Cập nhật nội dung chi tiết về Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hiến pháp của Liên hiệp vương quốc Anh (England, Scotland, Wales and Northern Ireland) là tập hợp một số luật và các nguyên tắc pháp luật, các điều ước quốc tế, các án lệ, tập quán của Nghị viện và các nguồn khác. Liên hiệp vương quốc Anh không có một văn bản Hiến pháp duy nhất như hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là lý do mà nhiều người nói rằng Hiến pháp của nước Anh là hiến pháp không thành văn, không pháp điển hoá hoặc gọi đó là hiến pháp thực tế1. Để lý giải điều này, chúng ta tìm hiểu một số sự kiện quan trọng gắn với sự ra đời của Hiến pháp và chủ nghĩa Hiến pháp ở Anh.
1. Những giai đoạn, những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng lập hiến ở Anh
1.1. Hiến chương tự do năm 1100
Vương quốc Anh được hình thành từ giữa thế kỷ IX, vào năm 927 khi bảy vùng đất nước Anh đều thuần phục sự cai trị của vua Anh. Tuy nhiên, đến ngày 14/10/1066, Vua Harold II của Anh bị bại trận và bị giết trong trận chiến Hastings với Công tước William của vùng Normandy nước Pháp. Sau khi người Norman xâm chiếm nước Anh, Vua Henry I lên ngôi và trị vì từ năm 1100 đến 1135. Khi mới lên ngôi, Vua Henry I đã ban hành Bản hiến chương tự do (Charter of Liberties) năm 1100. Bản Hiến chương tuyên bố: “Nhờ ơn Thượng đế và Hội đồng quý tộc của toàn thể Vương quốc Anh mà ta được trao vương miệng Hoàng đế”. Với Hiến chương về tự do, nhà vua thừa nhận quyền cai trị đất nước của Vua không những xuất phát từ ý chí Thượng đế mà còn từ ý chí của Hội đồng quý tộc. Có thể nói, đây là bước đầu chuyển từ tư tưởng quân chủ chuyên chế sang tư tưởng quân chủ lập hiến.
1.2. Hiến chương Magna Carta 1215
Vua John trị vì nước Anh từ năm 1199 đến 1216. Năm 1215, các nhà quý tộc Anh buộc Vua John ký Hiến chương Magna Carta, còn gọi là The Great Charter (Hiến chương vĩ đại). Hiến chương Magna Carta thừa nhận các quyền chính trị và dân sự của cá nhân như quyền của các thương nhân có thể ra, vào, ở lại hoặc di chuyển trong lãnh thổ nước Anh để buôn bán. Hiến chương cũng đảm bảo cho các cá nhân trung thành với vua có quyền nhập cảnh, xuất cảnh và tái nhập cảnh vào Vương quốc Anh2.
1.3. Triều đại Vua Henry III thế kỷ XIII và sự thành lập Nghị viện Anh năm 1265
Vua Henry III (1207-1272) thừa kế ngai vàng của Vua John khi mới lên 9 tuổi. Vì vậy, triều đình Anh quốc phải thiết lập chế độ nhiếp chính cho đến khi Vua Henry đủ 20 tuổi.
Dưới áp lực của các nhà quý tộc, đứng đầu là Simon de Montfort, Vua Henry phải chấp nhận sự ra đời và tồn tại của Nghị viện đầu tiên của nước Anh năm 1265. Đến đời Vua Richarch II, vào năm 1381, một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân nổ ra. Tuy bị thất bại nhưng nó đã góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ chế độ nông nô.
1.4. Đạo luật về quyền lực tối cao năm 1534
Dưới triều Vua Henry VIII, một đạo luật về quyền lực tối cao được ban hành năm 1534 quy định Vua là người đứng đầu tối cao của nhà thờ Anh; còn Luật về quyền lực tối cao năm 1559 quy định Nữ hoàng Elizabet I là thống đốc tối cao của nhà thờ Anh. Tuy nhiên, Nữ hoàng phải được sự đồng ý của Nghị viện khi ban hành bất cứ chính sách nào. Nghị viện ngay từ thời kỳ Nữ hoàng Elizabet trị vì đã có hai viện. Thượng viện đại diện cho tầng lớp quý tộc nên được gọi là House of Lords (Viện quý tộc), còn Hạ viện đại diện cho tầng lớp trung lưu trong xã hội nên được gọi là House of Common (Viện bình dân). Hạ viện nhanh chóng phát triển do sự phát triển đột biến của tầng lớp trung lưu trong xã hội. Đặc biệt, trong Hạ viện xuất hiện khối Nghị sĩ đại diện cho những người theo đạo Tin lành luôn đòi hỏi mở rộng các quyền cho những người theo đạo này. Tuy nhiên, Nữ hoàng Elizabet I là người có tính cách mạnh mẽ nên không để cho nhóm nghị sĩ này thao túng.
1.5. Triều đại Tudors (1485-1603)
Trong thời kỳ dòng họ Tudors trị vì nước Anh (1485 -1603)3, học giả Geoffrey Elton đã xây dựng bản Hiến pháp Tudors theo trường phái nhà nước Hy Lạp cổ đại, với mô hình của Cộng hoà Sparte. Học giả khá nổi tiếng cùng thời là John Aylmer đã cổ vũ cho tư tưởng lập hiến của Bản hiến pháp này và cho rằng Hiến pháp Tudors là anh em, họ hàng với nền cộng hoà cổ điển Sparte. Mặc dù Hiến pháp Tudors không được Nghị viện và Vua chấp nhận nhưng cùng với Geoffrey Elton, John Aylmer và một số người cùng thời đã làm sống lại tư tưởng dân chủ thời kỳ Hy Lạp cổ đại và ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng lập hiến ở Anh thời kỳ này là xây dựng một chế độ chính trị kết hợp những tư tưởng dân chủ Hy Lạp thời kỳ cổ đại với chế độ quân chủ mới ở Anh để xây dựng chế độ cộng hoà Nghị viện.
1.6. Vua James I (1603-1625)
Khi Nữ hoàng Elizabeth I từ trần (năm1603), không có sự bàn luận, ngai vàng của Nữ hoàng được chuyển giao cho cháu là James VI, con trai của Nữ hoàng Scotland và James VI của Scotland trở thành Vua James I của Vương quốc Anh. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thiết lập liên hiệp Anh. Vua James I của Anh là người sùng bái học thuyết quyền lực của Vua xuất phát từ ý chí Thượng đế. Vua do Thượng đế lựa chọn và chỉ chịu trách nhiệm trước Thượng đế, do vậy, nhà vua phải toàn quyền. Quan điểm này của James I được củng cố thêm bởi niềm tin tôn giáo vì James là người theo đạo Tin lành, người luôn tin rằng số phận con người do Chúa định đoạt. James I vì thế đã chống lại tư tưởng bầu cử, đặc biệt là quan điểm phổ biến lúc bấy giờ ở Anh là giáo đoàn bầu ra các mục sư của họ.
1.7. Vua Charles I và các cuộc chiến tranh
Vua Charles I thừa kế ngai vàng của Vua James năm 1625. Cũng như cha đẻ của mình, Vua Charles I tin vào quyền của Thượng đế và tiếp tục tranh đấu với Nghị viện để bảo vệ các quyền của mình. Nghị viện trong thời kỳ này nắm quyền kiểm soát thuế và đang đấu tranh để được quyền quyết định nhiều hơn nữa trong lĩnh vực thuế. Theo truyền thống, Nghị viện sẽ bỏ phiếu ra Nghị quyết khi Vua mới lên cầm quyền quy định các loại thuế và mức thuế, nghĩa vụ đóng thuế hàng hoá như rượu vang hoặc vải len… tạo thành nguồn thu nhập hàng năm của Vua. Giờ đây, Nghị viện muốn đánh giá lại các thứ thuế đó hàng năm để có thể kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn thu hàng năm của Vua. Để ngăn cản việc này, Vua Charles I đã giải tán Nghị viện. Vua Charles đòi rất nhiều tiền lãi từ khoản cho các nhà quý tộc vay và cũng nhận được nhiều tiền từ các loại thuế, đặc biệt là thuế thu từ những tàu thuyền neo đậu trên bờ biển nước Anh. Để thu được nhiều tiền hơn nữa, Vua Charles lại cho thu thuế tàu thuyền trong nội địa các quận và khoản thuế mới này Vua đặt ra mà không có sự phê chuẩn của Nghị viện là vi phạm luật tập quán của Anh. Điều này làm cho người dân Anh chống đối lại Sắc lệnh của Vua. Tuy nhiên, Vua Charles I đã gây chiến với Pháp, Tây Ban Nha và cuộc chiến tranh tốn kém này đòi hỏi nhà Vua phải có nhiều tiền hơn nữa. Charles đã triệu tập Nghị viện năm 1629, yêu cầu Nghị viện đặt thêm một loại thuế nữa để có tiền mua sắm vũ khí và nuôi quân đội. Nghị viện chấp thuận đề nghị của Vua Charles I với điều kiện Vua phải ký phê chuẩn vào Đạo luật về quyền thỉnh cầu của nhân dân; trong đó bắt buộc Vua phải tuân thủ luật của Nghị viện. Đạo luật hạn chế quyền lực của Vua bằng các quy định: Vua không thể ban hành lệnh thiết quân luật ở Anh trong thời bình; Vua không thể thu thuế nếu Nghị viện không chấp thuận; Vua không thể tuỳ tiện bắt giam người dân; Vua không thể cho đóng quân trong nhà tư nhân.
Sau khi đạt được nguyện vọng, nhận được luật thuế mới do Nghị viện ban hành năm 1629, Vua giải tán Nghị viện và phá bỏ nguyên tắc đã xác lập trong Đạo luật về quyền thỉnh cầu của nhân dân4.
Trong thời kỳ này đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh, các cuộc chiến tranh giữa Anh với Pháp và Tây Ban Nha đều do Công tước của Buckingham gây ra. Vua Charles I cùng với Tổng giám mục của nhà thờ Canterbury là William Laud đã tiến hành chiến tranh với Scotland nhằm mục đích chuyển hoá dân Scotland vào giáo phái Tin lành của nhà thờ Anh. Cuộc chiến tranh này được gọi là chiến tranh giám mục diễn ra trong hai năm 1639-1640. Cuộc chiến tranh này có hai giai đoạn chính. Trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh, Vua Charles I kêu gọi Nghị viện đặt ra thuế mới để phục vụ chiến tranh, nhưng Nghị viện từ chối. Sau đó, Charles I tuyên bố giải tán Nghị viện. Sau đó, Charles I lại triệu tập Nghị viện một lần nữa. Và lần này để chấp nhận lập ra một loại thuế mới, Nghị viện đặt ra những điều kiện ngặt nghèo buộc Charles phải tuân theo như một ông vua của chế độ quân chủ lập hiến. Những điều kiện đó là: phải đàn hạch Thomas Wentworth và William Laud; thực hiện Luật “Triennial Act” (Luật ba năm) năm 1641. Theo đó, Nghị viện phải họp 3 năm một lần dù có sự đồng ý của Vua hay không; xoá bỏ thiết chế toà án gọi là “The Court of Star Chamber” (Toà Sao) khét tiếng là toà án bất công và tàn bạo, nơi mà công tố viên và thẩm phán xét xử là một và do Vua Charles I khống chế; xoá bỏ Toà án cấp cao (High Court). Toà án này cũng như Toà Sao đã xét xử một cách bất công, dựa trên các thuyết lý của tà đạo, đã không còn là toà án của pháp luật; tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo và cho phép lưu hành bản sao các tài liệu mà trong đó các công chức đã tố cáo tội phạm mà Charles I đã thực hiện từ khi lên ngôi vua; chấp nhận không bao giờ giải tán Nghị viện nếu không được sự đồng ý của Nghị viện.
1.8. Oliver Cromwell và khối thịnh vượng chung
Mặc dù giành được thắng lợi nhưng phái Nghị viện Anh đã không thiết lập được giáo phái trưởng lão Tin lành thành tôn giáo quốc gia như đã hứa hẹn nên ba bộ phận: quân đội kiểu mới của Cromwell, Nghị viện và quân đội Scotland đã tách biệt. Những người Scotland được trả một khoản tiền báo đáp sự giúp đỡ của họ và được đưa về nước. Oliver Cromwell đề nghị Nghị viện phục hồi các giám mục của nhà thờ Anh và Vua Charles I như một chế độ quân chủ lập hiến và cho phép sự tồn tại của các tôn giáo khác ngoài đạo Tin lành. Nghị viện chấp thuận khôi phục ngai vàng cho Charles I nhưng không chấp nhận tôn giáo khác ngoài đạo Tin lành. Nghị viện quyết nghị giải tán quân đội nhưng quân đội từ chối thực hiện quyết nghị của Nghị viện. Vua Charles I lúc này lại đề nghị sự cứu viện của Scotland và hứa hẹn sẽ thiết lập giáo phái trưởng lão đạo Tin lành trên nước Anh. Cuộc nội chiến mới lại nổ ra vào năm 1648 giữa một bên là Scotland, những Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão đạo Tin lành, những người trung thành với Vua Charles I và bên kia là quân đội kiểu mới và bộ phận còn lại của Nghị viện. Trong cuộc nội chiến lần này với trận chiến ở Breston 1648, Cromwell với quân đội của mình đã đánh bại quân của Vua Charles I. Sau chiến thắng của Cromwell, theo sáng kiến một sĩ quan trong quân đội, Nghị viện đã loại bớt 143 trong số 203 Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão của đạo Tin lành làm cho giáo phái này chỉ còn thiểu số trong nghị viện. Nghị viện mới ra hai nghị quyết quan trọng: xoá bỏ chế độ quân chủ, xoá bỏ Viện quý tộc trong Nghị viện, đàn hạch vua Charles I; thiết lập nền cộng hoà gọi là “Khối thịnh vượng chung” nhưng thực chất là nền chuyên chính của Cromwell.
Scotland chống lại nền cộng hoà Cromwell và tuyên bố con trai của Charles I ở Edinbourgh là Vua Charles II. Tuy nhiên, Charles II bị quân đội của Cromwell đánh bại vào năm 1650. Charles II phải chạy trốn sang và cư trú ở Pháp đến năm 1660. Cromwell tiến về Ireland, do xung đột với đạo Cơ đốc nên trong các trận đánh với quân Ireland ông cho quân đội tàn sát không thương tiếc. Điều này làm cho người Ireland căm phẫn và nổi loạn chống lại ông. Cromwell đã giải tán Nghị viện và tự tuyên bố mình là người bảo hộ của nước Anh.
1.9. Richard Cromwell và Charles II
Cromwell mất năm 1658 và ngai vàng được truyền lại cho con trai là Richard Cromwell. Thực hiện chế độ chuyên chế quân sự nhưng Richard không thể thống nhất được các nhóm tôn giáo và người thiểu số. Tướng George Monk của Scotland đã tiến đánh và lật đổ ngai vàng của Richard. Sau khi nắm được chính quyền, năm 1660, George Monk triệu tập những người còn lại của Nghị viện nhóm họp. Nghị viện biểu quyết giải tán Nghị viện để thành lập Nghị viện mới. Nghị viện được thành lập từ năm 1640 đến lúc này tồn tại được 20 năm nên được gọi là “Long Parliament” (Nghị viện dài). Nghị viện mới được thành lập đã quyết định tái lập chế độ quân chủ và đưa Charles II (lúc này đang còn cư trú ở Pháp) về làm Vua của Anh.
1.10. Hiệp ước liên hiệp 1706 và việc thành lập Liên hiệp Anh năm 1707
Ngày 22/6/1706, Hiệp ước Liên hiệp giữa Anh và Scotland được ký kết. Hiệp ước này nhanh chóng được Nghị viện của Anh và Scotland phê chuẩn. Nghị viện của Anh và Scotland cũng thông qua Luật liên hiệp vào năm1707.
Gần một thế kỷ sau đó, Vương quốc Ireland, đất nước được đặt dưới sự kiểm soát của Anh từ năm 1541 đến 1691 đã thông qua Luật liên hiệp để gia nhập Liên hiệp Vương quốc Anh vào năm 1800.
1.11. Cải cách toà án nửa cuối thế kỷ XIX
Trước năm 1875, ở Anh tồn tại hai hệ thống toà án cạnh tranh với nhau. Toà án thông luật (Common law Courts) là hệ thống các toà án hoàng gia xét xử theo nguyên tắc áp dụng án lệ. Do thủ tục tố tụng của hệ thống toà án này phức tạp nên không phải ai cũng có thể bảo vệ được công lý thông qua hệ thống toà án này. Đây chính là lý do mà Toà đại pháp quan (Chancery Court) – toà án xét xử trên cơ sở luật công bình (equity) ra đời. Luật công bình là tổng thể các quy phạm pháp luật do Toà đại pháp quan tạo ra để bổ sung, bù đắp những lỗ hổng của hệ thống thông luật thời đó. Luật công bình tôn trọng luật án lệ; luật công bình không phủ định mà chỉ là sự bổ sung cho luật án lệ. Trước năm 1875, Luật công bình và thông luật có sáu điểm khác nhau cơ bản: nguồn gốc của quy phạm pháp luật thông luật là án lệ, còn nguồn gốc của quy phạm luật công bình là các nguyên tắc công bằng, công lý; quy phạm pháp luật của luật công bình chỉ được áp dụng ở Toà đại pháp quan, các Toà thông luật không được phép áp dụng; các Toà thông luật khi xét xử có đoàn bồi thẩm, ở Toà án công bình xét xử không có bồi thẩm đoàn; các Toà thông luật xét xử theo thủ tục tranh tụng đối kháng, chú trọng các luận cứ bằng lời nói, thủ tục ở Toà công bình là thủ tục thẩm vấn, coi trọng các tài liệu thành văn; toà thông luật ra các bản án, còn Toà công bình ban hành các lệnh, quyết định; khi có tranh chấp về thẩm quyền xét xử, Toà đại pháp quan thường có ưu thế hơn Toà công bình.
Luật Toà án tối cao năm 1873 đã thành lập Toà án tối cao bao gồm hai bộ phận là Toà án cấp cao (High Court of Justice) và Toà phúc thẩm (Court of Appeal). Toà án cấp cao bao gồm ba phân toà là Chancery Division (Toà Đại pháp quan); Family Division (Toà gia đình); Queen Bench,s Division (Toà nữ hoàng)5. Với sự cải cách này, hai hệ thống toà án thông luật và luật công bình đã hoà nhập vào một và trở thành các toà chuyên trách của Toà án cấp cao. Hai hệ thống toà án này vẫn giữ những nét đặc trưng của mình; tuy nhiên, Luật mới cho phép tất cả các toà có thể áp dụng cả thông luật và luật công bình. Cùng với việc cải tổ hệ thống toà án, Luật Toà án tối cao 1873 cũng đơn giản hoá thủ tục tố tụng bằng cách quy định tất cả các loại vụ việc đều được bắt đầu bằng một loại trát gọi là trát triệu tập. Cuộc cải cách thủ tục tố tụng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trước cuộc cải cách này, ở các Toà án thông luật ở Anh có đến khoảng 80 loại trát khác nhau phụ thuộc vào các hình thức khởi kiện khác nhau. Hệ thống trát phức tạp này đã làm cho nhiều người dân không thể tiếp cận được công lý.
Một đạo luật quan trọng khác được ban hành trong thời gian này là Luật về thẩm quyền xét xử phúc thẩm 1876. Đạo luật thành lập Uỷ ban tư pháp của Thượng viện là cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng ở Anh. Như vậy, Thượng viện Anh vừa là một trong hai viện của cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan nắm quyền tư pháp tối cao.
1.12. Những cải cách của Công đảng vào những năm cuối thế ký XX đầu thế kỷ XXI
Từ năm 1997 đến năm 2001, Công đảng cầm quyền và đã tiến hành các cuộc cải cách đáng lưu ý như: thành lập Nghị viện ở Scotland và Hội đồng ở xứ Wales và Bắc Ai-len với cách thức bầu cử trực tiếp; thành lập Hội đồng ở London kết hợp với chức vụ Thị trưởng do dân trực tiếp bầu; thực hiện cải cách Thượng viện, huỷ bỏ 92 chức vụ Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền; nội luật hoá Công ước châu Âu về quyền con người bằng việc ban hành Luật về quyền con người năm 1998; ban hành Luật về tự do thông tin năm 2000; ban hành Luật về các đảng phái chính trị, bầu cử và trưng cầu dân ý năm 2000; thành lập Uỷ ban bầu cử để tổ chức thực hiện các hoạt động bầu cử và trưng cầu dân ý; thành lập ngân hàng nước Anh độc lập với tất cả các thiết chế khác; thành lập Toà án tối cao ngày 1/10/2009.
Sự thành lập Toà án tối cao được tiến hành trên cơ sở Luật cải cách hiến pháp 2005. Toà án tối cao bao gồm 12 thẩm phán do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng.
Toà án Tối cao của Liên hiệp Anh là toà phúc thẩm cuối cùng và cao nhất đối với tất cả các vụ án trên tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự (hành chính, thương mại, lao động) của Anh, xứ Wales và Bắc Ailen và lĩnh vực dân sự của Scotland. Đối với lĩnh vực hình sự ở Scotland thì Toà án tư pháp cấp cao vẫn là cơ quan xét xử phúc thẩm hình sự cao nhất. Việc thành lập Toà án tối cao Liên hiệp vương quốc Anh đã tách quyền tư pháp ra khỏi Thượng viện, một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Các đặc điểm cơ bản của Hiến pháp Anh
2.1. Chủ quyền tối cao của Nghị viện và nhà nước pháp quyền
Vào thế kỷ XIX, một luật gia, một nhà Hiến pháp học Anh nổi tiếng là A.V. Dicey đã viết rằng: “Hai trụ cột của Hiến pháp Anh là chủ quyền tối cao của Nghị viện và nhà nước pháp quyền”6. Theo học thuyết chủ quyền tối cao thuộc về Nghị viện, Nghị viện có thể ban hành bất kỳ luật nào mà nó muốn. Các luật do Nghị viện ban hành có hiệu lực tối cao và là nguồn cuối cùng của pháp luật. Điều này trái ngược với các nước có Hiến pháp thành văn, tất cả các luật do Nghị viện ban hành đều không được trái với Hiến pháp. Rất nhiều luật của Liên hiệp Vương quốc Anh có ý nghĩa như là Hiến pháp. Ví dụ, Nghị viện Anh có quyền kéo dài nhiệm kỳ của mình. Đạo luật năm 1911 và năm 1949 quy định nhiệm kỳ của Nghị viện là 5 năm; tuy nhiên, nó có thể kéo dài nếu hai viện đồng ý. Quyền này được sử dụng trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, Nghị viện thành lập năm 1935 đã kéo dài nhiệm kỳ của mình đến năm 1945. Tuy nhiên, Vua vẫn giữ lại quyền giải tán Nghị viện theo tư vấn của Thủ tướng. Nghị viện có quyền thay đổi diện mạo của các viện và mối quan hệ giữa hai viện. Luật năm 1999 đã thay đổi thành viên của Thượng viện, huỷ bỏ 92 Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền. Nghị viện không những có quyền kéo dài nhiệm kỳ mà còn có quyền quyết định hàng thừa kế ngai vàng. Quyền này đã được thực hiện trong thời gian gần đây nhất bằng việc ban hành Luật thoái vị ngai vàng 1936 với hệ quả của nó là Vua Edward VIII thoái vị và con, cháu của vị vua này đã mất quyền thừa kế ngai vàng. Nghị viện còn có quyền tước bỏ và điều chỉnh quyền lực của Vua.
Theo quy định của Luật Tổ chức nghị viện, Nghị viện bao gồm Vua, Thượng viện, Hạ viện. Hạ viện có 646 thành viên do nhân dân bầu theo chế độ bầu cử đơn danh và đa số tương đối. Luật về Thượng viện năm 1999 quy định Thượng viện bao gồm 26 giám mục của các nhà thờ của Anh, 92 đại biểu bầu từ các quý tộc kế truyền và khoảng vài trăm quý tộc suốt đời.
Quyền bổ nhiệm các giám mục các nhà thờ Anh, quyền phong tặng danh hiệu quý tộc kế truyền và quý tộc suốt đời thuộc về Vua theo tư vấn của Thủ tướng. Theo Luật Nghị viện năm 1911 và 1949, Nghị viện có thể, trong một số hoàn cảnh nhất định, thông qua luật không cần sự tán đồng của Thượng viện. Mặc dù tất cả các văn bản luật do Nghị viện thông qua phải được Vua phê chuẩn mới trở thành luật nhưng trên thực tế từ năm 1708 đến nay, Vua Anh chưa bao giờ từ chối phê chuẩn.
Hạ viện Anh có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải từ chức. Việc bỏ phiếu bất tín nhiệm không cần phải Thượng viện hay Vua phê chuẩn.
Nghị viện cũng có truyền thống có thể cách chức các bộ trưởng theo thủ tục đàn hạch, Hạ viện buộc tội và Thượng viện xét xử. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến nay, quyền này của Nghị viện không được sử dụng. Luật cải cách Hiến pháp năm 2005 cho phép Nghị viện cũng có thể xét xử theo thủ tục đàn hạch để cách chức các thẩm phán nếu họ có hành vi không phù hợp với tư cách thẩm phán.
Nghị viện Anh có khá nhiều quyền nên nhà Hiến pháp học của Anh là Enoche Powel đã viết: “Ngoài lịch sử Nghị viện, nước Pháp vẫn có lịch sử của mình. Nhưng nếu bỏ qua lịch sử Nghị viện, nước Anh không còn tồn tại”7. Nhận xét này cũng rất phù hợp với câu châm ngôn nổi tiếng về Nghị viện Anh: “Nghị viện có thể làm được tất cả trừ việc biến người đàn ông thành người đàn bà”.
2.2. Chế độ quân chủ lập hiến
“Nhà vua trị vì mà không cai trị” – câu nói của nhà văn Anh Walter Bagehot về nhà vua Anh đã trở thành câu châm ngôn nổi tiếng về chế độ quân chủ lập hiến ở Anh. Theo Hiến pháp, Vua là người đứng đầu Nhà nước có rất nhiều quyền nhưng những quyền đó nhà vua không trực tiếp thực hiện hoặc thực hiện theo sự tư vấn của Thủ tướng. Theo Hiến pháp, Vua có các thẩm quyền sau đây: bổ nhiệm và miễn nhiệm Thủ tướng; bổ nhiệm và miễn nhiệm các bộ trưởng; bổ nhiệm các công chức cấp cao; triệu tập, trì hoãn, khai mạc, bế mạc các kỳ họp của Nghị viện và giải tán Nghị viện; tuyên bố chiến tranh và hoà bình; tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang; phê chuẩn các hiệp ước; bổ nhiệm các giám mục và Tổng giám mục của nhà thờ Anh; phong tặng các danh hiệu quý tộc.
Quyền bổ nhiệm Thủ tướng của Vua, phần lớn chỉ mang tính hình thức vì sau khi bầu cử Nghị viện ai cũng biết trước thủ lĩnh của Đảng cầm quyền sẽ trở thành Thủ tướng. Lần cuối cùng Vua bổ nhiệm Thủ tướng không theo ý chí của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện là bổ nhiệm Harold Wilson làm Thủ tướng tháng 2/1974 mặc dù Đảng của Harold Wilson không chiếm đa số trong Hạ viện. Nữ hoàng Elizabeth II đã thực hiện quyền này theo sự tư vấn của Hội đồng cơ mật.
Quyền miễn nhiệm Thủ tướng cũng thường là hệ quả của việc Hạ viện bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Lần cuối cùng Vua nước Anh tự mình quyết định bãi nhiệm Thủ tướng không cần việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ là vào năm 1834, Vua Wiliam IV đã giải thể Chính phủ của Lord Melbourn thay nó bằng Chính phủ của Công tước Wellington. Quyền phủ quyết luật của Vua cũng mang tính hình thức vì lần cuối cùng quyền này được thực hiện là vào năm 17088.
2.3. Chế độ chính trị lưỡng đảng
Cũng như Hoa Kỳ, nước Anh có chế độ chính trị đa nguyên nhưng vì chỉ có hai đảng có khả năng thay nhau cầm quyền nên được gọi là chế độ chính trị lưỡng đảng. Công đảng và Đảng Bảo thủ thường xuyên thay nhau cầm quyền. Khi một trong hai Đảng này thắng cử trong bầu cử Nghị viện, Đảng thứ hai sẽ trở thành đảng đối lập. Đảng đối lập là lực lượng kiểm tra, giám sát và phản biện đường lối chính sách của Đảng cầm quyền.
2.4. Sự gắn kết và thống nhất giữa lập pháp và hành pháp
Do Chính phủ được thành lập từ đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện và Nghị viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải giải tán, nên giữa Chính phủ và Nghị viện có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết. Đối với Anh, chế độ dân chủ Nghị viện buộc Chính phủ phải lãnh đạo đất nước trong và thông qua Nghị viện. Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể trước Nghị viện nên muốn tồn tại đến hết nhiệm kỳ, Chính phủ phải luôn ở trong vòng kiểm soát của Nghị viện.
2.5. Sự tách bạch giữa chính trị và công vụ
Nước Anh xây dựng nền công vụ vô tư và khách quan bằng việc quy định công chức không đảng phái, các tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức vụ trong bộ máy hành chính và tư pháp không gắn với các đảng phái chính trị, không cần một bằng chính trị cao cấp nào. Phẩm chất của công chức là nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tuân thủ pháp luật.
2.6. Tư pháp độc lập và án lệ
Người Anh có thể tự hào về nền tư pháp của mình, một nền tư pháp độc lập không chịu sự sai khiến của bất cứ đảng phái chính trị nào. Thẩm phán có uy tín cao, bằng việc áp dụng án lệ cũng có thể sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để duy trì trật tự pháp luật và công bằng xã hội. Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và chủ yếu từ các luật sư có uy tín trong xã hội.
2.7. Tập quán hiến pháp
Người Anh quan niệm pháp luật là đại lượng của công bằng, công lý, vì thế pháp luật được hiểu không những là những quy tắc bắt buộc thực hiện do các cơ quan nhà nước ban hành mà còn là những quy tắc do cuộc sống tạo lập nên, mặc dù trong pháp luật thành văn không tìm thấy. Quan niệm mềm dẻo về pháp luật cho phép người Anh thừa nhận các tập quán hiến pháp. Đó là những quy tắc mang tính bắt buộc đối với một số hành vi chính trị được hình thành từ lâu trong đời sống chính trị. Chẳng hạn, theo quy định của Hiến pháp, Vua có đặc quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng nhưng thực tế đã hình thành tập quán hiến pháp, Vua chỉ bổ nhiệm Thủ lĩnh của đảng cầm quyền làm Thủ tướng. Vua có quyền phủ quyết luật nhưng hình thành tập quán hiến pháp Vua phê chuẩn luật khi đa số nghị sĩ đã chấp thuận thông qua dự luật.
(1) http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution of the United Kingdom.
(2) Constitutional and Administrative law by Hilaire Barnett, Ed. Cavendish Publishing Limited, London 2000, p. 833.
(3) Webster,s new world college dictionary, Third Edition, by Victoria Neufeld & David B. Guralnik Macmillan USA 1988, p.1438.
(4) http://en. Wikipedia.org/wiki/history_of_the_Constitution_of_the_United_Kingdom.
(5) Xem: Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại, Nxb. Tư pháp, 2010, tr. 356.
(6) http://en. chúng tôi Kingdom 4/30/2010.
(7) Claude Leclerque – Droit Constitutionel et institutions politiques,Litec 1992.
(8) http://en.wikipedia.org/wiki/constitution_of_th_United_Kingdom
So Sánh (Phân Biệt) Hiến Pháp Xhcn Và Hiến Pháp Tư Sản
79080
So sánh so sánh hiến pháp tư sản và hiến pháp xã hội chủ nghĩa
Khái niệmHiến pháp tư sản là hiến pháp của nhà nước tư sản hay các nước phát triển theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là hiến pháp được ban hành trong nhà nước XHCN, với bản chất là ý chí của nhân dân lao động.
Đặc điểmTrực tiếp hay gián tiếp tuyên bố bảo vệ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, quyền sở hữu tư nhân là thiêng liêng bất khả xâm phạm.
Hiến pháp XHCN ghi nhận khẳng định và củng cố các quan hệ sản xuất mà nó có nhiệm vụ bảo vệ, đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, ghi nhận và củng cố các nguyên tắc cơ bản của đường lối quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc XHCN, đường lối đối ngoại hòa bình hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc thể hiện tính chất nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc của chế độ mới đồng thời ghi nhận, khẳng định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, xác định một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nền tảng quyền lựcHiến pháp tư sản tập trung nói về ba cơ quan Nhà nước theo xu hướng Tam quyền phân lập:
+Tư pháp
Trong tổ chức bộ máy nhà nước phủ nhận học thuyết “Tam quyền phân lập”, áp dụng nguyên tắc tập trung thống nhất vào Quốc Hội; Thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, Mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn thể nhân dân mà đặc biệt là các cơ quan dân cử, cơ quan đại diện trong nền dân chủ XHCN.
Cơ quan quyền lực Nhà nướcTheo thông lệ, các hiến pháp tư bản đều trực tiếp hoặc gián tiếp tuyên bố nghị viện, cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra là cơ quan có quyền lực nhà nước tối cao. Nhưng trên thực tế không có một cơ chế thực tế nào phản ánh đúng tư tưởng này.
Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là cơ quan dân cử do Nhân dân cả nước bầu ra
Quy định về đảng phái chính trịKhông quy định vai trò của các đảng phái chính trị, trong khi chúng có vị trí rất quan trọng trong cơ chế quyền lực nhà nước tư sản
Hiến pháp của các nước XHCN trước đây và còn lại hiện nay ghi nhận vai trò lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản.
Đối tượng điều chỉnhHiến pháp của các nước tư sản có đối tượng điều chỉnh hẹp hơn, và thường không có quy định mang tính cương lĩnh
Điểm giống nhau giữa hiến pháp tư sản và hiến pháp xã hội chủ nghĩa
Phân biệt hiến pháp tư sản và hiến pháp xã hội chủ nghĩa
Khái Niệm Về Hiến Pháp Và Bản Chất Của Nó
Hiến pháp phải có mặt trong bất kỳ hiện đại nhà nước dân chủ. Khái niệm về hiến pháp ngụ ý sự hiện diện của luật cơ bản, trong đó nêu ra càng rõ ràng càng tốt các quyền và nghĩa vụ của người dân của một quốc gia. Tuyệt đối tất cả những người trong nước vô điều kiện phải tuân theo các quy tắc. Điều này áp dụng ngay cả với công dân các nước khác, những người cư trú vĩnh viễn hoặc tạm thời trên lãnh thổ của đối phương. Cụm từ “vô minh của luật pháp là không có lý do” mô tả rất chính xác định hướng dân chủ của bất cứ nước nào. Nghĩa là, nếu bạn đã phạm tội trên lãnh thổ của nước khác, nhưng không biết rằng điều này không thể được thực hiện, nó hoàn toàn không biện minh cho bạn, và bạn sẽ chịu trách nhiệm cài đặt. Đây là chức năng của nhiều hiến pháp.
Ở nhiều nước trên thế giới là những tội ác khủng khiếp nhất đã được cam kết chống lại các luật cơ bản. Đương nhiên, đối với hành vi phạm tội như vậy, hệ thống tội phạm thường cung cấp các hình phạt nặng nề nhất. Như cứng nhắc càng tốt để này là các nhà lãnh đạo của những nước mà nó vẫn được phép hình phạt tử hình. Do đó, các chính trị gia cho thấy công dân của họ mà lần đầu tiên chúng ta phải tôn trọng pháp luật của họ và trong mọi trường hợp không vượt qua chúng. Cho đến nay, chẳng hạn một khái niệm về một hiến pháp ở hầu hết các quốc gia trên hành tinh chúng ta.
Nếu chúng ta làm một chút lịch sử, chúng ta có thể thấy rằng các quốc gia thành những người duy nhất ngay lập tức bổ nhiệm những người đã phải xây dựng một hiến pháp. Điều này đã được thực hiện để đảm bảo rằng mọi người đều sợ một cái gì đó và không làm bất cứ điều gì họ muốn. Do đó, các nhà lãnh đạo của nhà nước mới được thực hiện hành động phòng ngừa, mà không cho phép sự hỗn loạn để thức dậy trên lãnh thổ của họ.
Thật không may, trong các nước thuộc Liên Xô cũ để áp dụng một hệ thống quản lý là rất nguy hiểm. Xét cho cùng, nếu mọi người sẽ không biết những gì không nên làm, và những gì trừng phạt có thể làm theo các khoản hoa hồng là hành vi bất hợp pháp. Bên cạnh đó, do mức độ rất cao của tham nhũng ở nước ta là tốt hơn không có nguy cơ nó. Sau khi tất cả, hầu hết tất cả tư pháp, truy tố và thực thi pháp luật chi nhánh của pháp luật sẽ ngay lập tức bắt đầu để mất rất nhiều quyết định ngớ ngẩn. Giải thích họ sẽ có những người đã được hướng dẫn bởi những ý định tốt, nhưng vì không có luật thành văn, không phải để nói rằng họ là sai. Ở đây bạn có một ví dụ rõ ràng của nó là một sự hỗn loạn thực sự và sự thịnh vượng cho các cấu trúc hình sự.
Vì vậy, nó là an toàn để kết luận rằng những người có tâm lý của khái niệm của chúng ta về hiến pháp riêng của mình nên đã sợ hãi, do đó ngăn cản những hành động bất hợp pháp và thực hiện phòng chống tội phạm. Nếu có văn bản pháp luật, các công dân của chúng tôi trước khi quyết định hành vi phạm tội đầu tiên kiểm tra tất cả những hậu quả của hành động. Khi ông thấy những con số này, có thể là anh ấy sẽ thay đổi ý định của mình để đi ngược lại hiến pháp.
Chúng Ta Cần Hiến Pháp Hay Chủ Nghĩa Hiến Pháp
Những tháng gần đây, thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ mười một, mọi ngành, mọi cấp đang ra sức tổ chức các hội nghị nhằm tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm sửa đổi các quy định của Hiến pháp năm 1992. Qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy rằng, chúng ta đặt quá nhiều kỳ vọng vào việc cần phải sửa đổi các chế định cụ thể của Hiến pháp, hơn là việc hiểu Hiến pháp và Chủ nghĩa Hiến pháp.
Hiến pháp là bản văn quy định thể chế Nhà nước, để có tác dụng làm cho mọi người hạnh phúc hơn. Đó là vị trí vai trò chức năng quan trọng đầu tiên của nhà nước. Sự xuất hiện nhà nước như là một cứu cánh cho việc diệt chủng của loài người, nếu như loài người vẫn đi theo đường của chế độ xã hội thị tộc nguyên thủy. Nhưng với tư cách là công cụ duy nhất của việc gìn giữ trật tự công cộng. Việc vi phạm nằm ngay ở trách nhiệm khả năng phải thi hành nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng của nhà nước. Vì vậy bên cạnh việc có trách nhiệm làm cho người dân hạnh phúc hơn, cũng có lúc Nhà nước làm cho người đau khổ hơn. Làm sao thoát khỏi tình trạng vô Chính phủ, mà lại không sa vào sự chuyên chế? Làm cách nào ấn định đủ quyền lực cho người cầm quyền, mà vẫn không sa vào việc lạm dụng quyền lực nhà nước. Giải pháp cho vấn nạn này là thuyết Hiến pháp trị tức là chủ nghĩa Hiến pháp[1].
Chủ nghĩa Hiến pháp trong tiếng Anh là Constitutionalism; có người dịch là chủ nghĩa hợp hiến, có người dịch là “chủ nghĩa hiến pháp”, có người dịch là “chủ nghĩa lập hiến”. Theo quan điểm của tôi, dịch là “chủ nghĩa hiến pháp” đúng hơn, bao quát hơn. Nội hàm của khái niệm “chủ nghĩa” đang là một trong những vấn đề rất lớn trong lý luận của khoa học pháp lý hiện nay ở Việt Nam. Từ điển Bách khoa định nghĩa: Chủ nghĩa là học thuyết hay một hệ thống lý luận về chính trị, triết học, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật thể hiện bằng quan niệm, quan điểm, lập trường, khuynh hướng, phương pháp luận, phương pháp sáng tác… do một người hoặc một tập thể các nhóm người đề xướng[2]. Từ điển Chính quyền và Chính trị Hoa Kỳ của Jay M. Shafritz ghi:”Chủ nghĩa Hiến pháp là sự phát triển của những tư tưởng hợp hiến qua nhiều thời đại.Trong khi lý luận cổ điển về hiến pháp thường phải quay về với những tư tưởng của Aristotle, thì của lý luận hiến pháp hiện đại lại xuất phát từ những tư tưởng khế ước xã hội thế kỷ 17. Những biểu hiện đặc trưng của hiến pháp là khái niệm về một Chính phủ hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu của nó luôn luôn phải tuân thủ sự đồng ý của những người bị cai trị”.[3]
Chính phủ hiến pháp bắt nguồn từ những ý tưởng chính trị tự do ở Tây Âu và Hoa Kỳ là hình thức bảo vệ quyền cá nhân đối với sinh mạng và tài sản, tự do tôn giáo và ngôn luận. Ðể bảo đảm những quyền này, những người soạn thảo hiến pháp đã nhấn mạnh kiểm soát đối với quyền lực của mỗi ngành trong Chính phủ, bình đẳng trước pháp luật, tòa án công bằng và tách biệt nhà thờ khỏi nhà nước. Những đại biểu điển hình của truyền thống này là nhà thơ John Milton, luật gia Edward Coke và William Blackstone, các chính khách như Thomas Jefferson và James Madison, và những triết gia như Thomas Hobbes, John Locke, Adam Smith, Baron de Montesquieu, John Stuart Mill.
Chính phủ hợp hiến hiện đại gắn bó chặt chẽ với kinh tế và quyền lực của túi tiền, do ý tưởng cho rằng, những ai đóng thuế cho Chính phủ hoạt động phải được đại diện trong Chính phủ đó. Nguyên tắc cung cấp kinh tế và giải quyết khiếu nại đi đôi với nhau là yếu tố mấu chốt của Chính phủ hợp hiến hiện đại; sự phát triển của các thể chế đại diện và tinh thần đoàn kết dân tộc đối lập với sự tuân thủ tượng trưng đối với nhà Vua và tòa án, đã hạn chế có hiệu quả trên thực tế quyền lực của nhà Vua.
Trật tự hợp hiến của xã hội Hoa Kỳ được xây dựng trên nền tảng sự nhất trí của công dân tự do và có lý trí, thể hiện trong biểu tượng “khế ước xã hội” làm cơ sở để đạt được những mục đích nhất định. Thuyết “khế ước xã hội” cực thịnh ở châu Âu thế kỷ 17 và 18, gắn liền với tên tuổi nhà triết học Anh Thomas Hobbes, John Locke và nhà triết học Pháp Jean-Jacques Rousseau. Những nhà tư tưởng này đã giải thích nghĩa vụ chính trị của các cá nhân đối với cộng đồng trên cơ sở lợi ích và lý trí, và họ cũng nhận thức rõ những lợi thế của xã hội dân sự nơi mà cá nhân có cả quyền và nghĩa vụ so với những bất lợi của “nhà nước tự nhiên”, một giả thuyết về sự vắng mặt hoàn toàn của quyền lực Chính phủ. Ý tưởng “khế ước xã hội” phản ánh nhận thức cơ bản rằng, một cộng đồng chứ không chỉ là một Chính phủ khả thi phải được thiết lập nếu có một Chính phủ tự do và nếu con người được bảo vệ chống lại sự tấn công của những ham muốn đồng nghĩa với tình trạng hỗn loạn, bạo ngược và nổi loạn chống lại trật tự hợp lý sẵn có. Trong tạp chí “Người theo chủ nghĩa liên bang” (số 2), John Jay lập luận rằng, cá nhân có thể từ bỏ một số quyền tự nhiên cho xã hội nếu Chính phủ có quyền lực cần thiết để bảo vệ lợi ích chung. Kết quả là sự tham gia của công dân vào nền dân chủ hợp hiến đi kèm với trách nhiệm tuân thủ luật pháp và các quyết định của cộng đồng trong các vấn đề chung, thậm chí khi cá nhân bất đồng gay gắt. Aristotle và Spinoza đều cho rằng, cả “kẻ súc sinh” tức là tội phạm vô Chính phủ, và “kẻ bề trên” tức sẽ trở thành nhà độc tài, đều sử dụng luật pháp theo ý mình và phải bị khuất phục hay tẩy chay khỏi xã hội. Hobbes, Locke và những nhà sáng lập nước Mỹ đều đồng ý như vậy. Ðây là điều kiện tiên quyết của xã hội dân sự. Luật pháp và chính sách của Chính phủ hợp hiến không chỉ bị giới hạn về phạm vi mà còn dựa trên sự nhất trí nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân nói chung, và từng cá nhân nói riêng, trong xã hội đó.
Các yếu tố của Chủ nghĩa Hiến pháp – Chính quyền bị giới hạn quyền lực gồm:i. Chính quyền phù hợp với Hiến pháp; ii. Phân quyền; iii. Chủ quyền thuộc về nhân dân, iv. Tư pháp độc lập và có tòa án Hiến pháp; v. Luật dân quyền/quyền con người; vi. Kiểm soát cảnh sát; vii. Quân đội nằm dưới điều khiển của dân sự; viii. Không 1 thế lực nào đình chỉ hoạt động một phần hoặc toàn thể hiến pháp.[4]
Trong chủ nghĩa Hiến pháp phải có Hiến pháp. Nội dung của Hiến pháp phải chứa đựng2 nội dung căn bản: Nội dung thứ nhất: Phân quyền. Có thể là phân quyền mềm dẻo tạo nên chế độ đại nghị, có thể là phân quyền cứng rắn: Chế độ tổng thống; hoặc sự phối kết hợp giữa hai loại phân quyền nói trên tạo thành chính thể hỗn hợp.
Nội dung thứ hai là Nhân quyền. Nội dung này có thể quy định ngay trong phần chính văn, hoặc quy định trong một văn bản riêng.Thực tiễn hiện nay là hiến pháp phải bảo vệ nhân quyền và tòa án hiến pháp đặc biệt phải đóng vai trò chính trong việc bảo vệ đó. Lời Nói đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ đề cập đến một trật tự chính trị mới ở Hoa Kỳ dựa trên những nguyên tắc sau: thiết lập một liên minh hoàn hảo hơn, cung cấp sự bảo vệ chung, thiết lập công lý, đảm bảo quyền tự do cho thế hệ hiện nay và mai sau. Trước đó, Tuyên ngôn Độc lập cũng đã nói đến “quyền bất khả nhân nhượng” như là quyền tự nhiên của con người và Chính phủ không thể tước đoạt những quyền đó. Việc làm thế nào để bảo đảm tốt nhất công lý và quyền tự do, hồi đó cũng như bây giờ, đã gây ra những bất đồng gay gắt giữa các đảng. Khi được sơ thảo và trình cho các bang thông qua, Hiến pháp không nói đến quyền cá nhân. Lời giải thích cho sự bất thường này, các nhà soạn thảo cho rằng, quyền lực của Chính phủ quốc gia mới thành lập bị giới hạn cẩn thận đến mức các quyền cá nhân không cần có biện pháp bảo vệ thêm. Những người soạn thảo cho rằng, Dự thảo Hiến pháp đã chứa đựng một cơ chế bảo vệ nhân quyền, mà không cần thiết phải có các quy định về nhân quyền trong Hiến pháp. Các quyền lực nhà nước được quy định một cách rạch ròi theo nguyên tắc phân quyền và kèm theo là một hệ thống kìm chế đối trọng (checks and balance) giữa các nhánh quyền lực, thì không có cơ hội cho việc vi phạm nhân quyền. Hơn nữa, những người theo chủ nghĩa liên bang khác lập luận rằng, liệt kê thêm các quyền sẽ kéo theo thêm trách nhiệm pháp lý, tức là những quyền được coi là cơ bản nhưng chưa định rõ sẽ dễ bị Chính phủ xâm phạm.
Mục đích của việc quy định nhân quyền trong Hiến pháp là rút bớt một số chủ đè nhất định ra khỏi các cuộc tranh cãi chính trị, đặt chúng ra ngoài tầm với của các nhóm người và quan chức nhà nước. coi chúng là những nguyên tắc pháp lý mà tòa án phải áp dụng. Quyền con người được sống, được tự do, được sở hữu, được tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp và các quyền cơ bản khác không thể là kết quả của việc bỏ phiếu, chúng không phụ thuộc vào bất kỳ cuộc bầu cử nào.[5]
Chủ nghĩa Hiến pháp /Constitutionalism không đồng nghĩa với bản Hiến pháp/Constitution, nếu như bản hiến pháp không có những nội dung cấu thành của chủ nghĩa Hiến pháp như không có phân quyền, không có nhân quyền, không có tư pháp độc lập và nhất là bản hiến pháp đó không được tổ chức thực thi trong thực tế, thì ở những quốc gia đó có Hiến pháp, nhưng không có chủ nghĩa Hiến pháp. Ngược lại ở nhà nước Anh quốc mặc dù không có hiến pháp thành văn, nhưng trên thực tế với tập tục tôn trọng thực tế, và quá khứ, những gì ăn sâu vào tiềm thức hành vi của người Anh thì rất khó thay đổi. Họ luôn luôn tôn trọng quá khứ, luôn luôn tuân thủ hiến pháp bất thành văn của họ.Đấy là tinh thần của chủ nghĩa Hiến pháp bắt nguồn từ xưa của những đạo luật thành văn và bất thành văn được hình thành từ những năm giữa thiên niên kỷ trước cho đến nay vẫn không thay đổi như: Luật đình quyền giam giữHabeas Corpus Act 1640, The Bill of Rights 1689…
Điểm khác cơ bản ở đây giữa chủ nghĩa Hiến pháp và Hiến pháp ở hai điểm: i.Hiến pháp ở chủ nghĩa Hiến pháp là bản hiến pháp có mục tiêu hạn chế quyền lực nhà nước, nên nội dung của Hiến pháp phải chứa đựng sự phân quyền và nhân quyền; ii. Nội dung của bản hiến pháp này phải được thực thi trên thực tế, sự vi phạm Hiến pháp phải được xét xử bằng các Tòa án Hiến pháp.
Cả sự mơ hồ trong thuật ngữ hiến pháp lẫn thực tế là không phải quốc gia nào có hiến pháp cũng đều tuân theo chế độ hợp hiến đã dẫn đến sự tranh luận có tính học thuật, cho rằng một số văn bản hiến pháp chỉ là hiến pháp danh nghĩa, giả mạo, hư cấu hay bề ngoài. Theo lối nói này, một hiến pháp được gọi là danh nghĩa khi lời văn của nó mô tả chính xác, nhưng không hạn chế, hành vi của chính phủ. Nói cách khác, hiến pháp danh nghĩa là một hiến pháp thành văn, cụthể hóa một cách trung thực hiến pháp bất thành văn của quốc gia, nhưng không tuân theo các nguyên tắc khác của chế độ hợp hiến. Mặt khác, một hiến pháp giả mạo, hư cấu hoặc bề ngoài là một văn bản với những điều khoản không đáp ứng thông lệ cầm quyền trên thực tế. Sự định danh như vậy xuất phát từ quan điểm cho rằng một chính phủ công bố công khai cam kết của mình với chế độ hợp hiến trong một hiến pháp thành văn nhằm mục đích đánh lạc hướng sự chú ý khỏi việc sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện vốn là đặc điểm của hiến pháp bất thành văn của nước đó.[6]
Giữa chủ nghĩa Hiến pháp và lý thuyết về nhà nước pháp quyền có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Hầu hết những đòi hỏi của nhà nước pháp quyền đều là những đòi hỏi của chủ nghĩa Hiến pháp. Đó là những đặc điểm mọi chủ thể mang quyền lực nhà nước đều phải đứng dưới hiến pháp là pháp luật, tổ chức quyền lực nhà nướcphải tuân theo nguyên tắc phân quyền.Sự giới hạn vàkiểm soát quyền lực nhà nước đặt nhà nước dưới sự điều chỉnh của pháp luật. Mọi hoạt động của nhà nước phải dựa trên pháp luật, không được tùy tiện…Chính vì lẽ đó không ít tác giả cho rằng chủ nghĩa Hiến pháp là một phần cơ bản của nhà nước pháp quyền, trong khi đó cũng không ít tác giả lại cho rằng chủ nghĩa Hiến pháp là tương đương với nhà nước pháp quyền.[7]
Nhưng giữa chúng vẫn có sự khác nhau, tạo nên sự khác nhau của hai học thuyết/ hai luận thuyết chính trị. Nếu như ở chủ nghĩa Hiến pháp nguồn gốc quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân, thì ở nhà nước pháp quyền thì lại không là nhất thiết.Tư tưởng, lý thuyết về quan hệ giữa quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhà nước là do nhân dân trao cho, có giới hạn và phải chịu sự kiểm soát. Đó là những nội dung cốt yếu của chủ nghĩaHiến pháp. Trong khi đó nhà nước pháp quyền lại gắn chặt chẽ với một xã hội dân sự
Việt Nam có 4 bản Hiến pháp,nội dung của các bản Hiến pháp này về cơ bản không khác gì với phương Tây.Nhưng đi vào cụ thể có những điểm khác.Cái khác căn bản ở đây là chúng ta có Hiến pháp nhưng chưa có tinh thần của chủ nghĩa Hiến pháp.Sự xuất hiện của Hiến pháp thành văn, cũng những tư tưởng về Hiến pháp ít nhiều đã khẳng định tính giới hạn quyền lực nhà nước đã xuất hiện. Nói một cách chuẩn xác là chúng tavẫn ít có chủ nghĩa Hiến pháp.Điều khẳng định trên có thể chứng minh một cách dễ dàng qua nội dung các quy định Hiến pháp, cũng thông qua thực tế thực thi các quy định của Hiến pháp. Một khi những tiêu chí đòi hỏi của chính bản Hiến pháp chưa thể hiện được những yêu cầu của Hiến pháp trong Chủ nghĩa Hiến pháp thì lẽ đương nhiên rất khó cho việc thực hiện chủ nghĩaHiến pháp.
Nhưng năm gần đây thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần, nhưng ngược lại thuật ngữ chủ nghĩa Hiến pháp chưa một lần nào được xuất hiện. Bên cạnh đó chủ thể vi phạm Hiến pháp cũng chưa được xác định một cách rõ ràng ngay cả trong nhận thức của xã hội lẫn thực tiễn thực thi. Khẩu hiểu: “Toàn Đảng, toàn dân nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật” có thể chứng minh được nhận định này. Hiến pháp được làm ra không phải cho người dân phải có trách nhiệm thực hiện, mà trách nhiệm thực thi Hiến pháp thuộc về các cơ quan nhà nước. Càng có nhiều thẩm quyền bao nhiêu, thì càng phải có trách nhiệm phải thi hành Hiến pháp bấy nhiêu.
Những năm gần đây thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần, nhưng ngược lại thuật ngữ “chủ nghĩa Hiến pháp” chưa một lần nào được xuất hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó chủ thể vi phạm Hiến pháp cũng chưa được xác định một cách rõ ràng ngay cả trong nhận thức của xã hội lẫn thực tiễn thực thi. Khẩu hiểu:”Toàn Đảng, toàn dân nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”có thể chứng minh được nhận định này. Hiến pháp được làm ra không phải cho người dân phải có trách nhiệm thực hiện. Trách nhiệm thực thi Hiến pháp thuộc về các cơ quan nhà nước. Càng cao bao nhiêu càng có nhiều thẩm quyềnbao nhiểu, thì càng phải chính sách trsch nhiệm thi hành Hiến pháp bấy nhiêu. Nhưng rất tiếc rằng, theo tinh thần các quy định của Hiến pháp, mọi người dân, mọi chủ thể trong xã hội đều có trách nhiệm thi hành Hiến pháp. Theo quy tắc của nguyên tắc tập trung, sức nặng của việc tuân thủ các quy định của Hiến pháp được dồn xuống dưới. Theo chiều ngược lại chức năng giám sát việc tuân thủ Hiến pháp được Hiến pháp giao cho tất cả các cơ quan nhà nước, từ Ủy ban nhân dân cấp xã cho đến Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam. Càng cao bao nhiêu càng có trách nhiệm giám sát việc thi hành Hiến pháp bấy nhiêu. Thật là khó khăn thay, khi chủ thể có khả năng vi phạm Hiến pháp nhất lại được Hiến pháp giao cho việc giám sát vi thi hành Hiến pháp.
[1]Holmes, tuyển tập 1995, 270-271
[2]Xem Từ điển Bách khoa thư Việt Nam
[3]Từ điển Chính trị và chính quyền Hoa kỳ củaJay M. Shafritz
[4]Henkin (2000) Elements of Consittutionalism Unpublished Manuscript, p 203
[5]Thẩm phán Robert H. Jacksson, vụ West Virginia kiện Barnette (1943)
[6]Xem, Chính trị thế giới, Nxb. Văn hóa thông tin , 2009tr. 450
[7]Xem “Chủ nghĩa hợp hiến và các nền dân chủ đang nổi lên” (nguyên tác: “Constitutionalism and Emerging Democracies”), Tư liệu dịch của Phòng Thông tin – văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Bạn đang đọc nội dung bài viết Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!