Cập nhật nội dung chi tiết về I. Sự Ra Đời Và Các Thời Kỳ Của Triết Học Hy Lạp mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
I . Sự ra đời và các thời kỳ của triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại
1. Sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
a) Điều kiện kinh tế, xã hội dẫn đến sự ra đời triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp và La Mã đại diện cho thế giới phương Tây cổ đại, trong đó Hy Lạp là chiếc nôi của văn minh phương Tây. Lãnh thổ Hy Lạp xưa kia rộng lớn hơn so với hiện nay gấp nhiều lần, bao gồm phần đất liền cùng vô số hòn đảo trên biển Egiê, vùng duyên hải Bancăng và Tiểu Á. Từ cuộc di thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII – VI TCN, người Hy Lạp chiếm thêm miền nam Ý, đảo Xixin, vùng ven biển Đen, lập nên Đại Hy Lạp. Những cuộc viễn chinh toàn thắng của Alếchxăngđơ xứ Maxêđoan vào cuối thế kỷ IV TCN đã đưa đến sự ra đời các quồc gia Hy Lạp hóa trải rộng từ Xixin ở phía Tây sang An Độ ở phía Đông, từ biển Đen ở phía Bắc đến khu vực tiếp giáp sông Nin ở phía Nam. Tuy nhiên trung tâm của Hy lạp cổ đại, trải qua bao thăng trầm, vẫn là vùng biển Egiê, nơi nhà nước và nền văn hóa Hy Lạp đạt tời sự phồn thịnh cao nhất của mình. Nơi đây những nền móng đầu tiên của tri thức khoa học và triết học đã hình thành từ rất sớm.
Vào thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN) ở Hy Lạp đã chớm bắt đầu quá trình tan rã của công xã thị tộc, được thúc đẩy bởi sự phân công lao động, diễn ra trong nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi. “Pôlít” (Polis), khái niệm dùng để xác định nhà nước đặc trưng của người Hy Lạp dưới hình thức các thị quốc (thành bang), vào thời Hôme chỉ là những cụm dân cư, tương đối độc lập, có thành lũy bao bọc xung quanh. Song sự phân hóa xã hội cũng đã bắt đầu và ngày càng trở nên gay gắt. Bước sang thế kỷ VIII TCN kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục phát triển với nhịp độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nông và tiến những bước đáng kể. Hình thức tổ chức quyền lực mang tính nhà nước đã xuất hiện, thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng cũng tạo nên sự phân hóa sâu sắc trong đời sống xã hội. Sự hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình vượt biển tìm đất mới, dẫn đến những cuộc di thực ồ ạt, xâm chiếm các khu vực làng giềng, bắt người làm nô lệ.
Tóm lại, sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của nền kinh tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các lực lượng xã hội, sự thôn tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế độ công xã thị tộc, là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến chỗ suy vong, và bị thay thế bởi một thiết chế xã hội mới, phù hợp với những quan hệ xã hội mới. Nói cách khác, nhà nước đã ra đời như một tất yếu trên con đướng phát triển lịch sử của nhân loại. Ph. Ăngghen viết:”Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định”.
Cùng với sự hình thành các thị quốc, nền văn hóa mới cũng được xác lập, trở thành bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thàn ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù đạo đức – chính trị cao qúy nhất…Sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy lạp là sự kế thừa các giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo, trong những mầm mống của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành tố không tách rời của nền văn hóa mới ấy.
Như vậy, sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ diễn ra cùng với những biến đổi chăn bản trong ý thức, trước hết là nhu cầu lý giải nghiêm túc những vấn đề tự nhiên, xã hội. Triết học ra đời theo Arixtốt, làm cho sự ngạc nhiên trước thế giới rộng lớn và bí hiểm được giải quyết bằng những nỗ lực của lý trí truy tìm nguyên nhân đích thực của vạn vật. Theo sử liệu học Pitago (570 – 496 TCN), hoặc có thể Hêraclít (khoảng 544 – khoảng 483 TCN),là người đầu tiên tự gọi mình là philosophos, sau đó xuất hiện thuật ngữ philosophia, dịch thành triết học, mặc dù Talét (khoảng 624-547 TCN) mới là triết gia đầu tiên của Hy Lạp. Như vậy “Philosophia” (philo – yêu mến, sophia – sự thông thái) biểu thị khát vọng của con người vươn tới hiểu biết thực sự về mối quan hệ giữa con người với thế giới và với chính mình, vượt qua ảnh hưởng của tư duy huyền thọai, đi vào chiều sâu nhận thức thông qua khái niệm ngày càng đạt được tính trừu tượng hóa cao.
b) Con đường từ tư duy biểu tượng đến tư duy khái niệm, hay tiền đề tinh thần của triết học
Ngạc nhiên làm nảy sinh triết lý, triết lý của con người về thế giới ở buổi đầu lịch sử thể hiện trong huyền thoại, nhất là trong các câu chuyện thần thoại và sinh hoạt tín ngưỡng nguyên thuỷ. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh.
Thần thoại (xuất phát từ tiếng Hy Lạp mythologia, trong đó mythos là câu chuyện, truyền thuyết, logos là lời nói, học thuyết) là hình thức tư duy phổ biến của người nguyên thủy, cùng với thuyết nhân hình, vật linh thuyết, vật hoạt luận…Trong thần thoại các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và tưởng tượng, tự nhiên và siêu nhiên còn chưa bị phân đôi. . Tuy nhiên tư duy huyền thoại cũng trải qua những bước phát triển nhất định, thể hiện sự phát triển của ý thức. Có thể nhận thấy điều này trong thần thoại Hy Lạp. Đỉnh cao của thần thoại cũng cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc hơn của con người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN) với việc xóa bỏ dần hố sâu ngăn cách giữa thần và người, nêu ra các ý tưởng sơ khởi về hỗn mang, về các hành chất, về nguồn gốc thế giới, và cả những thông điệp của con người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu hướng này được tiếp tục ở Hêsiốt. Trong “Thần hệ” của Hêsiốt các trạng thái vũ trụ được mô tả thông qua các thế hệ thần linh, từ Hỗn mang đến thần Dớt – biểu tượng của trật tự, ánh sáng và sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng Prômêtê lấy trộm lửa của thần Dớt đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa sâu xa: lửa – biểu tượng của sức mạnh và lý trí – không còn là đặc quyền của thần linh như trước, mà đã cố hữu nơi con người. Con người trở nên tự chủ hơn trong quan hệ với thế giới xung quanh.
Vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI TCN, các thị quốc bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và sự ra đời đồng tiền kim khí đã tạo nên những biến đổi lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở bình diện văn hóa tinh thần “bảy nhà thông thái” xuất hiện, mở đường cho một nền triết học thực sự. Trong số họ Talét được Arixtốt gọi là nhà triết học đầu tiên của thế giới phương Tây.
Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hêghen, là con đường đi từ lý tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tượng đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm (G. W. F. Hêghen,toàn tập, t. IX, Moskva, 1934, tr. 14 ). Triết học ra đời không có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, nhưng được xem xét ở bình diện khác – bình diện giá trị. Đằng sau những câu chuyện thần thoại là cả một triết lý sống, thể hiện những chuẩn mực, những giá trị, những bài học đạo đức, nhân văn.
c) Ảnh hưởng của văn hoá phương Đông đến sự hình thành tư duy triết học và khoa học Hy Lạp
Trong quá trình xây dựng các học thuyết triết học và khoa học người Hy Lạp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc phương Đông, vốn hình thành sớm hơn, đồng thời tạo cho mình một phong cách và sắc thái tư duy độc đáo, tạo nên truyền thống đặc trưng được tiềp tục bổ sung, phát triển ở các thời đại sau.
Thông qua những chuyến vượt biển tìm đất mới, quan hệ buôn bán, giao lưu, người Hy Lạp tiếp thu chữ viết, thành quả khoa học, và cả yếu tố huyền học (occultism) ở các nền văn minh phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đông và Bắc Phi. Chữ viết tượng hình xuất hiện tại Ai Cập, Mesopotamie và một số dân tộc khác từ khoảng 2700 TCN. Đến thế kỷ VIII TCN người Phenicie, sau đó người Hy Lạp tiếp thu, cải biến và hoàn thiện thêm. Các lĩnh vực tri thức ở phương Đông như toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp, các mầm mống của y học, các khoa học về sự sống đáp ứng phần nào khát vọng khám phá của người Hy Lạp, do đó được họ đón nhận một cách nhiệt tình, thúc đẩy quá trình hình thành những phác thảo đầu tiên về thế giới quan vào thế kỷ VII – VI TCN. . Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp đều có kiến thức khoa học vững vàng nhờ thường xuyên giao lưu với phương Đông dưới các hình thức khác nhau. Người Ai Cập tính được số pi, diện tích hình tam giác, hình chữ nhật,, hình thang, hình bình hành, hình tròn. Hệ thống lịch pháp được xác lập vào đầu thiên niên kỷ II TCN. Từ phát minh của người Ai Cập ra cách tính thời gian một năm (365 + ¼ ngày đêm) sớm nhất thế giới, Babylon hoàn thiện thêm một bước về tháng bổ sung, để đưa năm âm lịch (12 tháng với 354,36 ngày đêm) đến gần với năm dương lịch (365,24 ngày đêm). Cách tính giời hiện nay cũng cũng xuất phát từ cách tính của Babylon. Tuy nhiên, dù đi trước Hy Lạp ở trình độ phát triển, song tại các nước phương Đông láng giềng triết học đúng nghĩa vẫn chưa xuất hiện. Ở phương diện lý luận tại Ai Cập và Babylon các yếu tố huyền học và thuật chiêm tinh đan xen với các mầm mống của triết lý vũ trụ, nhân sinh, nhưng mặt thứ hai này còn khá mờ nhạt, bị lấn át bởi cách tiếp cận nhân hình hóa. Tại Babylon chiêm tinh chiếm vị trí cao trong thang bậc tinh thần, nhà chiêm tinh được tham dự vào cả công việc triều chính, giúp nhà vua vạch ra các kế hoạch đối nội, đối ngoại, tiến cử nhân sự. Tại Ai Cập, những pho tượng khổng lồ đầu người mình thú, đặt bên cạnh những kim tự tháp uy nghi, tráng lệ, cho thấy người Ai Cập quan tâm đến thế giới “bên kia” vĩnh cửu. Với thời gian, trong tư duy của người Ai Cập xuất hiện một số cách ngôn chứa đựng các yếu của chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa khắc kỷ cổ sơ, như “Tôi là tôi”, “Đã vào cõi tử làm sao trở về”, “Đừng uổng phí thời gian”. Những cách ngôn đó bị xã hội xem là báng bổ thế giới thiêng liêng. Tại Babylon, sau thời kỳ hưng thịnh, những đô thị giàu có và sa đoạ bắt đầu suy vong, và sau cùng lùi về dĩ vãng. Sự kiện Babylon sa đoạ và sụp đổ đã được nêu ra trong Kinh Thánh Kytô giáo.
Các yếu tố huyền học, khi được du nhập vào Hy Lạp, chúng vẫn phải đóng vai trò giá đỡ cho tinh thần phóng khoáng, tự do của người Hy Lạp. Liên minh Pitago là một điển hình. Ở đó các yếu tố duy tâm, tôn giáo, vốn được tiếp thu từ phương Đông, không che khuất các yếu tố khoa học, duy lý. Có thể khẳng định rằng, dù đi sau phương Đông về văn minh, nhưng Hy Lạp không đơn giản làm công việc của người kế thừa. Ngược lại, sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp là kết quả phát triển nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện sinh động trong huyền thoại, trong văn hóa, trong tín ngưỡng nguyên thủy, chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế và xã hội. Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tinh thần phương Đông, người Hy Lạp tạo nên phong cách tư duy đặc trưng của mình, trở thành cái nôi của triết học và khoa học phương Tây. Vào năm 525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm chiếm. Ach thống trị của Ba Tư đã đẩy văn minh Ai Cập, cũng như Babylon trước đó, lùi về phía sau, nhưng ngọn lửa trí tuệ đã được nhen nhóm lên và rực sáng ở một vùng đất khác.
2. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại
Triết học Hy Lạp – La Mã trải qua ba chặng đường lớn, phản ánh sự hình thành, phát triển, khủng hoảng và sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn, hay thời kỳ Hy Lạp – La Mã, bắt đầu từ thế kỷ III TCN đến thề kỷ V CN. Thời kỳ Hy Lạp hóa được bắt đầu từ khi Alécxanđơ xứ Maxêđoan thông qua các cuộc viễn chinh đã phổ biến Ảnh hưởng của Hy Lạp ở phương diện chính trị lẫn văn hóa đến các nước trong vùng. Tinh thần Hy Lạp hoá đó vẫn tiếp tục lan truyền ngay cả khi Hy Lạp bị mất chủ quyền về tay La Mã (khoảng 143 TCN). La Mã đô hộ Hy Lạp về quân sự và chính trị, nhưng về văn hóa Hy Lạp đã Ảnh hưởng một cách tích cực đến La Mã và toàn bộ đế chế La Mã. Những thành tựu văn hóa, khoa học của Hy Lạp được dịp phổ biến rộng rãi, từ từ khu vực Địa Trung hải đến Bắc Phi và vùng Trung Cận Đông; tiếng Hy Lạp được sử dụng chính thức. Nét đặc trưng của triết học thời kỳ hậu Hy Lạp là bên cạnh những vấn đề phổ quát, siêu hình, các triết gia chú trọng nhiều hơn đến thế giới nội tâm của cá nhân, tìm kiếm phương thức giải thóat khỏi những vướng bận của đời thường, hoặc chủ trương đối thoại giữa con người với vũ trụ, thần linh. Trừ phái Êpiquya, phần lớn các nhà triết học thời kỳ Hy Lạp hóa là những người đề cao vai trò của thần trong đời sống tâm linh của con người.
Sự khủng hoảng của tư tưởng triết học Hy Lạp – La Mã xuất phát từ bản chất của chế độ chiếm hữu nô lệ, khi một bộ phận quần chúng đông đảo trong xã hội bị tướt bỏ quyền làm người, đưa đến những xung đột gay gắt, những cuộc khởi nghĩa của nô lệ và những cuộc chiến tranh triền miên. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của Kytô giáo (Christianity, Christianisme), với tư cách là tôn giáo nhất thần, thay thế tôn giáo đa thần, với thuyết giáo và biểu tượng mới, cũng góp phần báo trước cái chết tất yếu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Ở buổi đầu lịch sử Kytô giáo là tôn giáo của quần chúng bị áp bức, chống lại ách thống trị của đế chế La Mã bằng hình thức ôn hòa, tuyên truyền cho lối sống dân chủ, bình đẳng, không phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, nam nữ, trở thành chỗ dựa, hay liệu pháp tâm lý, tinh thần của nô lệ và người nghèo. Sau hai thế kỷ bị đàn áp, năm 324 Kytô giáo được công nhận là quốc giáo. Từ thời điểm này, nó trở thành một định chế vững vàng trong xã hội đang đi vào qũy đạo của chế độ phong kiến. Năm 476 Tây bộ đế quốc La Mã bị sụp đổ do những mâu thuẫn bên trong và sự tấn công của các sắc tộc “man di”từ phương Bắc. Năm 529 trường phái Platôn tại Aten chính thức bị đóng cửa, chấm dứt một thiên niên kỷ tồn tại và phát triển của triết học cổ đại Hy Lạp – La Mã, triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ. Phong cách tư duy Hy Lạp – La Mã được thay thế bằng phong cách tư duy dựa vào một hệ quy chiếu duy nhất, chịu sự chi phối của Kinh Thánh ở bình diện thế giới quan, nhận thức luận và nhân sinh – xã hội. Triết học Kytô giáo chiếm vị trí độc tôn trong sinh hoạt tư tưởng, tinh thần, thủ tiêu đa nguyên triết lý, vốn là đặc trưng của tư duy cổ đại.
Triết Học Hy Lạp Cổ Đại
1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Hy Lạp cổ đại
1.1. Trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ mà ngày nay người ta biết được thì nền văn minh Hy Lạp – La Mã xuất hiện muộn hơn cả, nhưng nó lại rất phong phú, đặc biệt là về triết học. Điều đó có thể giải thích bằng tính chất điển hình của chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây. Hy Lạp và La Mã đã có một chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển tới hình thức cao, mang tính chất điển hình, biểu hiện ở các điểm sau đây:
– Sự phân hoá giai cấp trong xã hội hết sức rõ rệt thành hai giai cấp chủ yếu là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Nô lệ có số lượng đông đảo trong xã hội và sống tập trung (có tài liệu cho biết: vào thế kỷ IV. chúng tôi A – ten có số dân là 34 vạn, thì 25 vạn là nô lệ).
– Nô lệ là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội (trong sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và mậu dịch hàng hải).
– Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ ngày càng gay gắt đã làm cho mức độ ác liệt của cuộc đấu tranh giữa nô lệ với chủ nô ngày càng tăng (tiêu biểu là cuộc nổi dậy của Xpác-ta-cu-xơ vào năm 70 tr.CN). Giai cấp chủ nô cũng phân hoá thành chủ nô quý tộc và chủ nô dân chủ. Chủ nô quý tộc gắn liền với sản xuất nông nghiệp, bảo thủ và chuyên chế. Chủ nô dân chủ gắn liền với công thương nghiệp, tiến bộ hơn, thường đề xuất những chủ trương dân chủ chống lại chủ nô quý tộc. Cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học duy vật và duy tâm thời cổ đại Hy Lạp – La Mã chủ yếu là cuộc đấu tranh giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
– Tính chất chuyên chế của bộ máy nhà nước chủ nô thường xuất hiện dưới hình thức các thành bang (quốc gia thành thị). Nhà nước được tổ chức theo kiểu cộng hoà hay dân chủ; các kiểu nhà nước này đều là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô.
1.2. Chế độ chiếm hữu nô lệ Hy Lạp ra đời từ thế kỷ VI chúng tôi và suy tàn vào thế kỷ V. Sự phát triển của nó đã mở rộng sự phân công xã hội, tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay, tạo điều kiện cho tầng lớp trí thức chủ nô nghiên cứu triết học, khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật. Hơn nữa, qua cuộc chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư, nền văn hoá Hy Lạp – La Mã đã kế thừa được nhiều thành tựu văn hoá của phương Đông.
Về văn học, sớm nhất là Ome (Homère). Về sử học, nổi tiếng nhất là nhà chép sử Hêrôđốt (Hérodote). Về toán học và thiên văn học, có Talét (Thalès), Pitago (Pythagore), Ơclít (Euclide). Về vật lý học, có Acsimét (Archimède). Về y – sinh học, có Híppôcrát (Hippocrate). Về điêu khắc, có đền Páctênôn (Parthénon) của nhà điêu khắc Phiđiát (Phiđias). Về kiến trúc, có tượng thần Vệ nữ (Venus) của Praxiten. Về hội hoạ, có bức Maratông trong chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư v.v.
Tất cả những tiền đề kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật nói trên là những điều kiện cho sự phát triển rực rỡ của triết học cổ Hy Lạp. Như Ăng-ghen nói, nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng không có nhà nước Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp.
2. Sự hình thành, phát triển và suy tàn của triết học Hy Lạp cổ đại
Lịch sử triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật của Đê-mô-crít và đường lối duy tâm của Pla-tôn.
2.1. Thời kỳ thứ nhất (thế kỷ VI tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ mới hình thành. Do sự phát triển của sản xuất, thế giới quan cũ có tính chất tôn giáo, thần thoại dần dần nhường chỗ cho những hiểu biết khoa học về con người, về vũ trụ. Trên cơ sở đó, triết học với tư cách là một khoa học bao quát mọi tri thức (khoa học của khoa học) ra đời.
a. Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy Lạp) là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu tiên, vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là không khí.
Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản nguyên của vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh ra vạn vật.
b. Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại có những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế giới là một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên của vũ trụ (trường phái Pitago).
2.2. Thời kỳ thứ hai (bắt đầu từ thế kỷ V. tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ phồn vinh của triết học cổ đại Hy Lạp. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu của triết học được mở rộng sang các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức luận và đời sống chính trị. Trong đó, kết cấu của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều trường phái triết học.
a. Theo khuynh hướng duy vật. Ămpeđôclơ cho rằng, bản nguyên của vũ trụ không phải chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà là gồm 4 thực thể: đất, nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu tạo từ hạt cực nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng.
Đạt tới đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít. Theo ông, tất cả mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử. Nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng vĩnh viễn vận động, không có điểm kết thúc.
c. Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy Lạp – La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ thuyết ý niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
2.3. Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ thứ III TCN): Đây là thời kỳ khủng hoảng và suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp – La Mã. Cùng với sự suy tàn đó, nền văn hoá mà nó sản sinh ra cũng suy tàn theo. Vào cuối thế kỷ này, chỉ còn Êpiquya và học trò của ông là Lucơrexơ là tiếp tục đường lối duy vật của Đê-mô-crít.
Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học mà người ta thường thấy mối quan hệ của nó với các khuynh hướng, các trào lưu triết học sau này.
Trong những thành tựu triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại, học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít, tư tưởng biện chứng của Hêraclít và lôgích học của Arixtốt là những cống hiến xuất sắc đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nhân loại.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã hội có giai cấp đối kháng.
3. Một số nhà triết học Hy Lạp cổ đại 3.1. Đêmôcrít (460-370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Ápđerơ (Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá phương Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp.
Đê-mô-crít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức.
a. Thuyết nguyên tử
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Đêmôcrít học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể phân chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và mầu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt.
Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác.
Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đêmôcrít, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có điều kiện cho vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh, kể cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra.
b. Lý luận về nhận thức
Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là Arixtốt, kể cả Platôn đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lôgíc học.
Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức “mờ tối”(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”. Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn.
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm “Bàn về lôgíc học” (Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của Arixtốt, Platôn). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.
c. Quan niệm về con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác.
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.
Đêmôcrit đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.
d. Quan điểm chính trị – xã hội
Đêmôcrit đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ.
Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
Tóm lại, triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và phát triển học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmôcrít, Êpiquya trở thành những tên tuổi đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp – La Mã.
3.2. Pla-tôn (427 – 347 TCN) Pla-tôn xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở A-ten. Tên thật của ông là Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platôn là học trò của Cratin (người theo thuyết tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô, Platôn rời Aten đến sống ở miền nam nước Italia. Trong thời gian này ông có liên hệ với phái Pitago và Ơclít. Sau này ông trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Arixtốt. Ngót 40 năm giảng dạy và trước tác, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học. Tác phẩm “Nước cộng hoà” (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.
Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn. Tư tưởng triết học của Platôn chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xôcrát. Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
a. Học thuyết về ý niệm
Như đã nói ở trên, Pla-tôn chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý niệm như thế nào, Platôn đã đưa ra ví dụ “Hang động” như sau: Ở ngoài cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người. Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platôn cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
b. Lý luận về nhận thức
Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platôn cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí.
Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì không mất.
Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã bị lãng quên. Tóm lại, Platôn đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí.
c. Học thuyết về chính trị – xã hội
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Pla-tôn chia linh hồn làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình.
Để duy trì trật tự xã hội, Platôn cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.
Platôn nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài hoà giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.
3.3. Arixtốt (384 – 322 TCN)
Arixtốt là con một thầy thuốc, thuộc xứ Maxêđoan, bắc Hy Lạp. Năm 17 tuổi ông đến Aten học ở Việt hàn lâm của Platôn và trở thành giáo viên của Viện. Khi Platôn qua đời, ông rời Aten đi chu du nhiều nơi thuộc vùng Tiểu Á. Trong thời gian này ông được mời dạy học cho hoàng tử Alếchxăngđrơ (Alexandre) con vua Philíp (Philippe) xứ Maxêđoan (Macédoine). Năm 336 chúng tôi ông trở về Aten lập ra trường phái triết học riêng của mình. Học thức của ông hết sức uyên bác, được Mác coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại. Ông đã để lại cho nhân loại nhiều công trình khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Về triết học, có tác phẩm “Siêu hình học”. Về lôgíc học, có tác phẩm “Oóc ga-nôn”. Về khoa học tự nhiên, có tác phẩm “Vật lý học”. Về khoa học xã hội, có tác phẩm “Đạo đức học”, “Chính trị học”, “Thi ca học” v. v.
Cống hiến nổi bật của Arixtốt là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của Platôn, đã đặt nền móng cho khoa học lôgíc thời cổ đại. Nhưng vì dao động giữa hai đường lối duy vật và duy tâm, nên triết học của ông mang tính chất chiết trung, không triệt để.
a. Thế giới quan triết học của A-ri-xtốt
A-rít-xtốt là học trò xuất sắc của Platon, nhưng chính ông lại nhận ra sai lầm của thầy học mình về học thuyết ý niệm. Sai lầm của Platôn là ở chỗ, ông đã tách rời bản chất khỏi cái có bản chất đó, và biến ngay cái chung (khái niệm) thành cái riêng bên cạnh thế giới cảm tính, quyết định thế giới cảm tính. Nghĩa là, Platôn đã biến những khái niệm được hình thành trong quá trình nhận thức thành một thế giới riêng biệt, siêu cảm giác, tồn tại một cách độc lập đối với những sự vật được phản ánh.
Theo Arixtốt, bản chất tồn tại (chứa đựng) ngay trong bản thân sự vật. Những bản chất này được nhận thức của con người khái quát thành những cái chung, cái phổ biến dưới dạng, các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Vì vậy, không phải khái niệm phạm trù, quy luật là cái có trước, sinh ra sự tồn tại của sự vật, mà ngược lại. Trong tác phẩm “Các phạm trù”, Arixtốt khẳng định: “Khái niệm không bao giờ lại là nguyên nhân của sự tồn tại của sự vật, mà sự vật, có thể gọi là nguyên nhân chân chính của khái niệm”. Quan niệm đó được Lênin đánh giá là đã tiến sát đến chủ nghĩa duy vật.
Trên cơ sở phê phán học thuyết ý niệm của Platôn, Arixtốt đã xây dựng hệ thống triết học riêng của mình, ông thừa nhận giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan với những sự vật hết sức đa dạng. Vật lý học nghiên cứu các dạng tồn tại cụ thể của nó; ông coi đây cũng là triết học, nhưng là “triết học thứ hai”.
Siêu hình học nghiên cứu bản chất của tồn tại nói chung và được ông coi là “triết học thứ nhất”.
Về vấn đề linh hồn, Arixtốt cho rằng con người có phần linh hồn và phần thể xác, tựa như mỗi sự vật đều được hình thành từ vật chất và hình thức. Ông phê phán Platôn xem “thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử “. Theo ông, linh hồn không có trong cơ thể chết; không thể có linh hồn nếu không có vật chất. Nhưng ông lại chia linh hồn làm 3 loại: linh hồn thực vật có hoạt động nuôi dưỡng và sinh sản; linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh; linh hồn con người có hoạt động lý tính, đây là loại linh hồn cao nhất. Trong con người có cả ba loại linh hồn nói trên. Khi người ta chết, riêng linh hồn lý tính còn tồn tại bất diệt. Quan niệm về linh hồn như trên chứng tỏ rằng Arixtốt là nhà triết học không triệt để, vừa phê phán Platôn, vừa kế thừa quan điểm duy tâm của Platôn.
b. Lý luận nhận thức của Arixtốt
Lý luận về nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng về nhận thức luận thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã đặt ra những vấn đề hệ trọng về nhận thức luận, như các vấn đề: đối tượng của nhận thức, khả năng nhận thức của con người, vấn đề chân lý và khoa học về tư duy. Điểm đặc sắc trong lý luận nhận thức của ông là phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận) của lôgíc hình thức.
Khác với Platôn coi ý niệm là đối tượng của nhận thức, ông khẳng định rằng thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm; tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Theo ông, mọi tri thức đều bắt nguồn từ cảm giác về những sự vật đơn nhất được khái quát lại mà có. Ông kịch liệt phê phán quan niệm của Platôn coi nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn. Ông khẳng định rằng, nhận thức của con người không có tính chất bẩm sinh, linh hồn con người khi mới sinh ra hoàn toàn không có tri thức, nó tựa như một tấm bảng sạch chưa có vết phấn (nguyên lý Tabula rasa).
Ông là người có quan niệm rành mạch về quá trình nhận thức đi từ cảm tính đến lý tính. Tuy hết sức coi trọng nhận thức cảm tính, nhưng theo ông nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản chất của sự vật. Nếu chỉ bằng cảm giác, con người ta không thể nắm được định lý về tổng các góc của một tam giác bằng hai góc vuông và không giải thích được các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Vì vậy, để đạt đến chân lý, nhận thức phải đi từ cảm tính đến lý tính. Đó là quá trình đi từ những cảm giác đơn lẻ, ngẫu nhiên đến cái chung, cái phổ biến, cái bản chất dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng như đã nói ở trên, ông đã tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, coi lý tính là hình thức của mọi hình thức, quyết định bản chất của sự vật.
Trên con đường tư duy lý tính, Arixtốt rất quan tâm đến phương pháp tư duy: theo ông, cái được coi là chân lý phải là cái phù hợp giữa tư tưởng và thực tế. Muốn vậy, mọi tư duy đáng tin cậy phải được diễn đạt chính xác, có nội dung đáng tin cậy và vững chắc. Từ đó, ông đã nêu lên những nguyên tắc rất cơ bản để xây dựng khái niệm, phạm trù. Ông cũng đã nêu lên những quy luật cơ bản của tư duy logíc (quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn trong tư duy, quy luật loại trừ cái thứ ba). Ông đã nêu lên phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận). Trong đó, kết luận được rút ra từ hai tiền đề đã có (Nếu A thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc C. Ví dụ: Đồng là kim loại, mọi kim loại đều dẫn điện, vậy đồng cũng dẫn điện).
Tuy mới đề cập được một số nguyên tắc của tư duy lôgíc, nhưng ông được coi là người sáng tạo ra lôgíc hình thức cổ điển. Những nguyên tắc lôgíc học của ông, sau này được Bêcơn, Đềcác và các nhà triết học cổ điển Đức kế thừa và phát triển lên một trình độ cao hơn.
Tóm lại: Arixtốt là nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại. Ph. Ăngghen đã gọi ông là con người có “ khối óc toàn diện nhất”. Còn C. Mác đã đánh giá: “ tư tưởng thâm thúy của Arixtốt vạch ra những vấn đề trừu tượng nhất một cách thật đáng kinh ngạc…” Tư tưởng của ông coa ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiện sau này.
(Nguồn: ĐH Mỏ Địa chất)
0.000000
0.000000
Những Triết Gia Lừng Danh Của Hy Lạp Cổ Đại
Parmenides được biết đến như là học trò của Pythagoras – một triết gia nổi tiếng khác của Hy Lạp cổ đại. Các tác phẩm thơ và tư tưởng của Parmenides dường như luôn chịu ảnh hưởng đáng kể từ Xanophanes, đến nỗi các sử gia phải băn khoăn rằng, có nên coi ông là học trò của Xanophanes. Trong số các nhà triết học tiền Socrates, Parmenides được liệt kê vào danh sách những người quan trọng nhất.
Tác phẩm duy nhất của Parmenides được mọi người biết đến là bài thơ có tiêu đề “On Nature” (“Bàn về tự nhiên’). Trong bài thơ này, ông đã cố gắng làm sáng tỏ 1 câu hỏi lớn: Là nó, hay không phải là nó? Thật sự mà nói, những nỗ lực của ông trong việc giải mã bí ẩn triết học này đã dẫn đến một tuyên bố khá nghịch lý chứ không phải là một câu trả lời thỏa đáng. Parmenides cho rằng ta nhận định được tất cả các sự vật là vì chúng có tồn tại. Chúng ta không thể hình dung sự không tồn tại, không hình dung được là không có. Quan niệm về tồn tại của Parmenides mang tính siêu hình, nhưng nó lại là đóng góp lớn của ông cho nền triết học sau này.
Một nhân vật quan trọng khác của thời kỳ tiền-Socrates là Anaxagoras. Ông sinh ra tại Clazomenae, là một triết gia, một nhà khoa học có sức ảnh hưởng lớn, người đã sống và giảng dạy tại Athens trong gần 30 năm. Quan điểm triết học của ông phần nhiều xoay quanh bản chất của sự vật. Cũng giống như hầu hết các triết gia Hy Lạp cổ đại khác, tư tưởng của ông tương phản và động chạm tới các tư tưởng đương thời. Niềm tin mới mẻ đó đã khiến Anaxagoras phải đối mặt với những hậu quả nguy hiểm cả đến tính mạng.
Anaxagoras được ghi cho là người đầu tiên mang triết học đến Athens. Đây cũng chính là nơi mà sau này triết học phát triển đến đỉnh cao và tác động vào xã hội cho tới hàng trăm năm sau. Ông dành nhiều thời gian của mình để giải thích bản chất của tự nhiên – lấy vũ trụ như là một khối không phân định cho đến khi nó được xác định trong một phần tinh thần mà ông gọi là ‘nous’. Ông tin rằng trong thế giới vật lý, vạn vật đều có chứa một phần của tất cả mọi thứ khác. Không có gì là tinh khiết hoàn toàn, riêng chỉ có “nous” (tức là trí tuệ) là đơn giản có quyền hạn tối cao và không hòa lẫn với một vật nào. Trí tuệ tự nó tồn tai. Nếu nó không tự nó tồn tại, mà hòa lẫn với một cái khác thì hỗn hợp sẽ cản trở, do vậy nó không thể điều khiển được một vật nào nữa. Nó là một vật nhẹ nhất và thuần khiết nhất, có trí thức đầy đủ về tất cả và có sức mạnh vĩ đại nhất. Trí tuệ điều khiển tất cả những gì có linh hồn.
Anaximander sinh ra tại Miletus, là một học trò nổi tiếng và là người kế tục của Thales. Ông được xem là triết gia đầu tiên đã ghi chép lại những nghiên cứu của mình. Ông cũng là một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực sinh học và địa lý buổi sơ khai. Hơn nữa, ông đã dựng nên hình ảnh đầu tiên về thế giới trong một vũ trụ mở, gạt bỏ khái niệm về một vũ trụ đóng, và điều này đã giúp ông trở thành nhà thiên văn học đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Anaximander tiếp tục phát triển các quan điểm triết học của người thầy Thales – đưa ra một ‘Arche’ hoặc một nguyên lý mà ông tin đó là cơ sở của tất cả vũ trụ. Nhưng không giống như Thales, Anaximander cho rằng cơ sở này đã có một ‘Apeiron’ (một chất không giới hạn) hoạt động như khởi nguồn cho tất cả mọi thứ. Chính khởi nguồn này đã tạo nên những điểm trái ngược trong thế giới như nóng và lạnh, sáng và tối,… Rất có thể phần lớn các tác phẩm của ông đã bị cắt ngắn, đặc biệt là khi rơi vào tay các triết gia thế hệ tiếp theo. Thế nhưng Anaximander vẫn thực sự là một trong những bộ óc vĩ đại nhất của Hy Lạp thời kỳ cổ đại.
Empedocles là một trong những nhà triết học quan trọng nhất trong thời kỳ tiền Socrates. Xuất sắc hơn nữa là những bài thơ của ông đã tạo nên một sức ảnh hưởng vô cùng lớn tới các nhà thơ thế hệ sau, bao gồm cả những người như Lucretius. Empedocles nổi tiếng nhất là nhờ khởi xướng cho thuyết nguồn gốc vũ trụ tạo bởi bốn nguyên tố cổ điển. Thuyết này nói rằng tất cả các vấn đề về cơ bản đều bao gồm bốn yếu tố chính: đất, không khí, lửa và nước. Mặc dù một số sử gia cho rằng lý thuyết trên là một nỗ lực để phủ nhận thuyết “vạn vật quy nhất” của Parmenides, thế nhưng đây vẫn trở thành một trong những lý thuyết sớm nhất về phân tử vật lý, được mặc nhiên công nhận.
Empedocles chỉ đơn giản là phủ nhận sự hiện diện của bất kỳ khoảng trống hoặc không gian rỗng nào, do đó quan niệm này mâu thuẫn với tư tưởng triết học của Parmenides. Ông đưa ra ý tưởng về các động lực đối lập cùng hình thành nên thế giới – cụ thể là: Ái tình là nguyên nhân của hòa hợp, và xung đột là nguyên nhân của chia ly. Empedocles cũng đi vào nghiên cứu và trở thành người đầu tiên đưa ra một khoản mục về sự phát triển tiến hóa các loài.
Vào thời điểm mà hầu hết các triết gia Hy Lạp cổ đại đang xem xét kỹ lưỡng suy luận và kiến thức của mình để giải thích bản chất vốn có của tự nhiên. Zeno Elea lại dành thời gian để làm sáng tỏ các các khúc mắc, nghịch lý về chuyển động và đa nguyên. Giá trị của ông nằm ở chỗ ông là người đã cố gắng để tìm một lời giải thích chi tiết cho những mâu thuẫn hiện diện trong thế giới vật chất, rất lâu trước khi logic phát triển.
Zeno tiếp tục mở rộng và bảo vệ các hệ tư tưởng triết học mà ông học được của Parmenides, những tư tưởng đã gặp phải nhiều sự phản đối từ số đông dư luận tại thời điểm đó. Ông cũng đưa ra nhiều nghịch lý của mình, trở thành đề tài gây tranh cãi sôi nổi giữa các thế hệ triết gia sau này. Đa phần các đối số đương đại về nghịch lý của ông được sử dụng nhằm dẫn tới sự phân chia thời gian và không gian vô hạn – ví dụ như nếu có một khoảng cách thì sẽ phải có một nửa của khoảng cách đó và tương tự. Zeno là nhân vật đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại đã tìm ra các khái niệm về tồn tại vô cực.
Ở trường phái này, Pythagoras đã cố gắng để tìm thấy một sự hòa hợp lẫn nhau giữa cuộc sống thực và các khía cạnh thực tiễn của triết học. Các quan điểm của ông không hoàn toàn khô cứng như những gì chúng ta vẫn nghĩ về triết học, nhưng nó cũng bao gồm một số vấn đề chung như “Những nguyên tắc sống”, “Thực phẩm để ăn hàng ngày”, tương tự như vậy. Pythagoras cho rằng thế giới là một sự hòa hợp hoàn hảo và hướng việc giảng dạy của mình vào mục đích làm thế nào để sống một cuộc sống hài hòa.
Socrates đã đem lại một cái nhìn hoàn toàn mới về việc ứng dụng triết học vào đời sống hàng ngày một cách thiết thực – Điều mà phần lớn các cách tiếp cận của triết học tiền Socrates đã không làm được.
Triết học Socrates không có một mục đích nào khác ngoài việc hướng tới con người với những suy tư, trăn trở đời thường của nó. Ông thực sự “là một trong số những khuôn mặt nổi bật nhất nhưng cũng bí ẩn nhất trong lịch sử triết học”.
Ông là một học trò chịu ảnh hưởng rõ rệt từ cách tiếp cận triết học của người thầy Socrates. Thế nhưng trong khi Socrates không ngừng bận rộn với việc giải thích triết học chỉ dựa trên lý luận về con người, Plato lại đưa ra hướng đi của mình bằng cách kết hợp hai cách tiếp cận chính: siêu hình học tiền Socrates thần học tự nhiên với thần học đạo đức Socratic. Triết học của Platon là một hệ thống triết học duy tâm khách quan lớn và đầu tiên trong lịch sử triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để.
Trong vật lý, ông đồng ý với nhiều quan điểm của trường phái Pytago. Hầu hết các tác phẩm của ông – đặc biệt là tác phẩm nổi tiếng nhất “The Republic” – dường như là sự pha trộn giữa các khía cạnh khác nhau của đạo đức, triết học chính trị và siêu hình của những người khác, làm thành một triết lý có hệ thống, có ý nghĩa và có thể áp dụng.
Aristotle là triết gia có sức ảnh hưởng lớn nhất trong số các môn đệ của Plato. Cách lý giải sự vật của ông thường dựa trên những điều đã học được từ trải nghiệm thực tế, kết hợp với những cách tiếp cận khác nhau học hỏi từ người thầy Plato. Aristotle đã chứng tỏ bản thân vừa là một nhà văn giàu trí tưởng tượng, vừa là một học giả đầy sáng tạo. Ông ghi lại tất cả các các quan điểm của mình trong tất cả các lĩnh vực ông nghiên cứu.
Vào thời điểm khi mà các kiến thức chuyên môn của con người vẫn còn ở mức độ quá tổng quát, Aristotle đã phá vỡ sự đồng hoá kiến thức tổng thể, phân chia nó thành các loại khác nhau như đạo đức học, sinh học, toán học và vật lý – mô hình phân loại này vẫn được sử dụng cho tới ngày hôm nay. Aristotle thực sự là một nhân vật chủ chốt trong triết học Hy Lạp cổ đại. Sức ảnh hưởng và tác động của ông không chỉ vượt ra ngoài giới hạn của Hy Lạp cổ đại, mà còn vượt ra cả giới hạn của thời gian.
Thales được xếp vào vị trí đầu bảng trong danh sách này vì ông là điểm then chốt trong triết học Hy Lạp cổ đại – nơi mà từ đây, các thế hệ tiếp theo của nhiều nhà tư tưởng, nhà lý luận, biện chứng, vật lý học và triết học siêu nổi tiếng sẽ phát triển và thành danh. Các nhà sử học coi Thales như là cha đẻ của triết học Hy Lạp cổ đại. Phần lớn tư tưởng của Thales được truyền lại thông qua những miêu tả của Aristotle – người đã chỉ ra rằng Thales là nhà triết học đầu tiên nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản trong triết học như căn nguyên của vấn đề. Thales cũng được cho là người đã sáng lập ra trường phái triết học tự nhiên.
Là một triết gia, Thales hiếm khi giới hạn nghiên cứu của mình trong một lĩnh vực hạn chế giữa biển kiến thức sẵn có. Ông đã rất đam mê và tích cực tìm hiểu các khía cạnh khác nhau của kiến thức như triết học, toán học, khoa học, địa lý, và cả những khía cạnh không tên khác. Ông cũng được cho là người đã phát triển một tiêu chuẩn rõ ràng để đưa ra giả thuyết tại sao trong sự vật lại diễn ra những thay đổi. Ông cho rằng nước là thành phần cơ bản của thế giới. Thales là triết gia được kính trọng bậc nhất trong xã hội Hy Lạp cổ đại.
Kết luận
Sự xuất hiện của toàn bộ triết học truyền thống phương Tây có thể đã được bắt nguồn từ thời đại triết học ở Hy Lạp cổ đại. Sự phát triển của niềm đam mê triết học và tư duy phân tích trong các triết gia Hy Lạp cổ đại khoảng thế kỷ 6 TCN đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp theo của kiến thức như chúng ta biết ngày nay. Trong cuộc hành trình triết học của họ, mỗi người có một cách tiếp cận khác nhau để tìm kiếm câu trả lời cho những nghịch lý nổi tiếng, và từ đó lại tìm ra thêm vô số những nghịch lý khác. Hành trình ấy bắt đầu với những nỗ lực đầu tiên của Thales để nhận thức thế giới từ góc độ phương pháp. Sau đó, thành công của các nhà tư tưởng quan trọng kế cận đã dần tiếp nối nhau, đa dạng hóa phương pháp này thành khoa học tự nhiên, siêu hình học, và cuối cùng, thần học đạo đức – dẫn đến sự phát triển của triết học mà chúng ta biết ngày nay.
Dịch bởi: Yến Nhi Nguồn dịch: AncientHistoryLists
Nguồn Gốc, Điều Kiện Lịch Sử Cho Sự Ra Đời Triết Học Mác
I. Điều kiện kinh tế – xã hội của triết học Mác
1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc là đặc điểm nổi bật trong đời sống kinh tế – xã hội ở những nước chủ yếu của châu Âu.
Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp lớn nhất. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành. Cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho nền sản xuất xã hội ở Đức được phát triển mạnh ngay trong lòng xã hội phong kiến.
Nhận định về sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất như vậy, C.Mác và Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên cơ sở vật chất – kỹ thuật của chính mình, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong kiến.
Của cải xã hội tăng lên nhưng chẳng những lý tưởng về bình đẳng xã hội mà cuộc cách mạng tư tưởng nêu ra đã không thực hiện được mà bất công xã hội lại tăng thêm, đối kháng xã hội thêm sâu sắc, những xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị – xã hội độc lập
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội và giai cấp vô sản là giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính chất đối kháng càng phát triển, trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831, bị đàn áp và sau đó lại nổ ra vào năm 1834, “đã vạch ra một điều bí mật quan trọng…[..]…đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không có gì hết…”.
Ở Anh, có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 thế kỷ XIX, là “phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”.
Nước Đức còn đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song sự phát triển công nghiệp trong điều kiện cách mạng công nghiệp đã làm cho giai cấp vô sản lớn nhanh, nên cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi cũng đã mang tính chất giai cấp tự phát và đã đưa đến sự ra đời một tổ chức vô sản cách mạng là “Đồng minh những người chính nghĩa”.
Ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là lực lượng cách mạng trong quá trình cải tạo dân chủ như trước.
Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng chế độ phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Nó mơ tưởng biến đổi nền quân chủ phong kiến Đức thành nền dân chủ tư sản một cách hoà bình.
Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ có sứ mệnh là “kẻ phá hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Triết học, theo cách nói của Hêghen, là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng. Vì vậy, thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng vô sản, đòi hỏi phải được soi sáng bởi lý luận nói chung và triết học nói riêng.
Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đặt ra đã được phản ánh bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau, làm hình thành những học thuyết với tính cách là một hệ thống những quan điểm lý luận về triết học, kinh tế và chính trị xã hội khác nhau.
Điều đó được thể hiện rất rõ qua các trào lưu khác nhau của chủ nghĩa xã hội thời đó.
Sự lý giải về những khuyết tật của xã hội tư bản đương thời, về sự cần thiết phải thay thế nó bằng xã hội tốt đẹp, thực hiện được sự bình đẳng xã hội theo những lập trường giai cấp khác nhau đã sản sinh ra nhiều biến chủng của chủ nghĩa xã hội như: “chủ nghĩa xã hội phong kiến”, “chủ nghĩa xã hội tư sản”, “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản”…
Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, do đó, kết hợp một cách hữu cơ tính cách mạng và tính khoa học trong bản chất của mình. Nhờ đó, nó có khả năng giải đáp bằng lý luận những vấn đề của thời đại đặt ra.
Lý luận như vậy đã được sáng tạo nên bởi C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở lý luận chung: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
II. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm tầm cao của trí tuệ nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Lênin viết: “Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ ràng rằng chủ nghĩa Mác không có gì là giống “chủ nghĩa tông phái”, hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới”.
Người còn chỉ rõ, học thuyết của Mác “ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội”.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen. Sau này, cả khi đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen, các ông vẫn đánh giá cao tư tưởng biện chứng của nó. Chính cái “hạt nhân hợp lý” đó đã được Mác kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng – phép biện chứng duy vật.
Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác đã dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học của Phoiơbắc. Đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó.
Từ đó Mác và Ăngghen xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
Với tính cách là những bộ phận hợp thành hệ thống lý luận của triết học Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc của chúng. Không thấy điều đó, mà hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng như sự lắp ghép cơ học chủ nghĩa duy vật của triết học Phoiơbắc với phép biện chứng Hêghen, sẽ không hiểu được triết học Mác.
Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa”.
Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là và Đ. Ricacđô không những làm nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là nhân tố không thể thiếu được trong sự hình thành và phát triển triết học Mác.
Chính Mác đã nói rằng, việc nghiên cứu những vấn đề triết học về xã hội đã khiến ông phải đi vào nghiên cứu kinh tế học và nhờ đó mới có thể đi tới hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử, đồng thời xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.
Đương nhiên, đó là nguồn gốc lý luận trực tiếp của học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa xã hội khoa học.
Song, nếu như triết học Mác nói chung, chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng là tiền đề lý luận trực tiếp làm cho chủ nghĩa xã hội phát triển từ không tưởng thành khoa học, thì điều đó cũng có nghĩa là sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát triển những quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội của Mác.
Vì vậy, cần tìm hiểu nguồn gốc lý luận của triết học Mác không chỉ ở nguồn gốc lý luận về triết học mà cả trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên là những tiền đề cho sự ra đời triết học Mác. Điều đó được cắt nghĩa bởi mối liên hệ khăng khít giữa triết học và khoa học nói chung, khoa học tự nhiên nói riêng.
Sự phát triển tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, như Ăngghen đã chỉ rõ, mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức của nó.
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới. Phương pháp tư duy siêu hình nổi bật ở thế kỷ XVII và XVIII đã trở thành một trở ngại lớn cho sự phát triển khoa học. Khoa học tự nhiên không thể tiếp tục nếu không “từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác”.
Mặt khác, với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, đồng thời thoát khỏi vỏ thần bí của phép biện chứng duy tâm.
Tư duy biện chứng ở triết học cổ đại, như nhận định của Ăngghen, tuy mới chỉ là “một trực kiến thiên tài”; nay đã là kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên tri thức khoa học tự nhiên hồi đó.
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
Đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu khoa học tự nhiên thời ấy, Ăngghen viết: “Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu”.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân, đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
(Từ khóa: Nguồn gốc, điều kiện triết học Mác)
Tagged Điều kiện ra đời triết học Mác, nguồn gốc triết học Mác, sự ra đời của triết học Mác
Bạn đang đọc nội dung bài viết I. Sự Ra Đời Và Các Thời Kỳ Của Triết Học Hy Lạp trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!