Cập nhật nội dung chi tiết về Hoàn Thiện Chế Định Thanh Tra Chuyên Ngành Trong Hệ Thống Pháp Luật Về Thanh Tra mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Có thể thấy, các quy định của pháp luật về TTCN hiện nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, có sự chồng chéo giữa pháp luật về thanh tra và pháp luật chuyên ngành (phần lớn các luật, bộ luật chuyên ngành đều có quy định về TTCN(2)); mục đích, khái niệm, nội dung về TTCN không phù hợp với tính chất quản lý Nhà nước chuyên ngành; nhiệm vụ, quyền hạn chồng chéo giữa thanh tra hành chính với TTCN, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan thanh tra của ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan thanh tra của cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành; tổ chức thanh tra được thiết lập chưa phù hợp; quy trình, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các biện pháp xử lý cứng nhắc, chưa được cập nhật, không phù hợp với tính chất, yêu cầu của quản lý Nhà nước chuyên ngành…
Thanh tra giao thông là lực lượng Thanh tra chuyên ngành rất cần thiết trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực tải trọng xe.
Trong phạm vi bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về thanh tra và qua thực tiễn quản lý thanh tra ngành, tác giả đưa ra một số ý kiến đề xuất như sau:
Thứ nhất, cần có chế định về TTCN trong Luật Thanh tra để thống nhất điều chỉnh về tổ chức và hoạt động TTCN trên toàn quốc thuộc các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Như đã phân tích ở trên, do quy định nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, ngoài luật chuyên ngành còn có tại các Điều ước quốc tế chuyên ngành mà Việt Nam là thành viên nên cần có chế định quy định về TTCN trong Luật Thanh tra. Thực tế hiện nay, có nhiều hoạt động TTCN có tên gọi khác nhau nhưng chưa có pháp luật điều chỉnh, như kiểm tra chuyên ngành, giám sát an toàn, kiểm tra phát hiện xử lý vi phạm(3). Bản chất của các hoạt động này là xem xét, đánh giá việc tuân thủ pháp luật chuyên ngành (chủ yếu là các quy chuẩn, tiêu chuẩn, yêu cầu về chuyên môn gắn với hoạt động cung cấp dịch vụ cho xã hội) đối với tổ chức, cá nhân, qua đó đưa ra các biện pháp xử lý nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm nhằm bảo vệ an toàn về tính mạng của con người và bảo vệ tài sản của Nhà nước, xã hội.
Từ bản chất đó, chế định về TTCN cần quy định có tính nguyên tắc để “định danh” rõ các hoạt động này nhằm làm cơ sở để thiết kế các nguyên tắc cụ thể, điều khoản về vị trí, chức năng, niệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chức danh và quy trình hoạt động TTCN. Nếu không có sự điều chỉnh thống nhất, chắc chắn trong thực tiễn thi hành pháp luật về thanh tra sẽ tiếp tục bị chồng chéo, trùng lặp như đã và đang diễn ra khá phổ biến hiện nay. Điều này sẽ tác động rất tiêu cực đến sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ, đặc biệt các hoạt động có tính sáng tạo, phát minh của các chuyên ngành.
Thứ hai, quy định rõ hơn về khái niệm TTCN (định nghĩa, giải thích từ ngữ), mục đích TTCN gắn với đặc điểm, tính chất và yêu cầu quản lý Nhà nước chuyên ngành.
Định danh rõ TTCN có ý nghĩa rất quan trọng để hoàn thiện chế định về TTCN trong Luật Thanh tra. Theo quan điểm của tác giả, khái niệm hay định nghĩa về TTCN cần hội tụ các yếu tố sau:
Chủ thể của TTCN là cơ quan thanh tra Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được cơ quan có thẩm quyền ủy quyền thực hiện TTCN. Đây là vấn đề mới, song khá phù hợp với thực tiễn quản lý và thông lệ quốc tế. Không phải khi nào, lúc nào cơ quan Nhà nước cũng phải tổ chức bộ máy hoặc có năng lực chuyên môn thực hiện TTCN mà khi cần thiết, Nhà nước ủy quyền cho cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp Nhà nước có năng lực tiến hành TTCN trong phạm vi, nội dung, đối tượng quản lý nhất định. Ví dụ, theo quy định của Tổ chức Hàng không Quốc tế (ICAO), Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), người tiến hành TTCN phải bảo đảm tiêu chuẩn chuyên môn phù hợp, tương xứng với trình độ chuyên môn của đối tượng thanh tra; nhà chức trách hàng không, hàng hải không bị ràng buộc bởi sự bắt buộc phải là cơ quan Nhà nước tiến hành thanh tra, xong phải bảo đảm tính độc lập cũng như tính chuyên nghiệp. Có như vậy mới phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời được hành vi vi phạm có thể phát sinh.
Hoạt động TTCN là hoạt động kiểm tra, xem xét đánh giá việc tuân thủ pháp luật chuyên ngành, bao gồm cả Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (gồm quy định, quy tắc, quy chuẩn và các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh dân sự trong quản lý ngành).
Mục đích của hoạt động TTCN là phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật chuyên ngành nhằm hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội theo hướng hiệu quả, thuận tiện, an toàn vì con người; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Thứ ba, quy định phạm vi thẩm quyền TTCN và thiết kế mô hình tổ chức phù hợp.
Như trên đã phân tích, cần làm rõ phạm vi thẩm quyền thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành lĩnh vực. Cần nghiên cứu quy định rõ cấp nào thanh tra cấp đó và với phạm vi, đối tượng nhất định, không chồng chéo giữa các cấp thanh tra với nhau, giữa thanh tra theo cấp hành chính với TTCN. Quy định hiện nay, việc chồng chéo là khó tránh khỏi, Ví dụ: Thanh tra Chính phủ có thể thanh tra tất cả các đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ từ trung ương đến địa phương; thanh tra bộ có thể thanh tra đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của tổng cục, cục, sở; thanh tra tỉnh có thể thanh tra các đối tượng trên địa bàn thuộc phạm vi thanh tra của thanh tra bộ.
Trong thẩm quyền của các cơ quan thanh tra cần quy định rõ thẩm quyền tham mưu quản lý Nhà nước, thẩm quyền thanh tra và thẩm quyền thực hiện các biện pháp xử lý, khuyến cáo, ngăn chặn hành vi vi phạm.
Lực lượng Thanh tra giao thông kiểm tra kích thước thành thùng xe.
Như vậy, với quan điểm trên, cần thiết kế mô hình tổ chức của các cơ quan thanh tra theo hướng, Thanh tra Chính phủ sẽ thu hẹp phạm vi thanh tra về kinh tế – xã hội; thanh tra bộ có địa vị pháp lý tương đương với cấp tổng cục thuộc bộ và được ủy quyền TTCN theo phạm vi, trình tự, thủ tục nhất định; thanh tra sở có địa vị pháp lý tương đương cấp chi cục thuộc sở và được ủy quyền TTCN theo phạm vi, trình tự, thủ tục nhất định.
Thứ tư, quy định về chức danh làm công tác TTCN và chế tài kiểm soát đối với các chức danh này.
Người làm nhiệm vụ TTCN là thanh tra viên, được đào tạo, bổ nhiệm, cấp thẻ nghiệp vụ bảo đảm chặt chẽ, đây là lực lượng nòng cốt của cơ quan, tổ chức TTCN.
Bên cạnh các chức danh TTCN còn có lực lượng có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật chuyên ngành theo các quy định của pháp luật chuyên ngành và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như trên đã phân tích đây thực chất là hoạt động TTCN. Lực lượng này có đặc điểm là có trình độ chuyên môn sâu, có kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, vận hành hệ thống bảo đảm an toàn, an ninh chuyên ngành. Ví dụ, thanh tra việc bảo đảm an toàn kỹ thuật của tàu biển, phải có một nhóm kỹ sư chuyên sâu về vỏ tàu, điều khiển tàu biển, máy tàu biển và có trình độ ngoại ngữ tốt; thanh tra về bay, người làm thanh tra phải là phi công có kinh nghiệm, đang trong giai đoạn được năng định (kiểm tra đánh giá lại) theo tiêu chuẩn của ICAO.
Như vậy, pháp luật cần quy định mở rộng các chức danh thực hiện thẩm quyền TTCN, ngoài thanh tra viên chuyên trách có thanh tra viên kiệm nhiệm, thanh tra viên ủy quyền. Có quy định chặt chẽ việc quản lý đối với thanh tra viên chuyên ngành. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý hoạt động TTCN nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp, tham gia của con người vào quá trình thanh tra. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tài chính cho hoạt động TTCN, trong đó có kinh phí chi trả cho việc ủy quyền thanh tra, hợp đồng hành chính để hỗ trợ TTCN; quy định về quỹ hoạt động TTCN trên cơ sở các nguồn thu từ thu hồi qua hoạt động TTCN. Quỹ này sẽ sử dụng để phục vụ hoạt động tác nghiệp, khen thưởng trực tiếp cho người làm công tác TTCN.
Thứ năm, quy định nhằm đổi mới trình tự, thủ tục và quyền trong hoạt động thanh tra phù hợp với quản lý Nhà nước chuyên ngành.
Đổi mới phương thức và quy trình hoạt động TTCN, phải đổi mới toàn diện từ hình thức, phương pháp thanh tra đến công tác hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thanh tra trong toàn ngành; đổi mới các hình thức thực hiện thẩm quyền thanh tra; quy trình, trình tự, thủ tục thực hiện các cuộc TTCN, xử lý vi phạm và đưa ra các yêu cầu, khuyến cáo.
Đề cao vai trò chỉ đạo, định hướng hoạt động TTCN của người đứng đầu bộ quản lý Nhà nước chuyên ngành; sử dụng các hình thức TTCN phù hợp với đặc điểm, tính chất quản lý CN và đối tượng quản lý; xây dựng hệ thống quy trình thanh tra phù hợp với từng nội dung, tính chất chuyên ngành và hình thức TTCN. Ví dụ, ngành lao động khác với ngành GTVT; ngành môi trường khác với ngành y tế, giáo dục…;
Thiết lập quy trình bảo đảm tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên, người trực tiếp thực hiện quyền thanh tra, xử lý vi phạm, đưa ra yêu cầu, khuyến cáo (hoạt động tác nghiệp) khi tiến hành TTCN.
Thứ sáu, quy định về quản lý Nhà nước và phân cấp quản lý Nhà nước về TTCN.
Thanh tra Chính phủ giúp Chính phủ quản lý Nhà nước chung về thanh tra, trong đó có thanh tra chuyên ngành. Tham mưu thiết kế nguyên tắc về những vấn đề chung của TTCN, nguyên tắc, cơ chế hoạt động TTCN; chức danh thực hiện thẩm quyền TTCN…;
Bộ trưởng bộ quản lý chuyên ngành có chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động TTCN, quy định cụ thể về thầm quyền, quy trình, trình tự, thủ tục hoạt động TTCN đối với từng nội dung quản lý, thậm chí là đối tượng quản lý nhất định; tổ chức lực lượng làm công tác TTCN trong phạm vi quản lý được giao.
Tóm lại, để phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý Nhà nước chuyên ngành, chế định về TTCN rất cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Chế định về TTCN hoàn thiện theo hướng đổi mới như đề xuất trên, thiết nghĩ không chỉ góp phần tăng cường quản lý Nhà nước mà còn nâng cao trách nhiệm tự kiểm soát của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cho xã hội, đồng thời tạo điều kiện để xã hội tham gia cùng Nhà nước quản lý, quản trị xã hội, giảm gánh nặng chi ngân sách và đồng thời góp phần xây dựng Nhà nước kiến tạo, phát triển./.
TS.Trần Văn Trường
Phó Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải
Chú thích:
(1) Báo cáo Tổng kết 10 năm thi hành Luật Thanh tra 2010 của Thanh tra Chính phủ.
(2) Điều 86 Luật Giao thông đường bộ; Điều 11 Bộ Luật Hàng hải; Điều 9 Luật Hàng không; Điều 201 Luật Đất đai và còn nhiều Luật, Bộ luật khác;
(3) Kiểm tra trong tất cả các lĩnh vực quản lý chuyên ngành (GTVT, Y tế, Giáo dục, Môi trường…); giám sát an toàn trong hàng không, hàng hải theo IMO, ICAO; giám sát an toàn lao động theo ILO; kiểm tra nhà nước cảng biển theo IMO…;
Hoàn Thiện Pháp Luật Thanh Tra Liên Ngành
Như vậy, yêu cầu đặt ra là cần thiết phải phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động thanh tra nhằm giải quyết tổng thể, cùng lúc nhiều vấn đề của quản lý nhà nước, hạn chế những chồng chéo, trùng lặp, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng thanh tra, nhất là doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính.
Để làm rõ những vấn đề nêu trên, chúng ta cùng xem xét những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật thanh tra liên ngành trong giai đoạn hiện nay trên cơ sở những nội dung sau:
1. Khái niệm thanh tra liên ngành
Hoạt động thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành bao gồm hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên ngành. Trong đó, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Như vậy, pháp luật về thanh tra không đưa ra khái niệm về thanh tra liên ngành.
Vậy, Thanh tra liên ngành là gì? Thanh tra liên ngành là thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành?
Như vậy, Thanh tra liên ngành là một phương thức thực hiện quyền thanh tra của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có sự phối hợp của các cơ quan quản lý các ngành, lĩnh vực do một cơ quan được giao chủ trì, các thành viên đoàn thanh tra được lấy từ hai hay nhiều ngành khác nhau nhằm đạt mục tiêu chung của cuộc thanh tra.
2. Quy định pháp luật thực định về thanh tra liên ngành
Về thẩm quyền thanh tra ban hành quyết định thanh tra liên ngành: theo quy định hiện hành thẩm quyền ra quyết định thanh tra liên ngành được pháp luật trao cho Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Về căn cứ ra quyết định thanh tra liên ngành: hoạt động thanh tra liên ngành được tiến hành trên cơ sở kế hoạch thanh tra hoặc được tiến hành thanh tra đột xuất khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật; theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao.
3. Thực trạng hoạt động thanh tra liên ngành hiện nay
– Về nội dung thanh tra tập trung chủ yếu ở một số lĩnh vực nóng, phức tạp: tài chính, đất đai, công thương, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm…
– Về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra liên ngành: Thực tiễn, thanh tra các bộ, ngành, địa phương cũng áp dụng trình tự thủ tục thanh tra hành chính trong họat động thanh tra liên ngành. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hoạt động liên ngành trên thực tế không áp dụng trình tự, thủ tục thanh tra hành chính, nhất là những hoạt động kiểm tra mang tính chuyên ngành như kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm tra kinh doanh văn hóa phẩm…
– Về việc giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra liên ngành: theo tinh thần chung của pháp luật hiện hành thì người ra quyết định thanh tra thực hiện việc giám sát hoặc giao cho Tổ giám sát, công chức thực hiện giám sát hoạt động Đoàn thanh tra liên ngành. Thực tiễn hoạt động giám sát tại các địa phương, hoạt động giám sát đối với Đoàn thanh tra liên ngành thường được thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước giao cho thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành hoạt động giám sát.
– Về việc thực hiện kết luận thanh tra liên ngành: do đặc thù hoạt động thanh tra liên ngành do thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước quyết định thành lập đoàn và kết luận. Do vậy, kết luận thanh tra thường được các cơ quan,tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện ngay không cần phải có văn bản chỉ đạo việc thực hiện kết luận như những kết luận thanh tra do cơ quan thanh tra ra quyết định và kết luận. Hơn nữa, kết luận liên ngành thanh tra do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ban hành nên thường có hiệu lực cao và đối tượng phải thi hành thường là cấp dưới nên việc chấp hành kết luận thanh tra thường được thực thi nghiêm túc hơn, hiệu quả cao hơn.
4. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật thanh tra liên ngành
a) Những kết quả đạt được và ưu điểm của hoạt động thanh tra liên ngành
– Việc thành lập và triển khai hoạt động thanh tra liên ngành đã giúp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giúp cho kết quả thanh tra phát hiện được nhiều sai phạm, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong việc triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước. Hoạt động thanh tra liên ngành đã thu hút được nhiều cán bộ, công chức có chuyên môn sâu công tác ở những ngành, lĩnh vực khác nhau tham gia vào Đoàn thanh tra.
– Kết quả của các cuộc thanh tra liên ngành, giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đánh giá những vấn đề có tính liên ngành được toàn diện, đầy đủ từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội nói chung và những vấn đề có tính liên ngành nói riêng.
– Hoạt động thanh tra liên ngành giúp nâng cao công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác thanh tra cũng như phối hợp trong việc thực hiện các kết luận, kiến nghị. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ nói chung và việc phối hợp trong việc giải quyết các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo mang tính liên ngành nói riêng.
– Hoạt động thanh tra liên ngành giúp giải quyết có hiệu quả những hạn chế, bất cập trong công tác thanh tra của các cơ quan thanh tra các bộ và thanh tra các cấp, nhất là hạn chế về việc thiếu vắng những cán bộ có trình độ chuyên môn sâu trong một số lĩnh vực tại các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính.
– Hoạt động thanh tra liên ngành đã giúp hạn chế tình trạng chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước nói chung và chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước với các cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm toán khác.
– Hoạt động thanh tra liên ngành giúp tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho các cơ quan nhà nước, tránh phiền hà cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
– Tăng cường ý thức trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành trong công tác quản lý nhà nước của mình. Hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng giúp cho các cơ quan chuyên ngành thấy được những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý nhà nước của mình từ đó có biện pháp khắc phục phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ công vụ của mình cũng như nâng cao hiệu quả công tác tham mưu cho các cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
b) Những hạn chế, bất cập về pháp luật việc thực hiện pháp luật về thanh tra liên ngành
– Về việc phối hợp thành lập Đoàn liên ngành: trong hoạt động thanh tra liên ngành, các cơ quan thanh tra thường được giao chủ trì và các cơ quan nhà nước khác phối hợp. Thời gian qua, việc phối hợp trong việc cử người tham gia Đoàn thanh tra liên ngành cũng gặp một số khó khăn do các cơ quan tham gia chưa nhận thức được hết vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt động thanh tra liên ngành nên nhiều trường hợp cử cán bộ không đủ năng lực, trình độ tham gia Đoàn thanh tra, làm giảm hiệu quả của hoạt động thanh tra liên ngành.
c) Nguyên nhân những hạn chế, bất cập
* Nguyên nhân khách quan
– Quy định pháp luật chưa hoàn thiện ;
– Có sự chồng chéo trong hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước ;
– Tổ chức thanh tra – thanh tra chuyên ngành còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, nhất là lực lượng thanh tra chuyên ngành còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng ;
– Điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan thanh tra còn nhiều khó khăn ;
– Quá trình chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm phát sinh nhiều quan hệ mới chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc chậm được điều chỉnh, hoạt động quản lý nhà nước nhà nước còn nhiều yếu kém nên làm phát sinh nhiều tiêu cực, tham nhũng;
– Quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước có sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, có tình trạng chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, nhưng sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chưa thực sự chặt chẽ ;
* Nguyên nhân chủ quan
– Thủ trưởng các cơ quan nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến công tác thanh tra nói chung và sự phối hợp với nhau trong việc thực hiện các Đoàn thanh tra liên ngành nói riêng.
– Việc áp dụng pháp luật thanh tra liên ngành còn thiếu thống nhất do nhận thức pháp luật và do những nguyên nhân khách quan về mặt pháp luật chưa quy định rõ ràng, đầy đủ về thanh tra liên ngành.
– Các cơ quan thanh tra, nhất là Thanh tra Chính phủ chưa sát sao, theo dõi, tổng kết thực tiễn để có sự hướng dẫn thống nhất trong việc thực hiện những quy định về thanh tra liên ngành.
– Năng lực, trình độ của đội ngũ công chức làm công tác thanh tra trong các cơ quan thanh tra nhà nước còn hạn chế.
– Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thanh tra chưa được thực hiện có hiệu quả.
5. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra liên ngành trong giai đoạn hiện nay
Để hoàn thiện pháp luật về thanh tra liên ngành, trên cơ sở những đánh giá về thực trạng pháp luật liên ngành và những bất cập đang đặt ra hiện nay, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
– Về tính chất của hoạt động thanh tra liên ngành: Theo pháp luật quy định hiện nay, hoạt động thanh tra liên ngành được hiểu là hoạt động thanh tra hành chính. Tuy nhiên, trong thực tiễn, hoạt động thanh tra liên ngành không chỉ được thực hiện đối với hoạt động thanh tra hành chính (hoạt động thanh tra hướng vào bộ máy) mà còn được thực hiện đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành (hoạt động thanh tra hướng tới các đối tượng quản lý bên ngoài bộ máy), nhất là những lĩnh vực thuộc quản lý của nhiều ngành. Do vậy, vấn đề này cần được ghi nhận và điều chỉnh trong các văn bản pháp luật.
– Về thành phần tham gia Đoàn thanh tra liên ngành: bao gồm đại diện của nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Do đó, phải quy định rõ vị trí, vai trò của các thành viên tham gia Đoàn thanh tra liên ngành và vai trò, vị trí của cơ quan có thành viên tham gia Đoàn thanh tra liên ngành. Trên cơ sở đó, các định trách nhiệm của các thành viên, trách nhiệm của cơ quan cử người tham gia đoàn thanh tra. Qua đó, sẽ nâng cao trách nhiệm pháp lý và phát huy vai trò của của các thành viên cũng như của các cơ quan tham gia Đoàn thanh tra liên ngành.
– Về trình tự, thủ tục tiến hành cuộc thanh tra liên ngành: Đoàn thanh tra liên ngành có sự tham gia của đại diện các cơ quan khác nhau. Do đó, ở một số giai đoạn trong trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra có những điểm khác biệt nhất định, cần phải có những quy định riêng để đảm bảo tính đặc thù này. Cụ thể: trong việc xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra cần gửi lấy ý kiến của cơ quan tham gia đoàn liên ngành; việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của thành viên được cử với cơ quan quản lý trực tiếp, hay trường hợp phải thay đổi thành viên đoàn thanh tra…
– Về giám sát đối với cuộc thanh tra liên ngành: Nội dung, phương thức giám sát của Thủ trưởng cơ quan đối với thành viên do mình quản lý được cử tham gia Đoàn liên ngành cũng cần có sự khác biệt so với Đoàn thanh tra thông thường: nội dung giám sát phải sâu hơn chứ không chỉ dừng lại ở việc giám sát tiến độ; phương thức giám sát phải hiệu quả hơn…
6. Một số kiến nghị, đề xuất
Một là, trong kế hoạch tổng kết thực hiện Luật Thanh tra thời gian tới, Thanh tra Chính phủ cần chỉ đạo tổng kết, đánh giá toàn diện về thực trạng thực hiện hoạt động thanh tra liên ngành tại các bộ ngành, địa phương, nắm bắt đầy đủ, toàn diện những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn để có cơ sở đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về thanh tra liên ngành.
Ba là, Thanh tra Chính phủ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư giám sát hoạt động Đoàn thanh tra trong đó có tính đến yếu tố đặc thù của Đoàn thanh tra liên ngành, đặc biệt chú ý đến vai trò, nội dung và phương thức giám sát của thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp thành viên Đoàn thanh tra liên ngành để đảm bảo sự giám sát phù hợp, hiệu quả.
Bốn là, Các bộ, ngành cần có xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu đối với đội ngũ công chức làm công tác thanh tra để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra và pháp luật về quản lý trong các lĩnh vực cho đội ngũ cán bộ, công chức và các đối tượng quản lý để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước.
TS. Nguyễn Văn Tuấn – Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế- Thanh tra Chính phủ/Viện Khoa học Thanh tra
Khái Niệm Giám Sát. Phân Biệt Giám Sát, Thanh Tra, Kiểm Tra
1. Khái niệm giám sát:
Giám sát là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, mà trong bộ máy Nhà nước chỉ có Quốc hội và HĐND mới có chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật. Chức năng giám sát của HĐND được cụ thể hóa qua các hoạt động giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử. Hoạt động giám sát của HĐND được quy định rõ trong nhiệm vụ quyền hạn của HĐND là giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết HĐND; giám sát hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Ban HĐND cấp mình; giám sát văn bản QPPL của UBND cùng cấp và văn bản của HĐND cấp huyện.
2. Đặc tính của giám sát :
+ Giám sát là hành vi, hoạt động của chủ thể thực hiện việc theo dõi đối tượng bị giám sát trong một khoảng thời gian nhất định( quá trình theo dõi đối tượng bị giám sát) từ đó xem xét, đánh giá hoạt động của đối tượng bị giám sát tuân thủ những mục tiêu, quy định đã đặt ra; + Giám sát có chủ thể thực hiện việc giám sát và đối tượng bị giám sát + Giám sát là việc xem đối tượng bị giám sát có thực hiện đúng nội dung và mục tiêu( Tiêu chí, quyết định định trước) hay không. – Giám sát và thanh tra, kiểm tra là một trong 4 công đoạn của công tác quản lý cũng như việc thực hiện một quyết định quản lý. Công tác quản lý gồm 4 giai đoạn: Giải đoạn ban hành quyết định quản lý ( đối với QH thì ban hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết); tiếp đến là giai đoạn tổ chức thực hiện quyết định quản lý; để biết việc tổ chức thực hiện quyết định quản lý đến đâu, tốt, xấu thế nào, có cần điều chỉnh gì không thì phải có giám sát, thanh tra, kiểm tra; Sau khi tiến hành giám sát, thanh tra, kiểm tra phát hiện đối tượng bị giám sát, kiểm tra, thanh tra chưa làm đúng, có khiếm khuyết thì phải có cưỡng chế( chế tài bắt buộc đối tượng bị giám sát phải thực hiện cho đúng) hoặc phải có chỉnh sửa quyết định quản lý cho phù hợp. Nếu bạn đang gặp khó khăn hay vướng mắc về viết luận văn, khóa luận hay bạn không có thời gian để làm luận văn vì phải vừa học vừa làm? Kỹ năng viết cũng như trình bày quá lủng củng?… Vì vậy bạn rất cần sự trợ giúp của dịch vụ làm đồ án thuê TpHCM. Hãy gọi ngay tới tổng đài tư vấn luận văn 1080 – 096.999.1080 nhận viết luận văn theo yêu cầu, đảm bảo chuẩn giá, chuẩn thời gian và chuẩn chất lượng, giúp bạn đạt được điểm cao với thời gian tối ưu nhất mà vẫn làm được những việc quan trọng của bạn.
3. Phân biệt giám sát, thanh tra, kiểm tra
+ Những đặc điểm giống nhau của giám sát, thanh tra, kiểm tra bao gôm: Thứ nhất đều là cung đoạn thứ 3 trong quá trình quản lý, thực hiện quyết định quản lý; Thứ hai cùng có mục tiêu là để xem đối tượng bị giám sát, kiểm tra, thanh tra là có làm đúng hay không đúng mục tiêu, quy định đã định trước của việc quản lý, quyết định quản lý; Thứ ba là đều diễn ra trong một khoảng thời gian, không gian nhất định; Thứ tư là hành vi, hoạt động cũng được tiến hành theo 3 công đoạn nối tiếp nhau: Thu thập thông tin, chứng cứ; tập hợp phân tích thông tin, chứng cứ thu thập được; Đánh giá và kết luận. + Những điểm khác nhau của giám sát, thanh tra, kiểm tra bao gồm: Thứ nhất là khác nhau về chủ thể tiến hành; Thứ hai là mức độ, cường độ tác động vào hành vi, hoạt động của đối tượng bị giám sát, kiểm tra, thanh tra: giám sát thì chỉ theo dõi; kiểm tra, thanh tra thì cụ thể, tỷ mỉ, chi tiết kiểu vạch lá xem sâu (Kiểm tra thì thường xuyên, thanh tra thì không thường xuyên, trên một cơ sở nào đó); Thứ ba là kiểm tra, thanh tra là cơ sở để thực hiện giám sát, đồng thời là biện pháp để giám sát đối tượng bị giám sát thực thi nhiệm vụ, hoạt động tốt hơn, chính xác hơn. Trong quá trình giám sát có thể tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra để đối chiếu về những nhận định, nhận xét và từ đó đưa ra các đánh giá.
4. Vai trò giám sát trong quản lý
Giám sát cũng như thanh tra, kiểm tra là công cụ để người quản lý sử dụng theo dõi, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, chức năng của đối tượng bị giám sát, thanh tra, kiểm tra. Qua giám sát, thanh tra, kiểm tra người quản lý mới biết được tiến độ thực hiện, chất lượng thực hiện, những ưu, khuyết điểm của đối tượng bị giám sát, kiểm tra, thanh tra trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ đồng thời qua đó cho người quản lý biết được quyết định quản lý có những tồn tại gì, để trên cơ sở đó sửa đổi bổ sung hoặc có các chế tài buộc đói tượng bị giám sát có các biện pháp thích hợp để thực hiện cho tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Tóm lại, vai trò giám sát trong quản lý là để: +Giúp người quản lý biết một cách tổng thể quyết định đó đã thực hiện đến đâu; + Giúp người quản lý biết ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân tại sao quyết định đó không được thi hành triệt để, chưa đạt kết quả; + Giúp người quản lý quyết định các biện pháp để buộc đối tượng bị giám sát hoặc ra quyết định bổ sung, sửa chữa quyết định đã ban hành để thực hiện mục đích quản lý nêu ra. + Giúp người quản lý quyết định việc có tiếp tục thực hiện mục tiêu của quyết định trước đó hay không. Nếu không có giám sát, chủ thể quản lý không thể có được những hành động phù hợp để thực hiện được ý đồ, mục tiêu đặt ra.
5. Giám sát và giám sát chuyên đề
Giám sát có thể được chia ra nhiều loại giám sát khác nhau, nhưng phân theo nội dung ta có thể chia giám sát thành giám sát chung và giám sát chuyên đề. Giám sát chung và giám sát chuyên đề có mối quan hệ khăng khít với nhau. Ví du: Giám sát các vấn đề xã hội mang tính giám sát chung có nội dung rất rộng bao hàm nhiều vấn đề, chuyên đề khác như: giáo dục, dân số, lao động việc làm, phòng chống tệ nạn xã hội … Nội dung giám sát chuyên đề là nội dung cụ thể của nội dung giám sát chung. Kết quả giám sát chuyên đề là cơ sở để thực hiện giám sát chung. Ví dụ : giám sát chuyên đề về khám chữa bệnh cho nhân dân; giám sát chuyên đề về xoá đói giảm nghèo; giám sát về lao động việc làm, xuất khẩu lao động …Hay nói cách khác là giám sát chuyên đề là hoạt động giám sát cụ thể, giám sát với phạm vi hẹp hơn về nội dung cũng như không giam, thời gian. Giám sát chung thì có giám sát nội dung chung nhưng không chế trong một khoảng thời gian ví dụ: giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về các vấn đề xã hội trong nhiệm kỳ QH khoá XI, nghĩa là các hoạt đọng giám sát tập trung vào các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về các vấn đề xã hội từ đầu nhiệm kỳ đến nay, không xem xét các hoạt động thực hiện pháp luật về các vấn đề xã hội trước đó. Nhưng ở đây lưu ý một vấn đề giám sát chung này có thể là giám sát cụ thể của hoạt động giám sát chung khác; Ví dụ giám sát chung về tình hình khám chữa bệnh cho nhân dân( với tính chất chung) trong đó sẽ có những giám sát cụ thể, giám sát chuyên đề như: Giám sát hoạt động cung cấp thuốc chưa bệnh , giám sát công tác vệ sinh, xử lý chất thải trong bệnh viện, cơ sở y tế … Đối với giám sát về các vấn đề xã hội thì giám sát khám chưa bệnh là giám sát chuyên đề, giám sát cụ thể, nhưng đối với giám sát việc cung cấp thuốc chưa bệnh; giám sát công tác vệ sinh, xử lý chất thải trong bệnh viện thì lại là hoạt động giám sát chuyên đề của giám sát vấn đề khám chưa bệnh cho nhân dân. Do đó việc phân biệt, chia giám sát thành giám sát chung và giám sát chuyên mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tiến hành giám sát, nội dung , mức độ giám sát mà chủ thể đặt ra. Nếu chủ thể chỉ đòi hỏi theo dõi một cách tổng quát, những đánh giá chính, chủ yếu thì đó là giám sát chung, còn nếu chủ thể đòi hỏi thật đầy đủ, cụ thể thì đó lại là giám sát chuyên đề, giám sát cụ thể. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định đối tượng nội dung giám sát cho phù hợp với yêu cầu của chủ thể giám sát. Qua giám sát chung có thể là cơ sở để chủ thể giám sát quyết định tiến hành giám sát chuyên đề. Kết quả giám sát chuyên đề là một trong những thông tin để chủ thể thực hiện giám sát chung. Kết quả giám sát chuyên đề giúp cho chủ thể tiến hành giám sát chung khẳng định một cách chính xác hơn về đánh giá của mình đối với đối tượng bị giám sát, từ đó đưa ra được những biện pháp tác động phù hợp. Còn giám sát chuyên đề có thể đứng độc lập, tuỳ thuộc vào ý chí của chủ thể tiến hành hoạt động giám sát khi nhận thấy cần tiến hành giám sát chuyên đề. QH thực hiện quyền giám sát tối cao, giám sát các vấn đề lớn, có nội dung rất rộng, phức tạp nên thường mang tính giám sát chung, việc tác động đến đối tượng bị giám sát thường không cụ thể, biện pháp khắc phục đưa ra cũng thường chung chung ít có tác dụng. Trong giai đoạn trước khi có Hiến pháp 1992, Quốc hội, các cơ quan của QH thường tiến hành các hoạt động giám sát chung, nội dung đưa ra để giám sát thường rất rộng nên hiệu quả không mang lại thiết thực. Từ sau khi có Hiến pháp 1992 và tiến trình đổi mới hoạt động của Quốc hội, ngoài việc tiến hành các hình thức giám sát chung như nghe báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, 5 năm; nghe báo cáo tình hình hoạt động của Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao và báo cáo tình hình hoạt động của một số cơ quan khác…, qua nghe báo cáo như vậy, QH đưa ra những đánh giá, nhận xét chung chung( do nội dung quá lớn khó có thể đnha giá một cách đầy đủ, chính xác) đồng thời cũng đề ra những biện pháp chung chung ( do nhận xét chung nen không thể đưa ra các biện pháp cụ thể được) nên nhiều vấn đề bức xúc vẫn tồn tại trong thời gian dài mà không được khắc phục, hiệu quả, uy lực, uy tín của QH bị giảm sút. Từ thực tiễn tiến hành giám sát chung chung, giảm uy tín như vậy, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã dần dần tiến hành cải tiến hoạt động giám sát, tăng cường thêm nhiều hoạt động giám sát chuyên đề, giám sát với nội dung, đối tượng bị giám sát ngày càng cụ thể hơn. Chính từ đó hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã có tác động tích cực vào quá trình thực hiện chính sách và pháp luật, góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, uy tín của QH- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất dần dân lấy lại được lòng tin của cử tri, của nhân dân. + iasb là gì + tăng trưởng kinh tế + kinh doanh thương mại là gì Tham khảo dịch vụ của luanvan1080: Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc làm bài Assignment, Essay, Dissertation. Bạn cần đến dịch vụ viet thue Assignment để giúp mình xóa bỏ những rắc rối về lỗi gây ra khi không sử dụng thành thạo phần mềm này? Khi gặp khó khăn về vấn đề làm bài Assignment, Essay, Dissertation, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.
Định Nghĩa Payment System / Hệ Thống Thanh Toán Là Gì?
Khái niệm thuật ngữ
Hệ thống thanh toán tài chính tạo phương tiện chuyển tiền giữa các nhà cung cấp và người sử dụng tiền, thường bằng cách trao đổi ghi nợ hay ghi có các định chế tài chính. Cũng được biết như cơ chế thanh toán. Các chi hiếu và hối phiếu thông thường được xem như hệ thống thanh toán dựa trên chứng từ; chuyển tiền điện tử, như ghi nợ và ghi có của trung tâm thanh toán bù trừ tự động, và chuyển tiền theo Vô Tuyến của Fed, được xem như hệ thống thanh toán điện tử hay hệ thống thanh toán không chứng từ.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Hoàn Thiện Chế Định Thanh Tra Chuyên Ngành Trong Hệ Thống Pháp Luật Về Thanh Tra trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!