thanh toán cho bên bán giá trị hàng hoá đã mua theo sự thoả thuận trước đó của hai bên.

Còn “cung ứng dịch vụ” là hoạt động thương mại mà trong đó, một bên (còn gọi là bên cung ứng) có hoạt động cung cấp các dịch vụ sẽ thực hiện dịch vụ cho một bên khác theo yêu cầu và nhận thanh toán đối với hoạt động này; còn bên sử dụng dịch vụ (hay còn gọi khách hàng – người có nhu cầu sử dụng dịch vụ) sẽ được thực hiện việc trải nghiệm, sử dụng dịch vụ do bên cung ứng dịch vụ cung cấp và sẽ có trách nhiệm thanh toán tiền cho bên cung ứng dịch vụ (Khoản 9 Điều 3 Luật thương mại năm 2005).

Xúc tiến thương mại, hiểu là các hoạt động có tính chất thúc đẩy, tìm kiếm các cơ hội để có thể giao thương, trao đổi, buôn bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, thực hiện các giao dịch thương mại mà hoạt động xúc tiến thương mại thường được thể hiện như các hình thức khuyến mại, quảng cáp, tổ chức triển lãm, hôị chợ…

Có thể thấy, hoạt động thương mại là khái niệm dùng để chỉ các chuỗi hoạt động được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi, cũng tương tự như hoạt động kinh doanh nhưng chỉ tiếp cận chủ yếu ở giai đoạn kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, chứ không đề cập đến công đoạn sản xuất sản phẩm.

2. Đặc điểm của hoạt động thương mại:

Căn cứ theo khái niệm về “hoạt động thương mại” được quy định tại khoản 1 Điêù 3 Luật Thương mại năm 2005, có thể xác định “hoạt động thương mại” có những đặc điểm chính sau đây:

Trong các chủ thể tham gia trong hoạt động thương mại thì có ít nhất một trong các bên được xác định là thương nhân.

Bên còn lại trong hoạt động thương mại có thể được xác định là thương nhân, nhưng cũng có thể được xác định không phải là thương nhân như cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh được điều chỉnh bởi Nghị định 39/2007/NĐ-CP, ví dụ như người buôn bán vặt, buôn bán quà vặt, buôn chuyến…

Mục đích của các bên khi thực hiện hoạt động thương mại đều là nhằm mục đích lợi nhuận. 

Hoạt động thương mại được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau, nhưng được xác định chủ yếu thông qua hai nhóm hoạt động: Mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ.

Chủ thể thực hiện hoạt động thương mại được phép thực hiện kinh doanh tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của pháp luật.

Phạm vi thực hiện hoạt động thương mại không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn được thực hiện ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam, trong phạm vi khu vực và thế giới, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế. Thông qua đó khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. 

Như vậy, hoạt động thương mại là một trong những phạm trù đặc thù của quan hệ kinh doanh thương mại, là cơ sở để phát triển nền kinh tế nội tại cũ của quốc gia cũng như sự giao thương, củng cố vị thế quốc gia trên thương trường quốc tế. Đồng thời, qua việc thực hiện các hoạt động thương mại còn cho thấy vai trò của thương nhân, nhà đầu tư, cũng như các cá nhân, tổ chức khác có trong việc đóng góp xây dựng và phát triển nền kinh tế.

NẾU BẠN CHƯA RÕ HOẶC CÒN VƯỚNG MẮC BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, HÃY LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI QUA SỐ ĐIỆN THOẠI 0931 060 668 – 0963 766 477 ĐỂ ĐƯỢC HỖ TRỢ

Bạn đang đọc nội dung bài viết Định Luật Kepler Về Chuyển Động Của Hành Tinh trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!