Cập nhật nội dung chi tiết về Dna: Mật Mã Nhỏ Xíu Đang Lật Đổ Thuyết Tiến Hóa mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Những khám phá về DNA chính là cái gót chân Achilles của thuyết tiến hóa, theo Tiến sĩ Stephen Meyer. Ông nhận xét: “Các nhà tiến hóa vẫn cố áp dụng tư duy của Darwin trong thế kỷ 19 vào hiện thực của thế kỷ 21, nhưng tư duy ấy không còn thích ứng được nữa… Tôi nghĩ cuộc cách mạng thông tin xảy ra trong sinh học đang gióng lên hồi chuông báo tử đối với học thuyết Darwin và các lý thuyết tiến hóa hóa học”.
DNA: Mật mã nhỏ xíu đang lật đổ thuyết tiến hóa
Những khám phá về DNA chính là cái gót chân Achilles của thuyết tiến hóa, theo Tiến sĩ Stephen Meyer. Ông nhận xét: “Các nhà tiến hóa vẫn cố áp dụng tư duy của Darwin trong thế kỷ 19 vào hiện thực của thế kỷ 21, nhưng tư duy ấy không còn thích ứng được nữa… Tôi nghĩ cuộc cách mạng thông tin xảy ra trong sinh học đang gióng lên hồi chuông báo tử đối với học thuyết Darwin và các lý thuyết tiến hóa hóa học”.
Đây là bài viết thứ 5 trong chuyên đề Cuộc khủng hoảng mang tên thuyết tiến hóa
Tính phức tạp của thông tin của DNA chứng tỏ tiến hóa là điều bất khả. (Ảnh: Shutterstock) —***—
Năm 1953, James Watson và Francis Crick đạt được một thành tựu phi thường – khám phá ra cấu trúc di truyền nằm sâu bên trong hạt nhân tế bào. Vật liệu di truyền này được gọi là DNA, viết tắt của cụm từ deoxyribonucleic acid (tiếng Pháp là ADN).
Việc khám phá ra cấu trúc xoắn kép của phân tử DNA đã mở cửa cho các nhà khoa học lao vào nghiên cứu mật mã được cài đặt trong đó. Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khám phá đầu tiên, mật mã của DNA đã được giải, mặc dù còn nhiều phần vẫn chưa hiểu rõ.
Những gì đã được khám phá chứa đựng những gợi ý sâu xa đối với thuyết tiến hóa của Darwin – lý thuyết được dạy tại các trường học trên khắp thế giới, trong đó nói rằng mọi thực thể sống đã tiến hóa thông qua biến dị và chọn lọc tự nhiên.
Những phát hiện đáng kinh ngạc về DNA
Khi các nhà khoa học bắt đầu giải mã phân tử DNA của người, họ tìm thấy một sự thật hết sức bất ngờ – một ngôn ngữ tinh tế bao gồm 3 tỷ chữ cái thuộc hệ di truyền. Tiến sĩ Stephen Meyer, giám đốc Trung tâm Khoa học và Văn hóa tại Viện Discovery ở Seattle, Washington, nói: “Một trong những khám phá phi thường nhất của thế kỷ 20 là: DNA quả thật có chứa đựng thông tin – những chỉ dẫn chi tiết để lắp ráp proteins – dưới dạng một mã số bốn chữ cái” [1].
Khó mà đo lường chính xác số lượng thông tin trong DNA của người, nhưng ước lượng nó tương đương với 12 bộ bách khoa toàn thư Britannica, gồm 384 cuốn sách dầy cộp lấp đầy 15m giá sách trong thư viện!
Nhưng kích thước thực tế của vật chất chứa đựng chúng lại nhỏ xíu – tất cả chỉ chứa trong 2 phần triệu milimét chiều dày – và theo nhà sinh học phân tử Michael Denton, một thìa café DNA có thể chứa toàn bộ thông tin cần thiết để tạo ra proteins của tất cả các loài sinh vật có mặt trên trái đất từ trước tới nay, và vẫn còn đủ chỗ để chứa toàn bộ thông tin trong mọi cuốn sách đã được viết.
Vậy ai hoặc cái gì có thể làm cái công việc vĩ đại là thu nhỏ kích thước của vật chất chứa đựng khối lượng thông tin khổng lồ như thế, rồi đặt số lượng khổng lồ các “chữ cái” đó vào trong một chuỗi thích hợp của chúng như một cẩm nang chỉ dẫn di truyền? Liệu sự tiến hóa liên tục dần dần từng tí một như Darwin nói có thể tạo ra một hệ thống kỳ diệu như thế không?
DNA chứa đựng ngôn ngữ di truyền
Trước hết hãy xem xét một số đặc điểm của “ngôn ngữ” di truyền. Để một hệ thống tín hiệu được gọi là một ngôn ngữ, nó phải thỏa mãn các điều kiện sau đây: có một hệ chữ cái hoặc mã + có một cách đánh vần chính xác + có một ngữ pháp (một cách sắp xếp thích hợp của từ ngữ) + có ý nghĩa (ngữ nghĩa) + và có mục đích, có dụng ý.
Các nhà khoa học đã khám phá ra rằng mã di truyền có tất cả các điều kiện trên. Tiến sĩ Stephen Meyer giải thích: “Khu vực mã hóa của DNA có những tính chất thích đáng giống y như mã hoặc ngôn ngữ computer”.
Ngoài mã của DNA, chỉ có duy nhất một loại mã khác được coi là ngôn ngữ thực sự, đó là ngôn ngữ của con người. Mặc dù loài chó biết sủa khi chúng nhận thấy nguy hiểm, loài ong vo ve để báo cho nhau biết một nguồn thức ăn, loài cá voi phát ra âm thanh… đó là vài thí dụ về sự thông tin liên lạc của các loài khác, nhưng không có loài nào có đủ các điều kiện của một ngôn ngữ thực sự. Những thông tin ấy chỉ được xem như những tín hiệu liên lạc bậc thấp.
Những dạng thông tin liên lạc bậc cao chỉ bao gồm ngôn ngữ của con người + ngôn ngữ nhân tạo (ngôn ngữ computer, tín hiệu Morse…) + và mã di truyền. Ngoài ra không tìm thấy một hệ thông tin liên lạc nào khác thỏa mãn những đặc trưng cơ bản của một ngôn ngữ đích thực.
“DNA giống như một chương trình phần mềm, chỉ khác là nó vô cùng phức tạp hơn rất nhiều so với bất kỳ phần mềm nào do con người tạo ra từ trước tới nay” – Bill Gates, nhà sáng lập Microsoft
Vậy, bất kể thời gian kéo dài chừng nào, bất kể bao nhiêu biến dị và chọn lọc tự nhiên diễn ra đi nữa, một thứ phức tạp như DNA có thể nào được chế tạo ra một cách ngẫu nhiên thông qua tiến hóa không?
Ngôn ngữ của DNA không phải là phân tử DNA
Những nghiên cứu hiện nay trong lý thuyết thông tin đã đi đến một số kết luận làm ngỡ ngàng, rằng thông tin không thể xem như một dạng vật chất hoặc năng lượng. Vật chất và năng lượng chuyển tải thông tin, nhưng chúng không phải là bản thân thông tin.
Chẳng hạn cuốn sách Iliad của Homer chứa đựng thông tin, nhưng phải chăng nó chính là thông tin mà nó chứa đựng? Không, vật chất làm nên quyển sách (giấy + mực + keo dính) chứa đựng nội dung của quyển sách, nhưng chúng chỉ là những phương tiện chuyển tải nội dung đó.
Nguyên lý tương tự cũng tìm thấy trong mã di truyền. Phân tử DNA chuyên chở ngôn ngữ di truyền, nhưng bản thân ngôn ngữ ấy độc lập với vật chất chuyên chở nó. Thông tin di truyền ấy có thể được viết trong một cuốn sách, hoặc chứa trong một đĩa compact hoặc được gửi qua internet, nhưng nội dung của bản thông điệp không thay đổi bởi phương tiện chuyển tải nó.
Nhà sinh học George Williams giải thích: “Gene là một gói thông tin, thay vì một vật thể. Một mô hình của những cặp ba-zơ trong một phân tử DNA chỉ rõ một gene. Còn phân tử DNA chỉ là môi trường chuyên chở chứ không phải là bản thông điệp mà nó chuyên chở”.
Thông tin phải được tạo ra bởi một nguồn trí tuệ thông minh
Hơn nữa, dạng thông tin bậc cao trong DNA chỉ có thể bắt nguồn từ một nguồn trí tuệ thông minh.
Như nhà nghiên cứu biện giải Lee Strobel giải thích: “Dữ liệu tại phần cốt lõi của sự sống không hỗn độn, mà được sắp xếp trật tự ngăn nắp như những tinh thể muối, nhưng mức độ phức tạp của nó và thông tin nó chứa đựng cho phép nó có thể hoàn tất một nhiệm vụ phi thường – xây dựng những cỗ máy sinh học vượt xa khả năng công nghệ của con người”.
Qua đó có thể thấy mã DNA được thiết kế bởi một nhà thiết kế siêu thông minh, rất hiếm có biến dị, và nếu biến dị thì tế bào chế tạo ra sẽ hỏng, bệnh hoạn, chứ không phải là một tế bào mới cao cấp hơn. Nói cách khác, không có sự tiến hóa thông qua biến dị và chọn lọc tự nhiên. Thuyết tiến hóa là sai lầm, vì nó không biết gì về DNA.
Ngôn ngữ di truyền này có độ chính xác rất cao – lỗi trung bình chỉ ở mức 1 phần 10 tỷ chữ cái. Nếu một lỗi xảy ra trong một trong những phần quan trọng nhất của mã nằm trong các gene, thì nó sẽ gây ra một căn bệnh chẳng hạn như bệnh anemia (một bệnh giảm hemoglobin trong hồng cầu)… Trong khi đó, những thợ đánh máy thông minh và giỏi nhất thế giới cũng không thể đạt được trình độ chỉ mắc một lỗi trong 10 tỷ chữ cái – còn xa con người mới đạt tới độ chính xác như thế.
Vì thế niềm tin cho rằng mã di truyền có thể tiến hóa dần dần từng tí một theo kiểu của Darwin là không phù hợp với các quy luật tự nhiên đã biết về vật chất và năng lượng. Thật vậy, khoa học không hề tìm thấy bất kỳ một thí dụ nào về một hệ thông tin bên trong tế bào tiến hóa dần dần từng tí một để trở thành một hệ thông tin khác.
Michael Behe, một nhà sinh hóa tại Đại học Lehigh ở Pennsylvania, giải thích rằng thông tin di truyền đóng vai trò chủ yếu là một cẩm nang hướng dẫn. Ông viết:
“Hãy xem xét một bản liệt kê từng bước hướng dẫn di truyền. Một biến dị là một thay đổi trong một dòng lệnh trong số các dòng lệnh. Chẳng hạn, thay vì nói “lấy một quả hạch 1/4 inch”, một biến dị có thể nói nhầm là “lấy một quả hạch 3/8 inch”. Hoặc thay vì nói “đặt một cái chốt tròn vào cái hốc tròn”, một biến dị có thể nói nhầm là “đặt một cái chốt tròn vào cái hốc vuông”,… Cái mà một biến dị không thể làm là thay đổi toàn bộ các lệnh trong một bước, tức là không thể cung cấp các lệnh để tạo ra một chiếc máy fax thay vì cái radio” (trích Darwin’s Black Box, 1996, trang 41).
Do đó chúng ta có trong mã di truyền một cẩm nang hướng dẫn vô cùng phức tạp đã được thiết kế một cách tinh vi bởi một nguồn trí tuệ thông minh cao hơn con người rất nhiều.
Ngay cả một trong những người khám phá ra mã di truyền vừa mới qua đời là Francis Crick, sau nhiều thập kỷ làm việc giải mã, đã thừa nhận rằng:
Thuyết tiến hóa thất bại không trả lời được
Bất chấp những nỗ lực của tất cả các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới trong nhiều thập kỷ qua, khoa học vẫn không sao chế tạo ra được một sợi tóc của con người. Và sẽ còn khó khăn đến thế nào nếu muốn chế tạo ra toàn bộ một con người gồm khoảng 100 ngàn tỷ tế bào.
Đến nay, các nhà tiến hóa theo Darwin cố gắng chống lại những người phê phán họ bằng những nỗ lực giải thích tính phức tạp của sự sống. Nhưng hiện nay họ phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan: Làm thế nào mà những thông tin chính xác và giàu ý nghĩa lại có thể được tạo ra bởi biến dị ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên? Cả hai cơ chế này (biến dị ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên) đều không chứa đựng cơ chế thông minh, một đòi hỏi tất yếu phải có để tạo ra thông tin phức tạp như đã tìm thấy trong mã di truyền.
Thuyết tiến hóa của Darwin vẫn được dạy trong hầu hết các trường học như thể đó là chân lý. Nhưng nó ngày càng bị nhiều nhà khoa học nhận ra là một lý thuyết sai lầm. Một nhà khoa học vốn vô thần là Patrick Glynn nói: “25 năm gần đây, một người có lý trí nếu cân nhắc những bằng chứng thuần túy khoa học về vấn đề này, có lẽ sẽ phải giảm sút sự nghi ngờ đối với Đấng Sáng tạo. Tình hình không còn như thế nữa. Những dữ liệu cụ thể hiện nay hướng tới giả thuyết về sự sáng tạo của Chúa một cách rõ ràng. Đó là lời giải đơn giản nhất và rõ ràng nhất…”
Chất lượng của thông tin di truyền là như nhau ở các loài
Thuyết tiến hóa nói rằng thông qua những biến di ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên, sinh vật tiến hóa. Tuy nhiên tiến hóa có nghĩa là biến đổi dần dần từng tí một những đặc tính xác định của sinh vật đến khi nó trở thành một loài khác, nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách biến đổi thông tin di truyền.
Vậy chúng ta thấy điều gì về mã di truyền? Dù là một con vi khuẩn tầm thường hay một cái cây hay một con người, chất lượng cơ bản của thông tin di truyền đều có độ chính xác như nhau. Mã di truyền của vi khuẩn ngắn hơn, nhưng chất lượng thông tin di truyền của nó cũng chính xác và tinh tế như của con người. Thông tin di truyền của vi khuẩn hay tảo hay con người trước hết đều phải đạt được yêu cầu của một ngôn ngữ bậc cao – có hệ chữ cái, ngữ pháp và ngữ nghĩa.
Vậy làm sao mà thông tin di truyền của vi khuẩn có thể tiến hóa dần dần từng tí một để biến thành thông tin của một loài khác, trong khi chỉ cần một hoặc một vài lỗi nhỏ trong hàng triệu chữ cái trong DNA của vi khuẩn là đủ để có thể giết chết nó?
Một lần nữa các nhà tiến hóa lại im lặng. Thậm chí họ không đưa ra được một giả thuyết nào để giải thích điều này. Lee Strobel viết: “DNA dài 1m8 cuộn bên trong một tế bào trong số một trăm ngàn tỷ tế bào của cơ thể chúng ta chứa đựng một bảng chữ cái gồm bốn ký tự hóa học cho phép đọc các chỉ dẫn lắp ráp chính xác đối với toàn bộ các protein tạo ra cơ thể chúng ta… Không hề có một giả thuyết nào được nêu lên để giải thích làm thế nào mà thông tin được cài đặt vào trong vật chất sinh học bằng các phương tiện ‘tự nhiên’”.
Werner Gitt, giáo sư về các hệ thông tin, nói một cách ngắn gọn: “Sai lầm cơ bản của toàn bộ các quan điểm của thuyết tiến hóa là ở vấn đề nguồn gốc của thông tin nằm trong các thực thể sống. Chưa bao giờ chúng ta có thể thấy một hệ mã và thông tin có ý nghĩa có thể bắt nguồn từ chính bản thân nó (thông qua vật chất)… Các định lý của khoa học thông tin tiên đoán rằng điều đó không bao giờ có thể xảy ra. Do đó một lý thuyết thuần túy vật chất về nguồn gốc sự sống sẽ bị bác bỏ”.
Mã số 4 chữ cái của DNA là tối ưu cho lưu trữ và sao chép
Bên cạnh toàn bộ bằng chứng chúng ta đã trưng ra đối với sự thiết kế thông minh của thông tin trong DNA, còn có một sự thật đáng kinh ngạc nữa – số lượng lý tưởng của các chữ cái di truyền trong mã DNA để cất giữ và phiên dịch.
Hơn nữa, cơ chế sao chép của DNA, để đáp ứng hiệu quả tối đa, đòi hỏi số chữ cái trong mỗi từ là một số chẵn. Với tất cả các tổ hợp toán học có thể có, số lượng lý tưởng để cất giữ và sao chép đã được tính toán cho bốn chữ cái.
Đây đúng là cái đã được tìm thấy trong các gene của mọi sinh vật trên trái đất – một mã số bốn chữ cái. Như Werner Gitt phát biểu: “Theo quan điểm công nghệ, hệ mã hóa được sử dụng cho sinh vật là tối ưu. Sự thật này củng cố quan điểm đây là một thiết kế có mục đích rõ ràng, thay vì một sự may rủi ngẫu nhiên”.
Sinh học phân tử ngày càng phủ nhận thuyết vô thần
Trờ lại thời Darwin, khi cuốn “Về nguồn gốc các loài” của ông được công bố năm 1859, cuộc sống xã hội có vẻ đơn giản hơn nhiều. Nhìn qua những kính hiển vi thô sơ thời đó, tế bào có vẻ như chỉ là một giọt dinh dưỡng hay một chất nguyên sinh không có gì phức tạp. Bây giờ, hơn 150 năm sau, sự quan sát đó đã thay đổi tận gốc khi khoa học khám phá ra một vũ trụ thực sự nằm bên trong tế bào.
Giáo sư Behe viết: “Trước đây người ta từng trông mong rằng cơ sở của sự sống là hết sức đơn giản. Nhưng sự trông mong này đã bị đổ vỡ. Sự nhìn, sự chuyển động, và các hoạt động sinh học khác đã chứng minh là chúng không kém tinh vi so với những máy quay truyền hình hoặc máy móc xe cộ. Khoa học đã đạt được những tiến bộ khổng lồ trong sự hiểu biết về hóa học của sự sống hoạt động thế nào, nhưng sự tinh vi và phức tạp của các hệ sinh học ở cấp độ phân tử đã làm tê liệt tham vọng của khoa học muốn giải thích nguồn gốc sự sống”.
Tiến sĩ Meyer coi những khám phá về DNA như cái gót Achilles của thuyết tiến hóa. Ông nhận xét: “Các nhà tiến hóa vẫn cố áp dụng tư duy của Darwin trong thế kỷ 19 vào hiện thực của thế kỷ 21, nhưng tư duy ấy không còn thích ứng được nữa… Tôi nghĩ cuộc cách mạng thông tin xảy ra trong sinh học đang vang lên hồi chuông báo tử đối với học thuyết Darwin và những lý thuyết tiến hóa hóa học”.
Tiến sĩ Meyer kết luận: “Tôi tin rằng lời chứng của khoa học xác nhận tư tưởng hữu thần. Trong khi luôn luôn sẽ có những điểm căng thăng hoặc xung đột chưa ngã ngũ, sự phát triển chủ yếu trong khoa học trong năm thập kỷ qua đã và đang hướng mạnh về phía hữu thần”.
Dean Kenyon, một giáo sư sinh học, phát biểu: “Lĩnh vực mới mẻ này về di truyền phân tử là nơi chúng ta thấy phần lớn bằng chứng ép buộc phải tin rằng có sự thiết kế trên Trái Đất”.
Bài viết thuộc chuyên đề Cuộc khủng hoảng mang tên thuyết tiến hóa
Ghi chú:
[1] Tất cả các ý kiến của các nhà khoa học được trích dẫn trong bài này đều nằm trong các tài liệu tham khảo, đã liệt kê ở cuối bản dịch này. Độc giả nào cần truy tìm nguồn gốc chính xác của các trích dẫn đó, xin tìm trong nguyên bản tiếng Anh theo đường linh đã dẫn ở trên.
[1] The Case for a Creator, Lee Strobel, 2004 [2] Evolution: A Theory in Crisis , Michael Denton, 1996 [3] Defeating Darwinism by Opening Minds, Phillip Johnson, 1997 [4] Darwin’s Black Box, Michael Behe,1996 [5] Life Itself: Its Origin and Nature, Francis Crick, 1981 [6] God: The Evidence: The Reconciliation of Faith and Reason in a Postsecular World, Patrick Glynn, 1999 [7] In the Beginning Was Information, Werner Gitt, 2006 [8] “Leading Atheist Now Believes in God”, Richard Ostling, Associated Press report, 09/12/2004.
Mario Seiglie Phạm Việt Hưng lược dịch
Tiểu Luận Chống Diễn Biến Hòa Bình Và Bạo Loạn Lật Đổ
Tiểu Luận Chống diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]
Trong những thập kỷ tới, những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại những biểu hiện dưới sắc thái mới; cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trên thế giới vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt với nhiều hình thức khác nhau. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên tất cả các lĩnh vực đang mở ra những cơ hội và thách thức mới. Thế giới tiếp tục đối mặt với khủng hoảng kinh tế và các vấn đề thiên tai, dịch bệnh, những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống…
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Đông Bắc Á vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn định do cạnh tranh lợi ích chiến lược giữa các nước lớn. Khu vực Đông Nam Á nổi lên là sự phức tạp trong ứng xử vấn đề Biển Đông, sự tranh chấp ảnh hưởng của các nước lớn ngày càng gia tăng, tạo nguy cơ mất ổn định, thậm chí căng thẳng trong các quan hệ song phương, đa phương.
Trong bối cảnh quốc tế mới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi chiến lược và phương thức chống phá cách mạng nước ta, chúng sử dụng phương thức phi vũ trang, với thực hiện chiến lược hết sức nguy hiểm là “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ. Các thế lực phản động, thù địch tiếp tục sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Do vậy, phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng và được chúng ta nhận thức đầy đủ hơn. Đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, đối ngoại là những nội dung và phương thức cần được đặc biệt chú trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, chúng ta cần đặc biệt coi trọng việc “tự bảo vệ” trong mỗi con người, mỗi tổ chức, trong mỗi ngành, mỗi cấp; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành ngay từ cơ sở. Cần coi trọng sức mạnh truyền thống và hiện đại, sức mạnh tổng hợp trong giữ nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ mô hình đến các quan hệ Đảng – Nhà nước – các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong hệ thông chính trị … nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để bảo vệ Tổ quốc.
I. Nội dung của “diễn biến hòa bình” và “bạo loạn lật đổ”
Diễn biến hoà bình là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mĩ nhằm lật đổ chế độ chính. trị – xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự”.
Như vậy nội dung chính của diễn biến hòa bình là:
+ Sử dụng mọi thủ đoạn phi quân sự, kết hợp với răng đe quân sự để ngầm phá từ bên trông, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền.
+ Kích động các mâu thuẫn tôn giáo, dân tộc, sắc tộc.
+ Triệt để khái thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của Nhà nước hiện hành, tạo nên sức ép ngày càng lớn buộc lãnh đạo nhà nước phải từng bước chuyển hoá, thay đổi đường lối chính trị, nhường quyền lãnh đạo cho lực lượng đối lập.
Tác động của chiến lược diễn biến hòa bình là một trong những nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức của lực lượng phản động, gây rối loạn trật tự an ninh xã hội, nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ (cách mạng) thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương. Bạo loạn lật đỗ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong chiến lược diễn biến hòa bình để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
Một số đặc trưng chủ yếu của bạo loạn lật đổ:
+ Bạo loạn lật đổ là hoạt động bằng bạo lực có tổ chức của chủ nghĩa đế quốc và lực lượng phản động để chống phá các nước tiến bộ trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Mục đích của bạo loạn lật đổ nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương. Diễn biến hòa bình là quá trình tạo nên những điều kiện, thời cơ cho bạo loạn lật độ. Cả diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đỗ đều cùng bản chất phản cách mạng trong âm mưu chống phá các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa.
2. Quá trình hình thành phát triển chiến lược diễn biến hòa bình
Diễn biến hòa bình lúc đầu chủ nghĩa đế quốc sử dụng như là một phương thức, thủ đoạn luôn gắn với chiến lược quân sự, hỗ trợ cho chiến lược quân sự, dần dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh trong chiến lược phản cách mạng toàn cầu của chúng. Quá trình đó được diễn ra sơ lược như sau:
– Những năm của thập kí 40 – 50 (Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc (1945).
Trong hai năm 1949 – 1950, Mĩ đã chi 50 triệu đô la cho hoạt động chiến tranh tâm lí, năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban Châu Âu tự do có đài phát thanh riêng (đài phát thanh “Châu Âu tự do”).
Như vậy đến thập kỹ 50, ý tưởng diễn biến hòa bình đã được bổ sung cho chiến lược tiến công quân sự.
– Những năm 60 Tổng thống John F. Kennedy (J. Kennơđi) đưa ra chiến lược hoà bình, với chính sách “mũi tên và cành ô lưu”. Từ đây diễn biến hòa bình bước đầu trở thành chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi bên cạnh sức mạnh quân sự.
– Những năm 70, Tổng thống Richard Nixon (R. Nich-xơn) triệt để sử dụng chính sách ngoại giao “cây gậy và củ cà rốt”. Với chính sách này, Mĩ vừa đe doạ bằng sức mạnh quân sự, vừa mua chuộc bằng lợi ích kinh tế nhằm khuất phục các nước, nhất là các nước chậm phát triển. Trên thực tế, một mặt tiếp xúc hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa: Tiến hành thẩm thấu tư tưởng và văn hoá, gieo rắc hạt giống phá hoại từ bên trong; thực hiện đối thoại thay cho đối đầu đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Đàm phán trên thế mạnh là một phương sách của R.Nixon để thực hiện diễn biến hòa bình trong giai đoạn này.
– Những năm 80, lúc này các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện cải tổ, cải cách, đổi mới, đây là một chủ trương đúng đắn nhằm làm cho xã hội chủ nghĩa phát triển. Nhưng quá trình thực hiện, có một số sai lầm, kẻ địch lợi dụng và chúng dùng diễn biến hòa bình ráo riết tiến công nhằm làm các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ.
Năm 1988, R. Nixon xuất bản cuốn sách “1999 chiến thắng không cần chiến tranh”. ĐÓ là cơ sở làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược diễn biến hòa bình về lí luận. Năm 1989, Tổng thống George Bush đi thăm một số nước xã hội chủ nghĩa Đông âu: Ba Lan, Hunggari, đã phát hiện ra những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng Cộng sản và những sai lầm của Đảng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. G. Bush đã xúc tiến nhanh chóng học thuyết “Vượt trên ngăn chặn”. Và vào cuối những năm 80 đầu những năm 90, diễn biến hòa bình được chủ nghĩa đế quốc thực hiện ráo riết, nó trở thành một chiến lược tiến công mạnh mẽ vào các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, làm cho các nước này nhanh chóng bị sụp đổ.
Tóm lại diễn biến hòa bình có một quá trình hình thành phát triển khá rõ nét. Quá trình đó theo một trình tự, lúc đầu là một phương thức, một thủ đoạn dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh nằm trong chiến. Lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ. Chiến lược đó luôn gắn với chiến lược quân sự của Mỹ.
a.Về mục tiêu:
3. Những thủ đoạn chủ yếu cuả các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” và “bạo loạn lật đổ” chống phá VN
– Thúc đẩy “Tự do hoá” về chính trị và kinh tế từ đó chuyển hoá VN theo quỹ đạo TBCN
Mềm, ngầm, sâu: : Diễn biến hòa bình là chính kết hợp răn đe quân sự có lựa chọn và khi có thời cơ, xây dựng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong và ngoài nước Việt Nam là chính: (ngụy quân, ngụy quyền cũ không cải tạo, lực lượng phản động trong dân tộc, tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, các phần tử thoái hoá biến chất, bất mãn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân ta); phá hoại càng cao, càng sâu càng tốt, phá có trọng điểm, chui sâu leo cao vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, phá hoại kinh tế là trọng tâm.
– Chống phá về chính trị tư tưởng
– Phá hoại về kinh tế
– Lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá ta
– Lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá ta
– Kích động, phối hợp hành động của lực lượng phản động trong nươc và bọn phản động ngoài nươc để phá ta
– Vô hiệu hoá LLVTND
II. Những giải pháp chủ yếu góp phần làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vừa có những thuận lợi rất cơ bản, lại vừa phải đối diện với những nguy cơ, thách thức to lớn, nhất là khi đất nước tham gia sâu hơn vào hợp tác quốc tế.
Những nhân tố trên tác động thường xuyên, trực tiếp đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi chúng ta phải có phương thức và giải pháp thích hợp và hữu hiệu trong tình hình mới.
Khi đã nhận thức được rõ ràng về diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ thì việc phải làm như thế nào, hoạt động và tổ chức xã hội, chính trị, quân sự, an ninh của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta sẽ trở nên rõ ràng hơn.
Cụ thể như sau :
1. Luôn nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm, nhiệm vụ:
– Giữ vững ổn định chính trị trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
– Ngăn chặn và làm thất bại các thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của các thế lưc thù địch.
– Nếu có bạo loạn phải dập tắt nhanh, không để lan rộng, kéo dài để kẻ thù tạo cớ can thiệp vũ trang.
– Chủ động tiến công địch trên mọi lĩnh vực.
– Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ trên cơ sở đó ngăn chặn, đẩy lùi, đập tan mọi ý đồ. răn đe, can thiệp vũ trang hoặc gây chiến tranh xâm lược.
– Bảo vệ tốt chính trị nội bộ.
– Xác định chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay cả trước mắt và lâu dài..
– Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới và ứng phó với các tình huống.
– Chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, sự quản lí điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước.
– Kết hợp chặt chẽ giữ bên trong và chủ động ngăn ngừa. Giữ bên trong là giữ vững sự ổn định chính trị, mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã chọn, giữ vững khối đoàn kết dân tộc; giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Ngăn ngừa mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù; ngăn ngừa mọi sự yếu kém, sai lầm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp lãnh đạo, điều hành nhà nước.
– Giữ vững bên trong và chủ động ngăn ngừa là hai mặt quan hệ chặt chẽ với nhau, giữ vững bên trong là điều kiện cơ bản để chủ động – ngăn ngừa. Chủ động ngăn ngừa là phản ánh kết quả của giữ vững bên trong và tạo điều kiện để giữ vững bên trong.
– Phát huy sức mạnh tổng hợp, đấu tranh toàn diện gắn với xây dựng thực lực cách mạng, kết hợp xây và chống, lấy xây là cơ sở quyết định để chống.
– Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân của cả hệ thống chính trị. Đấu tranh toàn diện, chính trị, kinh tế, quân sự… kết hợp chặt chẽ các mặt đấu tranh đó, lấy đấu tranh chính trị làm chính. Đấu tranh chính trị chính là cuộc đấu tranh giành giật quần chúng, giành giật niềm tin giữa ta và địch. Phát huy sức mạnh tổng hợp là để đấu tranh toàn diện, đấu tranh toàn diện nhằm khai thác, phát huy được đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng của từng yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
– Chủ động trấn áp, giải quyết hậu quả với các hành vi bạo loạn. Giải quyết gây rối không để phát triển thành bạo loạn. Phương châm này chỉ đạo việc xử lí tình huống có bạo loạn lật đỗ và vận dụng vào xử lí vụ việc gây rối. Cần chú ý:
+ Phải xử lí kiên quyết, chủ động trấn áp đúng lúc, đúng thời cơ, đúng đối tượng, trúng những tên đầu sỏ.
+ Thời gian càng nhanh càng tốt, không gian càng hẹp càng tốt.
2. Tăng cường xây dựng và củng cố trận địa chính trị tư tưởng, văn hoá, giữ vững ổn định chính trị và an ninh xã hội:
Đấu tranh chống địch phá hoại về tư tưởng, văn hoá giữ ổn định chính trị là mặt trận nóng bỏng đặt lên hàng đầu hiện nay, phải được kết hợp chặt chẽ với các lĩnh vực khác. Nội dung của cuộc đấu tranh, cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản:
+ Không ngừng bồi dưỡng trí tuệ, lập trường quan điểm và phẩm chất đạo đức cho mọi người. Giữ vững niềm tin, kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước đến thắng lợi.
+ Nghiên cứu nắm vững, hiểu biết đủ, đúng về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở đó quán triệt sâu sắc và góp phần tổ chức thực hiện tốt đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước trong thực tiễn.
+ Xây dựng lối sống văn hoá, văn minh lành mạnh trật tự kỷ cương phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Bồi dưỡng lối sống mới xã hội chủ nghĩa, kết hợp với phê phán lối sống thực dụng, tự do, ích kỷ, buông thả. Kiên quyết đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc và lợi dụng các khía cạnh đời sống xã hội của kẻ thù, kết hợp với việc lên án, ngăn ngừa các tổ chức và hành vi hoạt động văn hoá với mục đích xấu. Luôn giữ vững trạng thái tâm lí tinh thần, ổn định tư tưởng của xã hội.
3. Nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu luận điệu xuyên tạc của địch trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động khác:
Hiện nay thông tin đến với con người và các hoạt động khác bằng nhiều nguồn, nhiều phương tiện. Thông tin trở thành nhu cầu của đời sống xã hội, hằng ngày chúng ta tiếp xúc với nguồn thông tin chính thống có định hướng của Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời chúng ta cũng chịu ảnh hưởng các nguồn thông tin khác của địch nhằm chống ta, trong đó có đài Châu A tự do. Chống lại các nguồn thông tin của địch, cần tập trung làm tết một số việc:
– Luôn nâng cao kiến thức về mọi mặt để giữ vững bản lĩnh chính trị, có phương pháp xem xét tiếp cận thông tin một cách đúng đắn khoa học.– Nâng cao cảnh giác, đấu tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin ngược chiều với quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước.
– Bản thân mỗi người có ý thức tự giác, kỹ luật trong quá trình tiếp xúc thông tin. Chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống phao tin, đồn nhảm, lưu truyền thông tin xấu, thất thiệt.
4. Hành động của mỗi cán bộ công chức trước diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta hiện nay
– Được tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức về an ninh quốc phòng nhận rõ được âm mưu, thủ đoạn chiến lược Diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta bằng cách tham gia các hoạt động chính trị, quân sự… để thấy được ảnh hưởng tác hại và tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc đấu tranh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Từ đó luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, xác định trách nhiệm cùng toàn dân làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chúng.
– Tích cực chủ động tham gia phong trào bảo vệ trị an, góp phần làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn đó, giữ vững ổn định mọi mặt của cơ quan và khu dân cư mình sinh sống, góp phần nâng cao nhận thức về công tác quốc phòng toàn dân, tăng cường mối quan hệ giữa cán bộ, chiến sĩ với nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn…
– Thường xuyên theo dõi và cập nhật các thông tin thời sự, chính trị và xã hội để có được hiểu biết và sự đúng đắn trong đường lối cũng như trong suy nghĩ của bản thân, phấn đấu học tập, lao động theo tư tưởng và tấm gương đạo dức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
– Có ý thức tự giác, kỷ luật trong quá trình tiếp xúc thông tin. Chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống phao tin, đồn nhảm, lưu truyền thông tin xấu, thất thiệt.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã và đang thực hiện âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chúng luôn coi Việt Nam là một trọng điểm.
Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết, kiên quyết đánh bại chúng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đối với cán bộ công chức, việc học tập và nâng cao tri thức nhằm có nhận thức và cái nhìn đúng đắn về chính trị và đường lối của Đảng, chính phủ nước ta là rất quan trọng
Chúng ta xác định, chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới.
Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí
Các Nhân Tố Tiến Hóa Và Cơ Chế Tiến Hóa
Theo sách sinh học lớp 12 thì nhân tố tiến hóa là nhân tố làm thay đổi tần số alen và thành phần kiểu gen của quần thể.
Theo quan điểm tiến hóa: Tiến hóa nhỏ là quá trình biến đổi cấu trúc di truyền của quần thể (biến đổi tần số alen và thành phần kiểu gen của quần thể).
Phát sinh đột biến có thể làm thay đổi vốn gen của quần thể.
Ví dụ: Một quần thể sinh sản hữu tính ngẫu phối, trong đó gen A( màu thân trắng) trội hoàn toàn với a (màu thân đen). Giả thiết quần thể ở thế hệ P có 100% AA. Khi môi trường bị ô nhiễm là tác nhân gây đột biến A thành a với tần số 10% ở mỗi thế hệ, không xuất hiện đột biến nghịch. Xác định cấu trúc di truyền của quần thể ở F1, F2.
Kết luận: Đột biến là nhân tố tiến hóa vì nó làm biến đổi cấu trúc di truyền của quần thể
– Quá trình đột biến đã hình thành gen đột biến không có hướng xác định , không tương ứng với điều kiện môi trường (có thể tạo alen trội, lặn, trung tính; có lợi, hại, trung tính cho thể đột biến…)
– Gen đột biến là nguyên liệu sơ cấp chủ yếu cho tiến hóa.
Vai trò của đột biến với quá trình tiến hóa: cung cấp nhiều nguồn biến dị sơ cấp (các alen đột biến) – do cá thể có nhiều gen và quần thể có nhiều cá thể. Qua giao phối, tạo nguồn biến dị thứ cấp.
Khái niệm di – nhập gen (dòng gen): là hiện tượng khi một nhóm cá thể mới từ một quần thể khác có thể di nhập vào một quần thể nếu chúng tham gia giao phối trong quần thể có thể thêm những alen mới vào vốn gen của quần thể nhận.
Thực chất của CLTN với quần thể sinh vật là:
– Phân hóa khả năng sống sót của các cá thể khác nhau trong quần thể
– Phân hóa khả năng tồn tại của các cá thể khác nhau trong quần thể
– Tính chất tác động của CLTN lên quần thể
Thông qua làm biến đổi thành phần kiểu gen mà CLTN làm biến đổi tần số tương đối alen.
– Vai trò của CLTN với tiến hóa CLTN là nhân tố chủ yếu trong quá trình tiến hóa của sinh vật – Cấp độ tác động, nguyên liệu, thực chất tác động, kết quả.
+ Cấp độ tác động: mọi cấp độ, quan trọng nhất là quần thể.
+ Nguyên liệu: Biến dị di truyền của quần thể.
+ Thực chất: Phân hóa khả năng sống sót và sinh sản của các cá thể trong QT. Quy định chiều hướng tiến hóa.
+ Kết quả: hình thành đặc điểm thích nghi, hình thành quần thể thích nghi, hình thành loài mới.
* Khái niệm về yếu tố ngẫu nhiên (phiêu bạt di truyền) hay biến động di truyền:
– Khái niệm: hiện tượng tần số tương đối của các alen trong một quần thể bị thay đổi ngẫu nhiên do một nguyên nhân nào đó được gọi là sự biến động di truyền.
– Phân tích tác động của các yếu tố ngẫu nhiên đến tần số alen và thành phần kiểu gen của quần thể.
+ Biến động di truyền trong quần thể nhỏ thường đưa đến hai trạng thái: trạng thái quần thể thắt cổ chai và hiệu ứng kẻ sáng lập.
Biến động di truyền đào thải một cách không chọn lọc.
Biến động di truyền làm giảm tính đa dạng di truyền của quần thể.
+ Biến động di truyền là một nhân tố tiến hóa cơ bản.
+ Tần số alen trong quần thể có thể tăng hay giảm do tác động của biến động di truyền.
+ Hiệu quả của biến động di truyền phụ thuộc nhiều vào kích thước của quần thể.
+ Biến động di truyền là rất quan trọng trong quần thể có kích thước nhỏ.
– Các kiểu giao phối không ngẫu nhiên: tự thụ phấn, giao phối gần, giao phối có chọn lọc. – Phân tích tác động của giao phối không ngẫu nhiên đến vốn gen của quần thể:
+ Giao phối gần không làm thay đổi tần số alen nhưng thay đổi thành phần kiểu gen qua từng thế hệ theo hướng tăng dần thể đồng hợp, giảm dần thể dị hợp.
+ Giao phối có CL làm thay đổi tần số alen. + Giao phối cùng với đột biến làm cho quần thể thành kho dự trữ các biến dị di truyền ở mức bão hòa. Đây chính là nguồn nguyên liệu tiến hóa.
Là quá trình làm biến đổi cấu trúc di truyền của quần thể (biến đổi tần số alen và tần số kiểu gen của quần thể). Quần thể là đơn vị tiến hóa và quá trình tiến hóa nhỏ kết thúc khi loài mới xuất hiện.
Quá trình này do các nhân tố tiến hóa tác động lên vốn gen của quần thể, kết quả hình thành quần thể thích nghi và hình thành loài mới.
Quá trình hình thành quần thể thích nghi là một quá trình lịch sử, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: quá trình đột biến, quá trình giao phối và quá trình CLTN.
Quá trình hình thành loài mới diễn ra qua 3 giai đoạn chính:
– Sự hình thành các dạng mới trong loài
– Sự xác lập loài mới
– Sự kiên định loài mới.
Có 3 phương thức hình thành loài: khác khu; cùng khu: con đường sinh thái, con đường sinh học, con đường đa bội hóa.
Là quá trình biến đổi ở những mức độ trên loài, hình thành các nhóm phân loại có quan hệ về nguồn gốc (giống, họ, bộ, lớp, ngành). Sự hình thành loài mới là cơ sở của quá trình hình thành các nhóm phân loại trên loài. Có thể xem tiến hóa nhỏ và tiến hóa lớn là hai mặt của một quá trình tiến hóa thống nhất.
Mã Hóa Dữ Liệu Và Những Điều Cần Phải Biết Để Bảo Mật Thông Tin.
Mạn
g máy tính là một môi trường mở, những thông tin gửi lên internet hoặc nhận về internet đều có thể
bị lộ bởi các đối tượng
.
Một trong những phương thức bảo mật dữ liệu an toàn và được sử dụng phổ biến hiện nay là mã hóa dữ liệu
.
Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ mã hóa dữ liệu là gì, nó có chức năng ra sao và quá trình mã hóa diễn ra như thế nào
.
1.
Mã hóa dữ liệu là gì?
Có thể hiểu đơn giản mã hóa là một phương pháp bảo vệ thông tin, bằng cách chuyển đổi thông tin từ dạng có thể đọc và hiểu được thông thường sang dạng thông tin không thể hiểu theo các thông thường chỉ có người có quyền truy cập vào khóa giải mã hoặc có mật khẩu mới có thể đọc được nó. Việc làm này giúp ta có thể bảo vệ thông tin tốt hơn, an toàn trong việc truyền dữ liệu. Thực chất việc mã hóa dữ liệu sẽ không thể nào ngăn việc dữ liệu có thể bị đánh cắp, nhưng nó sẽ ngăn việc người khác có thể đọc được nội dung của tập tin đó, vì nó đã bị biến sang thành một dạng ký tự khác, hay nội dung khác. Dữ liệu được mã hóa thường gọi là ciphertext, dữ liệu thông thường, không được mã hóa thì gọi là plaintext.
2. Vì sao việc mã hóa dữ liệu lại đặc biệt quan trọng?
Việc mã hóa là để đảm bảo tính an toàn cho thông tin, đặc biệt trong thời đại công nghệ số như hiện nay. Đặc biệt là trong giao dịch điện tử. Có thể nói mã hóa chính là việc đảm bảo bí mật , toàn vẹn thông tin, khi thông tin được truyền trên mạng internet. Mã hóa cũng là nền tảng của kĩ thuật chữ ký điện tử, hệ thống PKI
3. Chức năng chính của mã hóa dữ liệu
Mục đích của việc mã hóa dữ liệu là bảo vệ dữ liệu số khi nó được lưu trữ trên các hệ thống máy tính và truyền qua Internet hay các mạng máy tính khác. Các thuật toán mã hóa thường cung cấp những yếu tố bảo mật then chốt như xác thực, tính toàn vẹn và không thu hồi. Xác thực cho phép xác minh nguồn gốc của dữ liệu, tính toàn vẹn chứng minh rằng nội dung của dữ liệu không bị thay đổi kể từ khi nó được gửi đi. Không thu hồi đảm bảo rằng người người không thể hủy việc gửi dữ liệu.
Quá trình mã hóa sẽ biến nội dung sang một dạng mới, vì thế sẽ tăng thêm một lớp bảo mật cho dữ liệu. Như vậy cho dù dữ liệu của bạn bị đánh cắp thì việc giải mã dữ liệu cũng vô cùng khó khăn, tốn nhiều nguồn lực tính toán và cần rất nhiều thời gian. Với những công ty, tổ chức thì việc sử dụng mã hóa dữ liệu là điều cần thiết. Điều này sẽ tránh được những thiệt hại khi những thông tin mật nếu vô tình bị lộ ra ngoài, cũng khó lòng giải mã ngay lập tức.
Hiện nay có rất nhiều ứng dụng tin nhắn đều sử dụng mã hóa nhằm bảo mật tin nhắn cho người dùng. Chúng ta có thể kể đến Facebook, WhatApps với loại mã hóa sử dụng được gọi là End-to-End
4. Các phương pháp mã hóa
Mã hóa cổ điển
Đây là phương pháp mã hóa cổ xưa và đơn giản nhất. Ngày nay phương pháp này không còn được sử dụng nhiều so với những phướng pháp khác. Bởi nó quá đơn giản. Ý tưởng của phương pháp này là: bên A mã hóa thông tin bằng thuật toán mã hóa cổ điển, và bên B giải mã thông tin, dựa vào thuật toán của bên A cung cấp, không cần dùng đến bất kì key nào. Vì thế toàn bộ độ an toàn của kiểu mã hóa này phụ thuộc vào bí mật của thuật toán. Nếu một người thứ ba biết được thuật toán thì xem như thông tin không còn bảo mật nữa. Việc giữ bí mật thuật toán trở nên vô cùng quan trọng, và không phải ai cũng có thể giữ bí mật đó một cách trọn vẹn.
Mã hóa một chiều (hash)
Có những tường hợp chúng ta chỉ cần mã hóa thông tin chứ không cần giải mã nó. Đó là khi chúng ta cần sử dụng kiểu mã hóa một chiều này. Ví dụ, khi bạn đăng nhập vào một trang web, mật khẩu của bạn sẽ được hàm băm (hash function) “băm nhỏ” , chuyển thành một chuỗi các kí tự như “KhhdhujidbH”. Thực chất, cơ sở dữ liệu lưu lại các kí tự mã hóa này chứ không lưu lại mật khẩu của bạn. Lỡ hacker có trộm dữ liệu thì cũng chỉ thấy những kí tự khó hiểu chứ không biết password thật của bạn là gì.
Đặc điểm của hash function đó là trong cùng 1 điều kiện, dữ liệu đầu vào giống nhau thì nó sẽ cho ra kết quả y hệt nhau. Nếu chỉ cần thay đổi một kí tự trong chuỗi, từ chữ hoa sang chữ thường, kết quả sẽ hoàn toàn khác. Cũng vì vậy mà người ta dùng hash function để kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu.
Hiện nay, hai thuật toán hash function thường được dùng nhất là MD5 và SHA. Nếu bạn download file trên mạng thì đôi khi sẽ thấy dòng chữ MD5 do tác giả cung cấp. Bạn sẽ phải nhập mã hiện lên theo yêu cầu. Mục đích là để bạn so sánh file đã download với file gốc xem có bị lỗi gì không.
Mã hóa bất đối xứng
Kiểu mã hóa này còn có tên gọi khác là mã hóa khóa công khai. Nó sử dụng đến hai khóa (key) khác nhau. Một khóa gọi là khóa công khai (public key) và một khóa khác là khóa bí mật (private key). Dữ liệu được mã hóa bằng public key. Tất cả mọi người đều có thể có được key này. Tuy nhiên để giải mã được dữ liệu, người nhận cần phải có private key.
Để thực hiện mã hóa bất đối xứng thì:
– Người nhận sẽ tạo ra một gặp khóa (public key và private key), họ sẽ giữ lại private key và truyền cho bên gửi public key. Vì public key này là công khai nên có thể truyền tự do mà không cần bảo mật.
– Trước khi gửi tin nhắn, người gửi sẽ mã hóa dữ liệu bằng mã hóa bất đối xứng với những key nhận được từ người nhận
– Người nhận sẽ giải mã dữ liệu nhận được bằng thuật toán được sử dụng ở bên người gửi, với key giải mã là private key.
Điểm yếu lớn nhất của kiểu mã hóa này là tốc độ mã hóa và giải mã rất chậm. Nếu dùng kiểu mã hóa bất đối xứng trong việc truyền dữ liệu thì sẽ rất tốn phí và mất thời gian.
Thuật toán mã hóa bất đối xứng thường thấy: RSA.
Mã hóa đối xứng
Phương pháp mã hóa này chỉ cần dùng một key giống nhau để mã hóa và giải mã. Theo một số tài liệu thì mã hóa đối xứng là giải pháp được sử dụng nhất phổ biến hiện nay.
Quy trình mã hóa được miêu tả như sau:
-Dùng giải thuật ngẫu nhiên mã hóa + key để mã hóa dữ liệu gửi đi.
-Bằng cách nào đó, key của người gửi sẽ được gửi đến cho người nhận, có thể là giao trước hoặc sau khi mã hóa file đều được.
-Khi người nhận nhận được dữ kiệu, họ sẽ dùng key này để giải mã dữ liệu để có được dữ liệu chuẩn.
Tuy nhiên vấn đề bảo mật nằm ở chỗ, làm thế nào đẻ chuyển key cho người nhận một cách an toàn. Nếu key này bị lộ, bất kì ai sử dụng giải thuật phía trên đều có thể giải mã được dữ liệu như vậy thì tính bảo mật sẽ không còn nữa.
Chúng ta sẽ thường thấy hai thuật toán thường thấy là DES và AES. Thuật toán DES xuất hiện từ năm 1977 nên không được sử dụng phổ biến bằng AES. Thuật toán AES có thể dùng nhiều kích thước ô nhớ khác nhau để mã hóa dữ liệu, thường thấy là 128-bit và 256-bit, có một số lên tới 512-bit và 1024-bit. Kích thước ô nhớ càng lớn thì càng khó phá mã hơn, bù lại việc giải mã và mã hóa cũng cần nhiều năng lực xử lý hơn.
5.
Mã hóa dữ liệu End-to-End là gì?
End-to-End Encryption (E2EE) là phương thức mã hóa mà chỉ người nhận và gửi có thể hiểu được thông điệp mã hóa này mà thôi. Sẽ không ai biết được những nội dung mà chúng ta đang truyền tải, kể cả những nhà cung cấp dịch vụ Internet.
Phương thức mã hóa này sử dụng mã khóa giữa người nhận và người gửi đang trực tiếp tham gia vào quá trình gửi dữ liệu. Trừ khi bên thứ 3 biết được mã khóa này thì sẽ không thể nào giải mã được.
Cơ chế hoạt động của loại mã hóa End-to-End thông qua giao thức trao đổi khóa Diffie-Hellman. Chúng ta có thể hiểu qua ví dụ gửi tin nhắn, 2 người sẽ tiến hành gửi đi một mã khóa công khai và một mã khóa bí mật. Tin nhắn lúc đó sẽ được tiến hành mã hóa bằng khóa bí mật kết hợp với khóa công khai. Và lúc đó người nhận sẽ sử dụng khóa bí mật để có thể giải mã được thông tin và nội dung tin nhắn.
6. Khóa bí mật và khóa công khai trong End-to-End Encryption?
2 loại khóa này đều được tạo nên từ những dãy số ngẫu nhiên. Khóa công khai sẽ được chia sẻ với mọi người, nhưng khóa bí mật phải được bảo vệ, nó sẽ nằm hoàn toàn ở người có quyền giải mã. 2 mã này hoạt động với nhiệm vụ hoàn toàn khác nhau. Khóa công khai sẽ tiến hành mã hóa dữ liệu, thay đổi nội dung tài liệu. Còn khóa bí mật sẽ đảm nhận nhiệm vụ giải mã nội dung.
Như vậy khi người gửi tin nhắn mã hóa dữ liệu bằng khóa công khai, và người nhận sẽ tiến hành giải mã bằng khóa bí mật và ngược lại.
Thuật toán Rivest-Sharmir-Adleman (RSA) là hệ thống mã hóa khóa công khai, được sử dụng rộng rãi để bảo vệ dữ liệu nhạy cảm, đặc biệt là khi nó được gửi qua một mạng không an toàn như Internet. Sự phổ biến của thuật toán này là do cả khóa công khai và khóa bí mật của nó đều có thể mã hóa dữ liệu và đảm bảo tính bí mật, toàn vẹn, xác thực và không thu hồi của dữ liệu và truyền thông kỹ thuật số thông qua việc sử dụng chữ ký số.
7.
Thách thức đối với mã hóa dữ liệu
Hầu hết phương thức tấn công cơ bản vào mã hóa hiện nay là Brute Force (thử và sai liên tục) và thử các khóa ngẫu nhiên cho đến khi khóa đúng được tìm thấy. Có thể giảm thiểu xác suất mở khóa bằng cách tăng chiều dài, độ phức tạp của khóa. Mã hóa càng mạnh thì tài nguyên cần để thực hiện tính toán sẽ tăng lên, cần nhiều thời gian và vật lực hơn để phá mã.
Các phương pháp phá vỡ mã hóa khác bao gồm tấn công kênh phụ và phân tích mật mã. Tấn công kênh bên xảy ra sau khi việc mã hóa hoàn tất thay vì tấn công trực tiếp vào mã hóa. Những cuộc tấn công này có khả năng thành công nếu có lỗi trong thiết kế hệ thống hoặc thực thi. Tương tự như vậy, phân tích mật mã sẽ tìm điểm yếu trong mã hóa và khai thác nó. Kiểu tấn công này có thể thành công nếu có lỗ hổng trong mật mã.
Nhìn chung, việc mã hóa dữ liệu là điều cần thiết để chúng ta có thể tăng sự bảo mật hơn cho tài liệu, đặc biệt là những kiểu tài liệu mật, thông tin tài khoản cá nhân. Hiện nay, việc mã hóa dữ liệu có thể được thực hiện thông qua một số công cụ online như Whisply, hay Nofile.io.
Phạm Lan tổng hợp
Bạn đang đọc nội dung bài viết Dna: Mật Mã Nhỏ Xíu Đang Lật Đổ Thuyết Tiến Hóa trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!