Cập nhật nội dung chi tiết về Khái Niệm Cơ Bản Về Giao Tiếp Rs232 mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chuẩn truyền thông RS-232 được phát triển bởi the Electronic Industry Association and the Telecommunications Industry Association (EIA/TIA), là chuẩn truyền thông phổ biến nhất, thường được gọi tắt là RS-232 thay vì EIA/TIA-232-E. Chuẩn này chỉ đề cập đến việc truyền dữ liệu nối tiếp giữa một host (DTE-Data Terminal Equipment) và một ngoại vi (DCE-Data Circuit-Terminating Equipment).
Phiên bản đầu tiên của RS-232 được định nghĩa vào năm 1962, do đó các mức logic được định nghĩa khác với logic TTL. Ở ngõ ra của một mạch lái, mức cao (tương ứng với logic 0) là một điện áp từ +5 đến +15 V, còn mức thấp (tương ứng với logic 1) là một điện áp từ -5 đến -15 V. Tại ngõ vào của một bộ thu, mức cao được định nghĩa là từ +3 đến +15 V (gọi là space), và mức thấp được định nghĩa là từ -3 đến -15 V (gọi là mark).
Để giảm nguy cơ bị nhiễu giữa các tín hiệu kế cận, tốc độ thay đổi (slew rate) được giới hạn tối đa là 30 V/μs, và tốc độ cũng được giới hạn tối đa là 20 kbps (kilobit per second) (giới hạn này hiện đã được nâng lên nhiều lần).
Trở kháng nhìn bởi mạch lái được định nghĩa là từ 3 đến 7 kΩ. Tải dung tối đa của đường truyền cũng được giới hạn là 2500 pF, và như vậy tùy thuộc vào loại cáp mà chiều dài tối đa có thể được xác định từ điện dung trên đơn vị chiều dài của cáp.
Các tín hiệu RS-232 được định nghĩa tại DTE, theo bảng sau (chỉ nói đến các tín hiệu của đầu nối 9 chân)
Chân số
Chức năng
Chiều thông tin
1
Data Carrier Detect (DCD)
Từ DCE
2
Receive Data Line (RD)
Từ DCE
3
Transmit Data Line (TD)
Đến DCE
4
Data Terminal Ready (DTR)
Đến DCE
5
Ground
6
Data Set Ready (DSR)
Từ DCE
7
Request To Send (RTS)
Đến DCE
8
Clear To Send (CTS)
Từ DCE
9
Ring Indicate (RI)
Từ DCE
Các hệ thống logic hiện nay chủ yếu sử dụng các chuẩn logic TTL hay CMOS, do đó khi cần giao tiếp bằng chuẩn RS-232 sẽ phải dùng các mạch lái và thu (RS-232 driver và receiver, hay RS-232 transceiver) để chuyển đổi giữa TTL/CMOS và RS-232 vật lý. Các bộ transceiver hiện nay thường có sẵn các bơm điện tích (charge pump) để tạo ra các mức áp RS-232 vật lý (phổ biến là +12 V và -12 V) từ một điện áp nguồn đơn cực giá trị nhỏ (5 V hay 3.3 V).
Vì chuẩn RS-232 chỉ dành cho giao tiếp giữa DTE và DCE, do đó khi hai máy tính (là các DTE) cần giao tiếp với nhau thông qua chuẩn RS-232 thì cần phải có các DCE (chẳng hạn như modem) làm trung gian. Các DCE này là các ngoại vi nên có thể giao tiếp trực tiếp với nhau thông qua một chuẩn nào đó.
Hình 1 minh họa định dạng của một ký tự (character) được truyền theo chuẩn RS-232. Ở trạng thái nghỉ, các đường dữ liệu RS-232 ở trạng thái mark. Một ký tự luôn bắt đầu bằng một start bit (là một space), sau đó các bit được truyền theo thứ tự bit từ thấp đến cao (bit thấp nhất được truyền trước tiên), tiếp đến là một parity bit (nếu có), và cuối cùng là một hay nhiều stop bit (là một mark). Phổ biến nhất là định dạng 8N1, nghĩa là 8 bit dữ liệu, không có parity, và 1 stop bit.
Định dạng của một ký tự truyền theo chuẩn RS-232
Việc đọc một bit được truyền đến thường được thực hiện tại giữa bit, do đó các bộ thu và phát thường sử dụng xung clock bằng 16 lần tốc độ baud (số bit truyền được trong mỗi giây trên một đường tín hiệu). Bộ thu sẽ dò start bit, và sẽ đọc bit đầu tiên sau 24 chu kỳ xung clock khi đã phát hiện được start bit, các bit sau đó sẽ được đọc sau mỗi 16 chu kỳ xung clock.
Như có thể thấy, việc đồng bộ xung clock giữa phía thu và phía phát được thực hiện ở mỗi start bit cho mỗi ký tự được truyền. Do đó, trong trường hợp xấu nhất là truyền 12 bit (1 start bit, 8 bit dữ liệu, 1 parity bit, và 2 stop bit), chúng ta có thể chấp nhận việc lệch giá trị xung clock giữa phía thu và phía phát tối đa là khoảng 3% (tại bit cuối cùng sẽ bị lệch 11×3 = 33%). Do đó, chúng ta không nhất thiết phải sử dụng các bộ dao động thật chính xác để tạo xung clock cho các bộ thu phát RS-232. Hay nói cách khác, chúng ta không cần độ sai lệch xung clock là 0% đối với giao tiếp RS-232.
Đa số các DTE và các DCE đều có các bộ truyền nhận bất đồng bộ đa dụng (UART-Universal Asynchronous Receiver/Transmitter) ở dạng module phần cứng, do đó chúng ta thường không cần quan tâm đến các thao tác cấp thấp trong việc sử dụng giao tiếp RS-232. Tuy nhiên, nếu phần cứng của thiết bị không hỗ trợ giao tiếp RS-232, chúng ta có thể sử dụng một UART ngoài hay sử dụng phần mềm để giả lập một UART (kỹ thuật này thường được gọi là bit-banging).
Khái Niệm, Bản Chất Và Phân Loại Giao Tiếp
1. Khái niệm, tác dụng của giao tiếpGiao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.Giao tiếp có các tác dụng:– Giúp con người hiểu biết về trí tuệ, khả năng, ước mơ, hoài bão, niềm tin, lý tướng, quan điểm sống, ý chí, tình cảm, tính cách… của đối tác.– Giao tiếp giúp con người học tập, bắt chước lẫn nhau, học hỏi kinh nghiệm cúa nhau: “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”.– Giao tiếp giúp thỏa mãn nhu cầu san sé, trao đối, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người, giao tiếp làm cho “niềm vui nhân đôi, nỗi buồn vơi nửa”.Giao tiếp trong quản lý là hoạt động xác lập mối quan hệ quản lý và sự tiếp xúc giữa con người với nhau để cùng hiểu biết vể tình huống, cùng điều chỉnh mục tiêu và hành vi nhằm mang lại lợi ích cao nhất trong việc thỏa mãn nhu cầu theo mục tiêu quán lý của các bên tham gia.Hoạt động quản lý là một hoạt động giao tiếp phức tạp vì nhà quản lý phải tiếp xúc với nhiều loại người với những động cơ, nhu cầu và thị hiếu khác nhau. Đối lác của nhà quán lý có thể là cấp dưới trong phổ biến, giao việc; có thể là cấp trên khi nhận mệnh lệnh, chỉ thị; có thể là ngang cấp khi đàm phán với bạn hàng, với người cung cấp; có thê là đại diện của các cơ quan công quyền… Vì lý do đó, nhà quản lý phái có kỹ năng giao tiếp tốt trong mọi tình huống, với mọi đối tác.
2. Bản chất tâm lý của hành vi giao tiếpTronư giao tiếp, các bên không chí truyền thông tin cho nhau mà còn nhận thức, tìm hiểu lẫn nhau. Nhận thức này làm cơ sớ nảy sinh ra tình cảm, sự gắn bó… Giao tiếp, về bản chất, là một quá trình tâm lý. Trong quá trình tâm lý đó, các đối tượng tìm hiểu lẫn nhau, tự tìm hiếu bản thân và có tác động qua lại.
2.1. Giao tiếp là quá trình nhận thức nụtòi khácTrong giao tiếp, trước hết, các chủ thể nhận thức đối tượng giao tiếp bằng con đường cảm tính thông qua các giác quan của mình như quan sát tướng mạo, vẻ mặt, dáng diệu, tư thế. tác phong, ánh mắt, nụ cười, lời nói, quần.áo và các hành vi khác. Quá trình nhận thức này diễn ra trong suốt quá trình giao tiếp và giúp chủ thể phán quyết về bản chất bên trong của đối tượng như đạo đức, năng lực và các phẩm chất nhân cách khác.Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và làm sai lệch nhận thức của chúng ta về người khác:
a) Các yếu tố chủ quanal. Tính lựa chọn: hình ảnh của một đối tượng nào đó tạo ra trong mỗi con người (chủ thể nhận thức) phụ thuộc rất nhiều vào đời sống tâm lý của bản thân người đó. Có điều này là do tính lựa chọn: mỗi con người (chủ thể nhận thức) không thể nhìn nhận hết các đặc tính của đối tượng mà chỉ nhìn thấy một phần nào đó. Phần nhìn thấy đó phụ thuộc nhiều vào ý thích, khả năng… của chính chủ thể nhận thức. Sự nhìn nhận có lựa chọn đó, giúp chủ thể nhận thức nhận thức đối tượng nhanh hơn nhưng đồng thời cũng dễ có sai sót.
a2) Ấn tượng, tình cảm: ấn tượng, tình cảm của chủ thể về đối tượng có tác động rất lớn đến sự nhận thức của chủ thể: “không ưa thì dưa có dòi”.
a3) Tâm trạng: Tâm trạng của chủ thể cũng ảnh hưởng đến sự nhận thức về đối tượng: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
b) Các xêu tổ khách quanb 1) Áo ảnh: Nhiều đặc điểm của đối tượng gây cho chủ thể ảo ảnh như sự hào nhoáng bên ngoài, bằng cấp, quần áo… để lại nhiều ảnh hưởng trong giao tiếp. Ảo ảnh sẽ qua đi sau khi chủ thể đã nhận thức đủ rõ về đối tượng: “quen bụng dạ, lạ áo quần” hay “gặp theo hình thức, tiền theo tấm lòng”.b2) Hiệu ứng so sánh: chủ thể nhận thức luôn luôn có xu hướng nhìn nhận các đối tượng trong so sánh tương quan với nhau.b3) Nhóm theo đặc điểm: các đối tượng có cùng chung một đặc điểm thường được chủ thể nhận thức nhóm lại theo đặc điểm đó. Vì lý do đó, hai người khác nhau có thể bị đánh giá như nhau chỉ vì họ có cùng một đạc điểm nào đó.
c) Bối cảnh íịiao tiếpNhận thức của chú thể về đỏi tượng phụ thuộc nhiều vào tình huống, bối cảnh trong dó diễn ra quá trình giao tiếp. Cùng là những con người đó nhưng cho gặp gỡ ở các khung cảnh khác nhau người này sẽ có những nhìn nhận khác nhau về người kia.
Khái Niệm Cơ Bản Về Website
Website là tập hợp của rất nhiều trang web – một loại siêu văn bản (tập tin dạng HTML hoặc XHTML) trình bày thông tin trên mạng Internet- tại một địa chỉ nhất định để người xem có thể truy cập vào xem.
1. Website là gì?
Hiểu thế nào là một trang Web?
Khi bạn xem thông tin trên một trang Web thì trang Web đó đến từ một Website, có thể là một Website đến từ Mỹ, từ Việt Nam, hay bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Website sẽ tên và chính là địa chỉ mà bạn đã gọi nó ra tên đó người ta gọi là tên miền hay domain name. Thường các Website được sở hữu bởi một cá nhân hoặc tổ chức nào đó.
Website là một văn phòng ảo của doanh nghiệp trên mạng Internet. Website bao gồm toàn bộ thông tin, dữ liệu, hình ảnh về các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp muốn truyền đạt tới người truy cập Internet. Với vai trò quan trọng như vậy, có thể coi Website chính là bộ mặt của Công ty, là nơi để đón tiếp và giao dịch với các khách hàng trên mạng. Website không chỉ đơn thuần là nơi cung cấp thông tin cho người xem, cho các khách hàng và đối tác kinh doanh của doanh nghiệp, nó còn phải phản ánh được những nét đặc trưng của doanh nghiệp, đảm bảo tính thẩm mỹ cao, tiện lợi, dễ sử dụng và đặc biệt phải có sức lôi cuốn người sử dụng để thuyết phục họ trở thành khách hàng của doanh nghiệp.
2. Các yêu cầu tối thiểu của 1 Webiste
Đối với một doanh nghiệp trong đời thường, để thành lập và hoạt động, doanh nghiệp đó phải đáp ứng được tối thiểu 3 yếu tố căn bản sau:
Tên doanh nghiệp
Trụ sở hoạt động của doanh nghiệp
Các yếu tố vật chất kỹ thuật,máy móc và con người
Nếu ta tạm coi Website như 1 doanh nghiệp trong đời thường, thì để thiết lập và đưa vào hoạt động 1 Website cũng phải đáp ứng được tối thiểu 3 yếu tố cơ bản như doanh nghiệp là:
Tên miền (hay còn gọi là Tên miền ảo hoặc Domain name) tương ứng với Tên doanh nghiệp trong đời thường.
Web Hosting (hay còn gọi là nơi lưu giữ trên máy chủ Internet) tương ứng với Trụ sở doanh nghiệp trong đời thường.
Các trang web tương ứng với yếu tố vật chất kỹ thuật, máy móc của doanh nghiệp trong đời thường và con người để quản lý và vận hành Website đó.
3. Website động và website tĩnh khác nhau như thế nào?
Website động có thêm các phần xử lý thông tin và truy xuất dữ liệu còn website tĩnh thì không.
Web Động
Web “ĐỘNG” là thuật ngữ được dùng để chỉ những website được hỗ trợ bởi một phần mềm cơ sở web, nói đúng hơn là một chương trình chạy được với giao thức http. Thực chất, website động có nghĩa là một website tĩnh được “ghép” với một phần mềm web (các modules ứng dụng cho Web). Với chương trình phần mềm này, người chủ website thực sự có quyền điều hành nó, chỉnh sửa và cập nhật thông tin trên website của mình mà không cần phải nhờ đến những người chuyên nghiệp.
Nếu Bạn làm web tĩnh, cũng giống như các cô ma-nơ-canh này đã được chế tạo rất hoàn thiện nhưng sẽ không bao giờ thay đổi tư thế, về cả những bộ quần áo mà các cô mặc. Nếu muốn làm lại kiểu dáng mới, Bạn phải HOÀN TOÀN PHỤ THUỘC NHÀ CHẾ TẠO, hoặc Bạn phải mất chi phí mua mới. Còn nếu Bạn làm web động, thì cũng giống như các cô ma-nơ-canh này chỉ được dựng lên như một bộ khung mà tự Bạn luôn có thể thay đổi từ dáng đứng, cách ăn mặc, dù là thời trang mùa xuân, mùa hè, mùa thu hay mùa đông, các mẫu mốt luôn hợp thời đại, mà KHÔNG MẤT THÊM MỘT KHOẢN CHI PHÍ NHỎ NÀO cho người tạo ra chúng. Hiểu cách khác, những bộ mốt mới trưng bày chính là những thông tin, thông báo về tình hình phát triển các sản phẩm – dịch vụ mà Bạn luôn muốn cập nhật để khách hàng được rõ.
Hãy tưởng tượng tiếp, các modules của một website động cũng giống như những thành phần của một bộ khung ma-nơ-canh. Bạn có thể chỉnh sửa cẳng tay của những bộ khung này, nâng chúng lên hoặc hạ chúng xuôi xuống, điều chỉnh thành chân bước hay chân đứng thẳng, thành tư thế ngồi hoặc đứng, đó là khả năng tuỳ biến của một chương trình phần mềm điển hình. Hoặc Bạn có thể tháo rời hay lắp lại đôi tay, đôi chân của ma-nơ-canh, đó là khả năng tương thích của từng module với tổng thể một chương trình.
Web Tĩnh
Nếu Bạn đã đọc phần tìm hiểu về website ‘ĐỘNG’, chắc Bạn sẽ tự hỏi: Vậy thì tại sao người ta vẫn thiết kế website tĩnh? Không hẳn một website tĩnh không có lợi thế hơn so với một website động. Với web tĩnh, Bạn có thể có một giao diện được thiết kế tự do hơn. Vì vậy, nhiều khi một website tĩnh có cách trình bày đẹp mắt và cuốn hút hơn. Đối với những website chỉ nhằm đăng tải một số ít thông tin và chúng không có nhiều thay đổi theo thời gian thì việc dùng hình thức website tĩnh là phù hợp hơn cả. Ngoài ra, website tĩnh còn có một lợi thế vô song: website tĩnh thân thiện với các cơ chế tìm kiếm (search engine) hơn nhiều so với website động. Bởi vì địa chỉ URL của các .html trong web tĩnh không chứa dấu chấm hỏi (?) như trong web động.
Khái Niệm Cơ Bản Về Nước
Khái niệm cơ bản về nước
Nước là gì?
Nước là một phân tử gọi là H2O chứa hai nguyên tử hydro và một nguyên tử ôxy. Đó là một chất lỏng trong suốt, không mùi mà bạn có thể tìm thấy trong hồ, sông ngòi và đại dương. Nó rơi từ bầu trời như mưa hay tuyết.
Nước đến từ đâu? Nước ngọt là kết quả của nước hoặc chu trình thủy văn của Trái Đất. Về cơ bản, nhiệt của mặt trời làm cho nước bề mặt bay hơi. Nó tăng lên trong khí quyển, sau đó nguội đi và ngưng tụ để hình thành các đám mây. Khi đủ nước ngưng tụ, nó sẽ rơi trở lại bề mặt như mưa, mưa tuyết hoặc tuyết. Quá trình lặp lại chính nó trong một chu kỳ không bao giờ kết thúc. Nước mà chúng ta tiêu dùng và sử dụng mỗi ngày đến từ hai nguồn chính: nước ngầm và nước mặt.
Nước ngầm Khi nước mưa hoặc tuyết rơi xuống mặt đất, nó thu thập trong các bể ngầm gọi là tầng chứa nước, nơi chứa nước ngầm và tạo thành bảng nước, một tên khác cho mực nước cao nhất mà tầng chứa nước có thể chứa. Mực nước có thể lên tới mực nước hoặc nằm dưới mực nước phụ thuộc vào các yếu tố như lượng mưa, hạn hán, hoặc tỷ lệ nước đang được sử dụng. Nước ngầm thường đến từ tầng nước ngầm thông qua một giếng khoan hay mùa xuân tự nhiên.
Nước mặt Nước mặt chảy qua hoặc thu lượm trong suối, sông, hồ, hồ chứa và đại dương – không ngầm như nước ngầm. Nước mặt có thể đẹp, thậm chí còn nguyên sơ, nhưng hầu hết nó không phải là trực tiếp cho uống. Có 97% được tìm thấy trong đại dương và không thể dùng để uống vì hàm lượng muối của nó. 3% nước còn lại là tươi, và hầu hết là bị khóa trong băng hoặc sông băng.
Bạn sử dụng bao nhiêu? Một người Mỹ điển hình sử dụng 302-378 lít nước mỗi ngày. Nếu có vẻ như rất nhiều, hãy xem xét rằng tổng số bao gồm không chỉ uống nước, mà còn là nước dùng để giặt, tưới cỏ và xử lý chất thải. Trên thực tế, người ta thực sự uống ít hơn 1% lượng nước chảy vào nhà của họ. Phần còn lại dành cho các mục đích khác.
Trừ khi bạn có giếng khoan riêng, bạn sẽ phải trả một cái gì đó cho nước mà bạn sử dụng. Một hộ gia đình điển hình của Hoa Kỳ trả khoảng 1.5 USD cho mỗi 3.785 lít, hoặc $ 0.0015 cho mỗi gallon. Đối với một gia đình bốn người sử dụng 378 lít mỗi người mỗi ngày, cộng thêm khoảng 18 đô la mỗi tháng.
Nước đóng chai có mức giá cao hơn, mặc dù nó có thể được ưa thích hơn cho các doanh nghiệp hoặc nhà cửa mà muốn có một nguồn nước sạch có chất lượng bảo trì thấp. Theo Công ty Tiếp thị Nước giải khát, chi phí bán buôn nước uống đóng chai trong nước và không gây tiếng ồn là 1,21 USD / 3,78 lít vào năm 2011. Nước uống được bán trong chai 591.4ml với giá có thể đắt hơn 6 USD / 3.78 lít. Ngoài ra, nhiều chủ nhà phải trả tiền nước thải (nước thải ra khỏi nhà). Ở Hoa Kỳ, chi phí trung bình hàng tháng cho nước thải là $ 84 một tháng.
Làm thế nào để bạn có nước trữ trong nhà dùng hoặc kinh doanh? Thông thường, đường ống dẫn nước từ một cơ sở xử lý nước đến nhà hoặc cơ sở kinh doanh của bạn. Hệ thống phân phối ống dẫn được xây dựng và duy trì đảm bảo chất lượng. Một cách khác để cung cấp nước cụ thể cho việc uống rượu tại nhà hoặc kinh doanh là việc lắp đặt máy làm mát nước hoặc cung cấp nước đóng chai.
Nước thành phố Nước thô và không xử lý được lấy từ tầng nước ngầm ngầm (thông thường là qua các giếng nước) hoặc từ nguồn nước mặt, như hồ nước hoặc sông. Nước được bơm, hoặc chảy, đến một cơ sở xử lý nước. Khi đó, nước được xử lý trước để loại bỏ các mảnh vụn như lá và bùn. Sau đó, một loạt quá trình điều trị – bao gồm lọc và khử trùng bằng hóa chất hoặc các quá trình vật lý – loại bỏ các bệnh gây ra vi sinh vật. Khi quá trình điều trị hoàn thành, nước chảy ra cộng đồng thông qua mạng lưới ống và máy bơm thường được gọi là phân phối hệ thống. Khoảng 85% dân số Hoa Kỳ nhận được nước từ hệ thống nước cộng đồng. Các hệ thống nước của cộng đồng phải đáp ứng các tiêu chuẩn do Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đặt dưới thẩm quyền của Đạo luật về Nước uống An toàn (SDWA).
Nước giếng Giếng là một điểm tiếp xúc chiến lược được khoan vào một tầng nước ngầm, kết hợp với một máy bơm để rút nước và một hệ thống lọc hoặc sàng lọc cơ bản. Khoảng 15% dân số Hoa Kỳ dựa vào các nguồn nước uống cá nhân, chẳng hạn như giếng, bể chứa và lò xo. Phần lớn các giếng nhà được tìm thấy ở các vùng nông thôn. Chất lượng nước từ giếng khoan là trách nhiệm của chủ sở hữu nhà.
Nước đóng chai Theo Hiệp hội chất lượng nước Hoa Kỳ – WQA
Bạn đang đọc nội dung bài viết Khái Niệm Cơ Bản Về Giao Tiếp Rs232 trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!