Đề Xuất 4/2023 # Giả Thuyết Planck Về Lượng Tử Năng Lượng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam # Top 9 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 4/2023 # Giả Thuyết Planck Về Lượng Tử Năng Lượng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giả Thuyết Planck Về Lượng Tử Năng Lượng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng là giả thuyết hiện đại về tính chất gián đoạn (lượng tử) của năng lượng bức xạ.

Nhà Vật lý M. Planck (Đức) đưa ra năm 1900.

Khủng hoảng tử ngoại: vào cuối thế kỷ XIX, các nhà Vật lý gặp khó khăn lớn trong việc giải thích dạng của đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối vào bước sóng ánh sáng.

Dựa vào lý thuyết phát xạ cổ điển, người ta thấy rằng năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối phải tỷ lệ với bình phương của tần số (tức là tỷ lệ nghịch với bình phương của bước sóng). Như vậy, khi

λ → 0

{displaystyle lambda rightarrow 0}

thì năng suất phát xạ đơn sắc

ρ ( λ , T ) → ∞

{displaystyle rho (lambda ,T)rightarrow infty }

. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với kết quả thực nghiệm. Người ta gọi sự bất lực của lý thuyết phát xạ cổ điển trong trường hợp này là sự khủng hoảng tử ngoại.

Giả thuyết (định luật) Planck: Planck cho rằng nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của lý thuyết phát xạ cổ điển trong sự giải thích các kết quả thực nghiệm về sự bức xạ của vật đen tuyệt đối, là quan niệm sai lầm về độ lớn của năng lượng mà một nguyên tử hoặc phân tử có thể trao đổi với bên ngoài, mỗi lần phát xạ hay hấp thụ bức xạ.

Theo Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng, lượng năng lượng mà một nguyên tử hay phân tử trao đổi mỗi lần phát xạ hay hấp thụ bức xạ có giá trị hoàn toàn xác định, bằng

ε = h f ,

{displaystyle varepsilon =hf,}

(1)

ε

{displaystyle varepsilon }

gọi là lượng tử năng lượng,

f

{displaystyle f}

là tần số của bức xạ được phát ra hay bị hấp thụ và ℎ là một hằng số. Sau này người ta đặt tên hằng số đó là hằng số Planck và đã xác định được chính xác giá trị của nó:

h = 6 ,

625.10

− 34

J . s

{displaystyle h=6,625.10^{-34}J.s}

(2)

Công thức Planck về bức xạ nhiệt: xuất phát từ Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng nói trên, Planck đã thiết lập được công thức biểu diễn sự phụ thuộc của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối vào tần số

f

{displaystyle f}

và nhiệt độ

ρ ( f , T )

{displaystyle rho (f,T)}

(hoặc vào bước sóng và nhiệt độ

ρ ( λ , T )

{displaystyle rho (lambda ,T)}

. Công thức này được gọi là công thức Planck về bức xạ nhiệt, hay còn gọi là định luật bức xạ Planck, có dạng sau:

ρ ( f , T ) =

(

2 π

f

2

c

2

)

h f

( e x p { h f

/

k T } − 1 )

,

{displaystyle rho (f,T)=left({frac {2pi f^{2}}{c^{2}}}right){frac {hf}{(exp{hf/kT}-1)}},}

(3)

hay

ρ ( λ , T ) =

2 π h

c

2

λ

5

1

( e x p { h c

/

λ k T } − 1 )

,

{displaystyle rho (lambda ,T)={frac {2pi hc^{2}}{lambda ^{5}}}{frac {1}{(exp{hc/lambda kT}-1)}},}

(4)

Hệ quả của công thức Planck về bức xạ nhiệt: từ công thức (3) và (4), ta có thể suy ra các định luật về bức xạ nhiệt của vật đen tuyệt đối. Độ trưng năng lượng toàn phần RT của vật đen tuyệt đối là

R

T

=

0

ρ ( f , T ) d f = σ

T

4

{displaystyle R_{T}=int limits _{0}^{infty }rho (f,T)df=sigma T^{4}}

(5)

trong đó

σ = 5 ,

67.10

− 8

W

/

m

2

.

K

4

{displaystyle sigma =5,67.10^{-8}W/m^{2}.K^{4}}

. Đó là định luật Stefan-Boltzmann.

Tính đạo hàm của

ρ ( λ , T )

{displaystyle rho (lambda ,T)}

theo

λ

{displaystyle lambda }

, ta thấy đạo hàm này triệt tiêu khi

λ =

λ

m a x

{displaystyle lambda =lambda _{max}}

, ứng với giá trị cực đại của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối:

λ =

b T

,

{displaystyle lambda ={frac {b}{T}},}

(6)

với

b = 2 ,

898.10

− 3

m . K

{displaystyle b=2,898.10^{-3}m.K}

. Đó chính là định luật dịch chuyển Wien.

Tài liệu tham khảo

[

sửa

]

J.P. Pérez, Thermodynamique, Fondements et applications, Masson, Paris, 1997.

Oxford Dictionary of Physics, Alan Isaacs (Ed), Oxford University Press, New York, 2000.

D. Haliday, R. Resnick, J. Walker, Fundamentals of Physics, John Wiley Inc., New York, 2014.

Hộ Nông Dân – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam

Hộ nông dân là hộ gia đình mà hoạt động sản xuất chủ yếu của họ là nông nghiệp. Ngoài các hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn có thể tiến hành thêm các hoạt động khác, tuy nhiên đó chỉ là các hoạt động phụ. Đặc điểm cơ bản nhất của phương thức sản xuất hộ nông dân là dựa trên sử dụng lao động gia đình là chính, chỉ đi thuê một phần nhỏ lao động. Theo FAO, nông dân gia đình (Family farming) bao gồm những người dân bản địa, cộng đồng truyền thống, ngư dân, nông dân miền núi, người chăn thả gia súc và nhiều nhóm đại diện cho mọi khu vực và các quần xã.

Giáo sư Frank Ellis, một nhà nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân nổi tiếng đã đưa ra định nghĩa về đơn vị kinh tế hộ nông dân (Peasant economics). Theo ông các đặc điểm đặc trưng của đơn vị kinh tế mà chúng phân biệt gia đình nông dân với những người làm kinh tế khác trong một nền kinh tế thị trường là: đất đai, lao động, tiền vốn và cách tiêu dùng.Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn hẳn các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó; nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời sống của gia đình nông dân trước những thiên tai. Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc tính kinh tế nổi bật của người nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản. Người ta cho rằng: “người nông dân làm công việc của gia đình chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy”, nó khác với đặc điểm chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm chủ vốn đầu tư vào tích lũy cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng lợi nhuận.

Trong lịch sử kinh tế nông nghiệp thế giới, do có những đặc điểm riêng của nền sản xuất – kinh tế nông nghiệp, mà cả về lý luận và thực tiễn phát triển nền nông nghiệp trên thế giới hàng trăm năm nay, kể cả khi đi vào sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại cho thấy đơn vị kinh tế tự chủ cơ bản và phổ biến nhất vẫn là Kinh tế hộ nông dân với những quy mô và trình độ khác nhau. Mác và Ăngghen đã thấy rõ những đặc thù của sản xuất nông nghiệp – kinh tế nông nghiệp, và đã rút ra kết luận quan trọng rằng: Nông trại gia đình, về căn bản không dựa trên lao động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống lâu bền và và hiệu quả của nó, và “Ngay ở nước Anh siêu công nghiệp… với thời gian cho đến nay đã khẳng định là hình thức lãi nhất không phải là nông trại công nghiệp hóa, làm theo phương thức công nghiệp và dựa trên lao động di thuê, mà là nông trại gia đình thực tế không dùng lao động làm thuê”. Các ông cho rằng đó là “Nghề nông hợp lý” .

A. Chayanov, nhà kinh tế nông nghiệp Nga, đầu thế kỷ 20 đã cho rằng kinh tế nông dân mang các đặc điểm cơ bản của kinh tế gia đình. Toàn bộ tổ chức của dạng kinh tế này do quy mô, cấu trúc gia đình, nhu cầu tiêu dùng và số lượng lao động quyết định. Đây là lý do giải thích tại sao quan niệm về lời lãi của kinh tế hộ nông dân khác với kinh tế tư bản và tại sao những quan điểm của kinh tế tư bản không thể áp dụng cho nền kinh tế nông dân .

Cùng với những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, xét trong nền kinh tế thị trường, đơn vị kinh tế hộ nông dân có những trình độ chủ yếu sau:

Hộ nông dân tự cung tự cấp hoàn toàn. Đó là loại hộ, cả với tư cách là đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng, hầu như không có sự đối thoại với thị trường, nếu có sự đối thoại với thị trường thì cũng chỉ là do nhu cầu bức thiết phải bán bớt sản phẩm tất yếu để đổi lấy các nhu yếu phẩm khác mà cuộc sống buộc phải có.

Hộ nông dân sản xuất hàng hoá nhỏ. Tính tự cung tự cấp vẫn chiếm ưu thế trong loại kinh tế hộ nông dân này, cho nên sản xuất lương thực để tồn tại để đảm bảo an ninh lương thực cho hộ gia đình vẫn là một mục tiêu và nội dung kinh tế cơ bản, hàng đầu của loại hộ nông dân này.

Hộ nông dân sản xuất hàng hoá là chủ yếu. Đây là loại hộ nông dân đã hướng mục tiêu sản xuất ra thị trường đồng thời vẫn giữ phần nhỏ tiêu dùng trực tiếp trong hộ như một chiếc “van an toàn”. Đặc trưng kinh tế cơ bản của loại hộ nông dân này là mối quan hệ giữa hộ, một đơn vị sản xuất, với thị trường đã khá lớn và chiếm ưu thế trong sản xuất của hộ. Vì sản xuất hướng theo thị trường nên các yếu tố đầu vào và đầu ra của đơn vị sản xuất, bao gồm cả chi phí lao động sống và đất đai, đã được tính toán tới trong quá trình sản xuất. Đây là một nấc thang phát triển rất quan trọng của quan hệ ruộng đất và kinh tế hộ nông dân.

Hộ nông dân sản xuất hàng hoá hoàn toàn hay trang trại. Đặc trưng kinh tế của loại hộ nông dân này là sản xuất hoàn toàn hướng theo nhu cầu của thị trường và thông qua thị trường; quy mô sản xuất thường do thị trường điều tiết. Đối với những loại hộ này, giữa đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng của kinh tế hộ nông dân hầu như không còn mối quan hệ trực tiếp, mà cả đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng tồn tại độc lập tương đối với nhau và quan hệ trực tiếp với thị trường. Đi vào sản xuất hàng hóa, do năng lực của các hộ khác nhau, biểu hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai của các hộ khác nhau, năng lực làm các ngành nghề phi nông nghiệp khác nhau, tất yếu diễn ra sự phân hoá giữa các hộ nông dân: phân hoá về trình độ, quy mô sản xuất kinh doanh, phân hoá về nghề nghiệp – giỏi về nghề gì làm nghề đó.

Theo báo cáo của FAO nhân thập kỷ Nông nghiệp gia đình 2019-2028, thế giới hiện có hơn 600 triệu trang trại với trên 90% được điều hành bởi cá nhân dựa chủ yếu vào lao động và các nguồn lực gia đình. Các trang trại gia đình chiếm từ 70% đến 80% đất nông nghiệp và sản xuất hơn 80% giá trị lương thực thực phẩm toàn cầu. Đáng chú ý trong hệ thống nông nghiệp thế giới là, số trang trại có diện tích dưới 1ha chiếm 70%, nhưng chỉ nắm giữ 7% diện tích đất nông nghiệp; những trang trại từ 1 đến 5ha chiếm 24% song chỉ có 10% diện tích đất đai. Trên 70% diện tích đất nông nghiệp hiên nay do 1% số trang trại lớn nhất nắm giữ. Trên 33% diện tích rừng thế giới hiện được quản lý bởi người dân bản địa và cộng đồng địa phương. Tại 90 quốc gia với trên 370 triệu người bản địa sống trong các vùng lãnh thổ truyền thống, trùng hợp với 80% diện tích đa dạng sinh học trên hành tinh, chiếm 22% diện tích đất đai thế giới.

Hộ nông dân và quá trình phát triển ở Việt Nam

[

sửa

]

Trong thời kỳ hợp tác hoá, đất nước còn chia cắt, hộ nông dân Việt Nam tham gia vào Hợp tác xã nhưng vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa là nguồn của cải vật chất cho cuộc chiến, đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống không những cho gia đình, chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ nông dân làm kinh tế vườn theo lối tự túc, tự cấp, mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ. Tuy nhiên sau khi giải phóng đất nước, vai trò của kinh tế hộ nông dân có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực phát triển. Lãnh đạo Đảng và nhà nước đã sáng suốt nhìn thấy động lực của kinh tế hộ nông dân sẽ là cơ sở cho phát triển nông nghiệp. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 31-01-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị quyết 10, ngày 05 – 04 – 1988 của Bộ Chính trị (hay còn gọi là Khoán 10) về Đổi mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp với chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân.

Sau hơn 30 năm Đổi mới kinh tế hộ nông dân đã góp phần vào tăng trưởng ngoạn mục của nền nông nghiệp Việt nam, chuyển từ nhập khẩu lương thực vào năm 1989 sang xuất khẩu nông sản đến 180 nước trên thế giới vào năm 2019.

Trong qua trình phát triển hộ nông dân Việt Nam không chỉ tăng về số lượng mà quan trọng hơn là đã có sự chuyển dịch từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản sang phi nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tại thời điểm 01/7/2016, khu vực nông thôn có 8,58 triệu hộ nông dân, chiếm 53,7% tổng số hộ nông thôn, so với năm 2006 là 71,06%. So với 5 năm trước đó là 2011, số hộ nông dân đã giảm 0,96 triệu hộ. Năm 2016, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân một hộ nông dân có sử dụng của cả nước chỉ đạt 5.805 m2/hộ, trong đó hộ trồng cây hằng năm 4.466 m2/hộ; hộ trồng lúa 3.468 m2/hộ; hộ trồng cây lâu năm 4.830 m2/hộ. Đồng bằng sông Hồng có diện tích sản xuất nông nghiệp bình quân hộ thấp nhất, chỉ đạt 1.852 m2/hộ. Trong đó, hộ trồng cây hằng năm 1.775 m2/hộ; hộ trồng lúa 1.692 m2/hộ; hộ trồng cây lâu năm 690 m2/hộ. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có diện tích bình quân hộ tương ứng lần lượt là: Hộ có diện tích đất nông nghiệp 3.999 m2/hộ; hộ trồng cây hằng năm 3.351 m2/hộ; hộ trồng lúa 2.290 m2/hộ; hộ trồng cây lâu năm 2.766 m2/hộ.

Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng gần 3,5 lần, từ 9,1 triệu đồng năm 2008 lên 32 triệu đồng năm 2017. Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn thu hẹp từ 2,1 lần năm 2008 xuống còn 1,8 lần năm 2017. Tuy nhiên, thu nhập bình quân của hộ nông dân năm 2017 chỉ bằng 78% bình quân chung cả nước. Nhiều nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao trên 30%. Đến hết năm 2017, lao động nông nghiệp vẫn chiếm 40,2% trong tổng số lao động xã hội.

Khó khăn và thách thức của hộ nông dân

[

sửa

]

Khó khăn và thách thức lớn đối với hộ nông dân của Việt Nam trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là: (1) Thu nhập còn quá thấp; chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; (2) Ruộng đất giao cho các hộ manh mún, bình quân ruộng đất trên đầu người thấp; giá đất nông nghiệp quá thấp; (3) Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động thấp, việc tổ chức sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên kinh doanh thiếu bền vững, khó tham gia vào chuỗi giá trị; (4) Chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ gia đình chưa cao, chủ yếu dưới dạng thô, sản phẩm nhỏ lẻ phân tán nên tiêu thụ khó khăn, chưa đạt các tiêu chuẩn của thị trường, nên giá trị và hiệu quả thấp; (5) Sống trong điều kiện ít được hưởng phúc lợi xã hội nhất, nhất là về giáo dục, y tế; môi trường càng ngày càng ô nhiễm; (6) Luôn bị nạn hàng giả, hàng kém chất lượng hoành hành; thương mại không công bằng, người dân luôn bị ép giá; (7) Còn thiếu các phương tiện, công cụ để giảm, thoát nghèo, như cơ sở hạ tầng nông thôn còn yếu kém, khó tiếp cận vốn, lao động trẻ khỏe xa rời nông nghiệp.

Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân

[

sửa

]

Liên Hợp Quốc đã phát động thập kỷ 2019-2028 là thập kỷ của Nông nghiệp hộ gia đình nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của phương thức kinh tế hộ nông dân đóng góp vào Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Ở Việt nam, hộ nông dân từ tự cung tự cấp đang chuyển mạnh mẽ sang kinh tế hàng hóa, hội nhập. Hiện nay có nhiều tranh luận về vai trò của hộ nông dân trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, tuy nhiên kinh tế hộ nông dân có thể phát triển theo các xu hướng cơ bản theo xu hướng toàn cầu như sau: (1) Quá trình hình thành các nông trại hay trang trại gia đình, chính là sự hình thành các cơ sở sản xuất hàng hóa nông nghiệp, nông dân gia đình trở thành nông dân chuyên nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin…(2) Sự hình thành các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho chuỗi giá trị nông sản-thực phẩm và đời sống của dân cư nông thôn; (3) Quá trình phân hoá về mặt kinh tế các hộ nông dân nghèo, hiệu quả thấp, có mức thu nhập dưới ngưỡng tích lũy, làm nông nghiệp sinh thái, hữu cơ có thể kết hợp du lịch nông thôn; (4) Quá trình rút lao động khỏi nông nghiệp cùng với quá trình gia tăng phát triển công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn và công nghiệp hoá; (5) Quá trình hình thành các hợp tác xã kiểu mới, hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân.

Tài liệu tham khảo

[

sửa

]

Đào Thế Tuấn, Kinh tế hộ nông dân. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1997.

Ellis Frank, Peasant Economics: Farm Households in Agrarian Development, Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom, 2003.

Chương trình KHCN phục vụ NTM chủ biên, Khoa học với sự nghiệp Nông thôn mới. Giai đoạn 2011-2017. NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2018.

Mimir Bách Khoa Toàn Thư

Giấm balsamic (tiếng Ý:

aceto balsamico

) là một loại giấm rất đậm, đậm đặc và có Thuật ngữ ” aceto balsamico ” không được kiểm soát, nhưng có ba loại giấm balsamic được bảo vệ: ” Aceto Balsamico Tradizionale di Modena ” (Giấm Balsamic truyền thống của Modena), ” Aceto Balsamico Tradizionale di Reggio Emilia ” ” Aceto Balsamico di Modena ” (Giấm Balsamic của Modena). Hai loại giấm balsamic truyền thống được làm theo cùng một cách từ nho giảm phải già đi vài năm trong một loạt các Aceto Balsamico di Modena ) được làm từ nho phải được pha trộn với giấm Giấm balsamic không chứa balsam. Từ balsamico (từ tiếng Latin balsamum , từ tiếng Hy Lạp βάλσβάλσμμν ) có nghĩa là “giống

(tiếng Ý:) là một loại giấm rất đậm, đậm đặc và có hương vị đậm đà được làm hoàn toàn hoặc một phần từ nho phải, có nguồn gốc từ Ý.Thuật ngữ “” không được kiểm soát, nhưng có ba loại giấm balsamic được bảo vệ: “” (Giấm Balsamic truyền thống của Modena), “” “” (Giấm Balsamic của Modena). Hai loại giấm balsamic truyền thống được làm theo cùng một cách từ nho giảm phải già đi vài năm trong một loạt các thùng gỗ, và được sản xuất độc quyền ở tỉnh Modena hoặc vùng Emilia rộng hơn bao quanh nó. Tên của hai loại giấm này được bảo vệ bởi Nguồn gốc được bảo vệ của Liên minh châu Âu, trong khi giấm Balsamic thường rẻ hơn của Modena () được làm từ nho phải được pha trộn với giấm rượu vang và được sản xuất độc quyền trong cả Modena hoặc Reggio Emilia, với một trạng thái Chỉ dẫn địa lý được bảo vệ.Giấm balsamic không chứa balsam. Từ(từ tiếng Latin, từ tiếng Hy Lạp) có nghĩa là “giống như balsam” theo nghĩa “phục hồi” hoặc “chữa bệnh”.

Nông Nghiệp Là Gì ? Những Định Nghĩa Từ Bách Khoa Toàn Thư Mở

Nông nghiệp là gì? Câu chuyện về sự tiến bộ của ngành nông nghiệp.

Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, tơ, sợi và sản phẩm. Mong muốn khác bởi trồng trọt những cây trồng chính và chăn nuôi đàn gia súc (nuôi trong nhà). Công việc nông nghiệp cũng được biết đến bởi những người nông dân. Trong khi đó các nhà khoa học, những nhà phát minh thì tìm cách cải tiến phương pháp. Công nghệ và kỹ thuật để làm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi.

Đây là một ngành mang nhiệm vụ quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước. Nhất là vào các thế kỷ trước khi công nghiệp chưa tiến bộ như hiện tại. Và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế.

Nông nghiệp gồm những ngành nào

Ngành nông nghiệp gồm những nghề gì

Nông nghiệp là tập hợp các phân ngành như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản và công nghệ sau thu hoạch.

Chúng bao gồm tất cả các loại cây trồng trong ngành nông nghiệp như cây lương thực: lúa, ngô, khoai…. Cây ăn quả: dâu tây, quýt, dưa hấu… Cây rau màu: cà chua, cải thảo, rau chân vịt,…

Hay các cây trồng làm thuốc: tam thất, đương quy, hoa hòe… Các loại rau gia vị: gừng, ớt, húng quế, kinh giới,…

Sản xuất nông nghiệp là gì? Đó là toàn bộ quá trình từ khâu chuẩn bị, tiến hành,… để thu hoạch được sản phẩm nông nghiệp.

Sản phẩm nông nghiệp là gì? Là những thứ thu được trong và sau khi kết thúc quá trình sản xuất nông nghiệp.

Nông nghiệp là gì? Hai lĩnh vực chính của nông nghiệp

Trong nông nghiệp cũng có hai loại chính, việc xác định sản xuất nông nghiệp thuộc dạng nào cũng rất quan trọng:

* Nông nghiệp thuần nông là việc lao động với các nguồn đầu tư giới hạn. Các nông sản tạo ra mục đích tự phục vụ cho nhu cầu của tự riêng mỗi nhà. Không áp dụng nhiều các tiến bộ máy móc kỹ thuật mà đa số giống hoàn toàn việc canh tác xưa.

* Nông nghiệp chuyên sâu là tất cả mọi thứ từ nông cụ đến kỹ thuật canh tác đều được cải tiến. Có cả vận hành các loại máy trồng trọt, chăn nuôi, hoặc chế biến nông sản. Lĩnh vực này có đầu vào lớn. Chúng gồm các khâu thêm thuốc bảo vệ thực vật, phân, chọn và lai tạo, tìm ra loại cây hay vật mới và sự cơ giới.

Sản phẩm đầu ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại. Làm hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu. Các việc làm trong phần này cũng có nghĩa là làm sao đó mang lại tài chính đáng kể từ nông sản. Sản vật được tạo ra từ lúa, ngô, đậu,… hay gia súc…

Nông nghiệp là gì? Nông nghiệp hiện đại

Nông nghiệp ngày nay đã chạy qua so với truyền thống. Phần mà chỉ chú tâm vào việc làm đồ ăn cho người hay cung cấp vật nuôi. Các sản vật ngày nay ngoài lương thực, thực phẩm đáp ứng cần thiết hàng ngày còn các loại khác như.

Ngành dệt (bông, len, lụa), chất cháy (metan, ethanol). Cây trồng trong nhà cảnh, làm cảnh, chất tổng hợp tự nhiên (đường, bột ngọt, nước mắm,…), và lai tạo mới.Các chất gây nghiện cả hợp pháp và không hợp pháp như (thuốc lá, cocaine…)

Thế kỷ hai mươi đã chứng kiến sự đổi thay trong sản xuất. Nhất là về tiến bộ các máy móc trong sản xuất và ngành tạo ra các hóa chất dùng cho nông nghiệp.

Các sản phẩm sinh hóa học bao gồm các hóa chất để lai tạo, gây giống, các chất trừ sâu, diệt cỏ, diêt nấm, phân đạm.

Lịch sử nông nghiệp, nông nghiệp là gì?

Định nghĩa khác về nông nghiệp là gì?

Nông nghiệp là nghệ thuật và khoa học canh tác đất, trồng trọt và chăn nuôi. Nó bao chứa việc chuẩn bị các sản phẩm động thực vật cho mọi người sử dụng và phân phối chúng ra thị trường.

Nông nghiệp cung cấp hầu hết lương thực và vải vóc cho thế giới. Bông, len và da đều là sản phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp cũng cung cấp gỗ cho xây dựng và các sản phẩm giấy. Các sản phẩm này, cũng như các phương thức nông nghiệp được sử dụng, có thể khác nhau giữa các vùng trên thế giới.

Qua nhiều thế kỷ, sự phát triển của nông nghiệp đã góp phần vào sự trỗi dậy của các nền văn minh.

Trước khi nông nghiệp trở nên phổ biến, con người đã dành phần lớn cuộc đời để tìm kiếm thức ăn – săn bắt động vật hoang dã và hái lượm thực vật hoang dã. Khoảng 11.500 năm trước, con người dần dần biết cách trồng ngũ cốc và các loại cây lấy củ, và định cư bằng cuộc sống dựa vào nghề nông.

Cách đây 2.000 năm, phần lớn dân số Trái đất đã phụ thuộc vào nông nghiệp. Các học giả không chắc tại sao lại diễn ra sự chuyển đổi sang trồng trọt này, nhưng nó có thể xảy ra do biến đổi khí hậu.

Khi con người bắt đầu trồng trọt, họ cũng bắt đầu chăn gia súc và chăn nuôi động vật hoang dã. Làm cho thực vật và động vật hoang dã thích nghi để con người sử dụng được gọi là thuần hóa.

Những cây trồng và vật nuôi đầu tiên

Loại cây đầu tiên được thuần hóa có lẽ là lúa hoặc ngô. Nông dân Trung Quốc đã trồng lúa từ năm 7500 trước Công nguyên.

Động vật được thuần hóa đầu tiên là chó, được sử dụng để săn bắn. Cừu và dê có lẽ đã được thuần hóa tiếp theo. Người ta cũng thuần hóa gia súc và lợn. Hầu hết những động vật này đã từng bị săn bắt để lấy da và thịt.

Hiện tại chúng là nguồn cung cấp sữa, pho mát và bơ. Cuối cùng, con người đã sử dụng các động vật thuần hóa như trâu bò để cày, kéo và vận chuyển.

Một thời kỳ phát triển nông nghiệp quan trọng bắt đầu vào đầu những năm 1700 đối với Vương quốc Anh và các nước vùng thấp nằm dưới mực nước biển như Bỉ, Luxembourg.

Các phát minh nông nghiệp mới đã làm tăng đáng kể sản lượng lương thực ở châu Âu và các thuộc địa của châu Âu, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada.

Một trong những sự phát triển quan trọng nhất là máy khoan hạt giống bằng ngựa kéo được cải tiến bởi Jethro Tull ở Anh. Cho đến thời điểm đó, nông dân gieo hạt bằng tay. Máy khoan của Tull tạo các hàng lỗ cho hạt giống. Đến cuối thế kỷ 18, khoan hạt đã được thực hiện rộng rãi ở Châu Âu.

Nhiều máy móc đã được phát triển ở Hoa Kỳ. Gin bông, được phát minh bởi Eli Whitney vào năm 1794, làm giảm thời gian cần thiết để tách sợi bông khỏi hạt. Vào những năm 1830, máy gặt cơ khí của Cyrus McCormick đã giúp hiện đại hóa quy trình cắt hạt.

Máy móc ngày càng phát triển

Cùng lúc đó, John và Hiram Pitts đã giới thiệu một chiếc máy tuốt lúa chạy bằng sức ngựa. Giúp rút ngắn quá trình tách ngũ cốc và hạt từ trấu và rơm. Máy cày bằng thép của John Deere, được giới thiệu vào năm 1837. Giúp nó có thể làm việc trên đất đồng cỏ khó khăn với ít mã lực hơn nhiều.

Cùng với máy móc mới, đã có một số tiến bộ quan trọng trong phương pháp canh tác. Bằng cách lai tạo chọn lọc vật nuôi (lai tạo những con có đặc điểm mong muốn). Nông dân đã tăng quy mô và năng suất vật nuôi của họ.

Các nền văn hóa đã chăn nuôi động vật trong nhiều thế kỷ. Bằng chứng cho thấy những người du mục Mông Cổ đã chọn lọc giống ngựa trong thời kỳ đồ đồng. Người châu Âu bắt đầu thực hành chăn nuôi chọn lọc trên quy mô lớn từ thế kỷ 18.

Một ví dụ ban đầu về điều này là cừu Leicester. Một loài động vật được lai tạo có chọn lọc ở Anh để có thịt chất lượng và len dài, thô.

Vào cuối những năm 1950, hầu hết nông dân ở các nước phát triển đang sử dụng cả xăng và điện để cung cấp năng lượng cho máy móc. Máy kéo đã thay thế động vật kéo và máy móc chạy bằng hơi nước. Nông dân đã sử dụng máy móc trong hầu hết các khâu quản lý trồng trọt và chăn nuôi.

Điện lần đầu tiên trở thành nguồn điện trong các trang trại ở Nhật Bản và Đức vào đầu những năm 1900. Đến năm 1960, hầu hết các trang trại ở Mỹ và các nước phát triển khác đã được điện khí hóa.

Điện thắp sáng các tòa nhà trang trại và cung cấp năng lượng cho các máy móc. Như máy bơm nước, máy vắt sữa và thiết bị cho ăn. Ngày nay, điện kiểm soát toàn bộ môi trường trong các chuồng gia súc và chuồng gia cầm.

Theo truyền thống, nông dân đã sử dụng nhiều phương pháp. Để bảo vệ cây trồng của họ khỏi sâu bệnh. Họ đã đưa các chất độc có nguồn gốc từ thảo mộc lên cây trồng. Chọn lọc côn trùng khỏi cây trồng. Lai tạo các giống cây trồng mạnh và luân canh để kiểm soát côn trùng.

Bây giờ, hầu hết tất cả nông dân, đặc biệt là ở các nước phát triển. Dựa vào hóa chất để kiểm soát sâu bệnh. Định nghĩa về “dịch hại” bao gồm từ côn trùng đến động vật như thỏ và chuột. Cũng như cỏ dại và sinh vật gây bệnh – vi khuẩn, vi rút và nấm. Với việc sử dụng hóa chất, mùa màng thất thu và giá cả đã giảm đáng kể.

Làm thế nào để cây phát triển nhanh hơn

Trong hàng ngàn năm, người nông dân dựa vào phân bón tự nhiên. Các vật liệu như phân ủ, tro củi, xương đất. Cá hoặc các bộ phận của cá, và chất thải của chim và gà. Để bổ sung hoặc tăng chất dinh dưỡng trong đất.

Vào đầu những năm 1800, các nhà khoa học đã khám phá ra. Những nguyên tố nào cần thiết nhất cho sự phát triển của thực vật: nitơ, phốt pho và kali. Sau đó, phân bón có chứa các nguyên tố này đã được sản xuất ở Mỹ và ở Châu Âu.

Hiện nay, nhiều nông dân sử dụng phân bón hóa học có nitrat và phốt phát. Vì chúng làm tăng năng suất cây trồng rất nhiều.

Các vấn đề cần giải quyết trong nông nghiệp

Tuy nhiên, thuốc trừ sâu và phân bón đi kèm với một loạt vấn đề khác. Việc phụ thuộc nhiều vào hóa chất đã làm xáo trộn môi trường. Thường phá hủy các loài động vật hữu ích cùng với những loài có hại.

Sử dụng hóa chất cũng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe con người. Đặc biệt là qua nguồn nước bị bẩn. Các nhà khoa học nông nghiệp đang tìm kiếm các hóa chất an toàn hơn. Để sử dụng làm phân bón và thuốc trừ sâu.

Một số nông dân sử dụng các biện pháp kiểm soát tự nhiên và ít dựa vào hóa chất hơn.

Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết.

Chuyên gia: Quang Hưng

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giả Thuyết Planck Về Lượng Tử Năng Lượng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!