Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Bền Vững Là Gì? Tiêu Chí Của Phát Triển Bền Vững mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong,… nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”
Phát triển bền vững là gì? Tiêu chí của phát triển bền vững
1. Khái niệm phát triển
Trước hết cần làm rõ khái niệm “phát triển”, “phát triển” tuy ban đầu được các nhà kinh tế học định nghĩa là “tăng trưởng kinh tế”, nhưng nội hàm của nó từ lâu đã vượt khỏi phạm vi này, được nâng cấp sâu sắc hơn và chính xác hơn. Theo Từ điển Tiếng Việt “phát triển” được hiểu là quá trình vận động, tiến triển theo hướng tăng lên, ví dụ phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, phát triển xã hội. Phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế xã hội rộng lớn, trong khuôn khổ một định nghĩa hay một khái niệm ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội dung rộng lớn của nó. Song nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh được các nội dung cơ bản sau: – Sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm giá trị sản lượng của vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và ngoài nước. – Sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải thiện đời sống dân cư. – Sự phát triển là quy luật tiến hoá, song nó chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng.
2. Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (do Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (International Union for Conservation of Nature – IUCN công bố) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” Tuy nhiên, khái niệm phát triển bền vững đã được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 bởi Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED – World Commission on Environment and Development) còn được biết đến là Ủy ban Brundtland. Ủy ban Brundland đã có những đóng góp đáng ghi nhận vào quá trình phát triển bền vững: Thứ nhất, WCED đề ra trách nhiệm của thế hệ hiện tại phải đảm bảo những cơ hội và lựa chọn phát triển của các thế hệ tương lai thông qua việc bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thứ hai, WCED đặt ra mục tiêu giảm nghèo ở các nước đang phát triển như là một trục chính mà các nước cần phải vượt qua. Thứ ba, WCED đúc kết lại việc theo đuổi phát triển bền vững trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế bằng cách nhận ra rằng cần phải sắp xếp lại mô hình thương mại quốc tế và dòng vốn cũng như phải đảm bảo được các nước đang phát triển sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trong các quan hệ kinh tế đó. Năm 1992, Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển được tổ chức ở Rio de Janerio (Braxin) hay còn được gọi là Hội nghị thượng đỉnh trái đất. Tại Hội nghị, các công ước toàn cầu về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học đã được ký kết; “Hiến chương về trái đất” – một bộ các nguyên tắc được kỳ vọng bởi các chính phủ và người dân cũng đã nhận được sự đồng thuận của 178 chính phủ; một chương trình hành động để thúc đẩy phát triển bền vững còn được gọi là Diễn đàn 21 cũng đã được thông qua; và một cơ chế thể chế trong hệ thống Liên hợp quốc, cụ thể là Ủy ban về phát triển bền vững cũng được thành lập. Tuy nhiên, cho đến nay, thuật ngữ về phát triển bền vững được nói đến nhiều nhất vẫn là thuật ngữ do Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) đưa ra vào năm 1987, khi cho rằng “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Theo đó phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài hòa giữa ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường với nội dung cụ thể như sau: Phát triển bền vững về kinh tế là quá trình đạt được tăng trưởng kinh tế ổn định và đều đặn, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, nợ chính phủ, đảm bảo cân đối cán cân thương mại, đầu tư có chất lượng, có năng suất cao thông qua việc nâng cao hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản xuất, không làm phương hại đến xã hội và môi trường. Phát triển bền vững về xã hội là phát triển nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo người dân có cơ hội được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục nhưng không làm phương hại đến kinh tế và môi trường. Phát triển bền vững về môi trường là việc sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh. Phát triển bền vững về môi trường cần duy trì sự đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác, cần hạn chế vấn đề nhiễm môi trường bao gồm cả ô nhiễm đô thị và khu công nghiệp, cần phải quản lý và xử lý tốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, có khả năng ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai. Ngoài ra, phát triển bền vững về môi trường cần phải hướng được các doanh nghiệp từng bước thay đổi mô hình sản xuất, hướng doanh nghiệp đến các công nghệ sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường hơn. Phát triển bền vững về môi trường phải đảm bảo không làm phương hại đến kinh tế và xã hội. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của chúng tôi bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , dịch vụ chạy spss , viết luận văn bằng tiếng anh , giá thuê viết tiểu luận
3. Tiêu chí của phát triển bền vững
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người. Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Một là, giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng). Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế. Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững. Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá. Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn. Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh. Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định. Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,… đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất. Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là, phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính; Năm là, bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm…
Khái Niệm Phát Triển Và Phát Triển Bền Vững
Cụm từ phát triển bền vững nói chung hay phát triển nói riêng được định nghĩa một cách khái quát trong Từ điển Oxford là: “Sự gia tăng dần của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn” Trong từ điển Bách khoa của Việt Nam, phát triển được quan niệm là:
“Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới” Chủ thể con người và mọi vật đều thay đổi theo thời gian, những sự phát triển được bao hàm ở cả hai khía cạnh: hướng đi lên – tiến bộ và phát triển thoái bộ – thoái hóa.
Phát triển (khoa học phát triển) mới ra đời những năm 1940-1950, đặc biệt phát triển mạnh vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Trong tiến trình đó, phát triển học có những thay đổi nhất định về nội hàm.
Giai đoạn đầu, nội dung chủ yếu của phát triển được đề cập trong kinh tế gọi là Kinh tế học phát triển, sau đó càng ngày càng phát triển theo hướng liên ngành. Tiếp sau đó, ở mức độ cao hơn, môn Xã hội học phát triển và Quản trị học phát triển ra đời, nhấn mạnh sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội có phần can thiệp của thể chế chính trị.
Ở giai đoạn cao như hiện nay, sự bùng nổ dân số, mức độ phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế, sự thiếu hụt tài nguyên do con người khai thác một cách vô ý thức, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống, mức độ biến đổi khí hậu một cách khó lường… thuật ngữ phát triển bền vững ra đời.
PTBV ra đời năm 1992 và đã trở thành chiến lược phát triển của toàn cầu trong thế kỷ XXI.
Phát triển bền vững
Có khá nhiều quan điểm khác nhau về phát triển bền vững nói chung. Sự khác nhau xuất phát từ quan điểm, định hướng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu. Khi nghiên cứu ở phạm vi hẹp như các tổ chức cụ thể, quan điểm được nhìn nhận một cách rộng rãi nhất của Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (1987) cho rằng: ” Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng yêu cầu hiện tại mà không làm tổn hại tới khả năng thỏa mãn nhu cầu đó của các thế hệ tương lai “, [51]. Quan điểm này cho thấy: thực chất của vấn đề PTBV là sự gia tăng số lượng, chất lượng của một tổ chức với mục đích là tối đa hóa lợi ích ở hiện tại nhưng phải đảm bảo cho những lợi ích đó được duy trì trong tương lai.
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Rio – 92 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg – 2002: ” Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường “. Ngoài ba mặt chủ yếu này, có nhiều nghiên cứu còn đề cập tới những khía cạnh khác của PTBV như: chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc… và đòi hỏi phải tính toán và cân đối chúng trong hoạch định các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế – xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể.
PTBV là một nhu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và các cam kết quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững “. Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phư ng, các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động. Mục tiêu bảo đảm PTBV đất nước trong thế kỷ XXI chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện chiến lược PTBV trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, trong đó có PTBV các KCN.
Khái niệm phát triển và phát triển bền vững
Phát Triển Đô Thị Bền Vững
Phóng to
Mới và cũ đan xen là hình ảnh dễ nhận thấy của phát triển đô thị tại TP.HCM
TTCT – Rất khó để đưa ra được một định nghĩa hay hệ khái niệm được coi là thống nhất về phát triển đô thị bền vững vì bản chất đa dạng và đa chiều của đối tượng nghiên cứu. Bài này chỉ có ý định đưa ra các nguyên tắc chung và mục đích cần hướng tới của phát triển đô thị bền vững mà thôi.
Trên thực tế, khái niệm “phát triển đô thị bền vững” rất đa dạng. Về quản lý hành chính đô thị, người ta nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa cơ quan công quyền và người dân, về môi trường thì nhấn mạnh đến thái độ ứng xử của thế hệ hiện tại trong việc khai thác tài nguyên để dành lại cho các thế hệ mai sau. Chưa kể mỗi quốc gia tùy theo từng đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội ở mỗi giai đoạn lại đưa ra những định nghĩa cũng như các tiêu chí riêng của mình.
Lấy con người làm trung tâm của sự phát triển
Phát triển nào mà không phải vì con người, huống hồ là phát triển đô thị. Nhưng trong thời phong kiến người ta xây cả một thành phố, một cung điện vì một ông vua, một mỹ nữ, và ngày nay điều đó không phải là đã hết. Việc phát triển hẳn cả một thành phố, một khu công nghiệp đôi khi chỉ vì một ý đồ chính trị của một nhóm người cần chứng minh một điều gì đó. Việc mở một con đường hay nắn lại cả một khu phố vì nơi đó có nhà mình, anh em bà con là chuyẹn không lạ.
Ở đất nước chúng ta, có nhiều vị lãnh đạo muốn để lại dấu ấn lịch sử đã ra những quyết định phát triển hết sức lạ lùng và có phần bất thường. Thêm vào đó nữa là những ápphe, những khoản tiền ma quỉ có thể làm xuất hiện những công trình tai hại cho người dân mà hậu quả và tai tiếng xấu của nó còn hành hạ các thế hệ mai sau. Những hiện tượng tham nhũng trong các dự án phát triển, các công trình xây dựng nhà ở, các công trình kỹ thuật ở chúng tôi rõ ràng cho thấy nhiều quan chức quan tâm đến phát triển cho chính họ hơn là cho cộng đồng.
Cân bằng giữa mục tiêu phát triển kinh tế và môi trường tự nhiên
Mỗi thành phố hiện đại và hoành tráng ở nơi này chính là kết quả của sự tước đoạt tài nguyên ở nơi khác mang đến, có khi là ở các quốc gia khác. Sau khi sử dụng hết công năng và lấy đi hết giá trị sử dụng cần thiết từ gỗ, dầu mỏ, than đá…, người ta thải ra khói bụi, rác thải công nghiệp, nước bẩn mà người được thừa hưởng chủ yếu là những người dân sống ở ngoại thành của một thành phố.
Đổi lại sự hoành tráng của đô thị là sự tàn tạ và héo mòn của bà mẹ thiên nhiên vĩ đại. Chính vì thế mà một trong số các nguyên tắc quan trọng nhất được nêu ra cho phát triển bền vững là: “Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai”.
Cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và xã hội
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ ngày 1-7-1997 làm cho một loạt các nước châu Á bị thụt lùi khoảng 5-7 năm. Khởi đầu từ Thái Lan, phản ứng dây chuyền dẫn tới các nước Indonesia, Singapore, Hàn Quốc… Thái Lan đã vay tiền của IMF, của Mỹ nhằm tập trung phát triển các dự án hạ tầng kỹ thuật khổng lồ, hàng trăm tòa cao ốc mọc lên ở trung tâm thành phố với kỳ vọng sẽ kiếm lời từ việc cho thuê văn phòng, nhà ở, nhưng điều mong ước này không trở thành hiện thực mà đưa đến thảm họa do đến kỳ trả nợ mà các công trình chưa đưa vào khai thác hoặc khai thác không hiệu quả. Đây là một ví dụ cho việc mất cân đối giữa phát triển kinh tế và xã hội.
VN là một quốc gia nghèo nhưng tiền vay nợ cũng đến gần 30 tỉ USD, tính ra mỗi đầu người dân từ già đến trẻ phải nợ nước ngoài khoảng 300 USD. Một ví dụ rất điển hình là chúng ta đang sử dụng vốn ODA không hiệu quả, rất nhiều dự án lớn vay tiền của WB nhưng hiệu quả kém mà không biết đến bao giờ mới trả nợ được. Người ta còn đưa rất nhiều ví dụ khác như duy kinh tế coi nhẹ văn hóa và xã hội, đưa đến khoảng cách giàu nghèo, xung đột xã hội, mâu thuẫn tôn giáo ngày một gia tăng do chỉ tập trung sự quan tâm vào “tăng trưởng, tăng trưởng và tăng trưởng”.
Phát triển hài hòa giữa con người với công nghệ – kỹ thuật
Công nghệ – kỹ thuật mang lại cho cuộc sống chúng ta nhiều điều tốt đẹp, nhưng cũng mang lại thật nhiều phiền toái. Đường cao tốc là thủ phạm của việc chia rẽ và cách ly các cộng đồng dân cư cho dù họ không sống ở các hòn đảo giữa biển khơi. Điện thoại làm cho thông tin nhanh hơn nhưng quan hệ của con người lại lỏng lẻo hơn.
Công nghệ thực phẩm tạo ra các loại thức ăn nhanh giúp chúng ta tiết kiệm thời gian nhưng bữa cơm gia đình dường như biến mất. Computer làm cho thế giới nhỏ lại nhưng cũng chính nó khiến cuộc sống tẻ nhạt hơn. Mặt trái của công nghệ – kỹ thuật hiện đại ngày càng bộc lộ làm cho chúng ta phải suy nghĩ và thận trọng hơn trong việc sáng tạo và sử dụng nó trong cuộc sống.
Đảm bảo phát triển đa văn hóa và đời sống đạo đức, tinh thần của các nhóm người khác biệt nhau
Hầu như tất cả các thành phố lớn đều mang màu sắc của đa văn hóa. Đây là điểm được coi là quan trọng nhất và cũng là đặc điểm lớn nhất của đô thị hiện đại, đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại toàn cầu hóa. Bất cứ một thành phố nào cũng có sự đa dạng và khác biệt về tôn giáo, dân tộc, quan điểm chính trị, phong tục tập quán, thói quen văn hóa. Nếu người cầm quyền không đảm bảo được quyền phát triển đa văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra xung đột. Cuộc nổi dậy của người nhập cư ở Pháp kéo dài ba tuần tháng 1-2005 với 9.000 xe hơi bị đốt là một ví dụ điển hình cho trường hợp này.
Đảm bảo an ninh, hòa bình, trật tự và ổn định xã hội
Một thành phố giàu có, đầy ắp hàng hóa, đầy đủ tiện nghi nhưng con người sống trong nó luôn cảm thấy bất an, tính mạng bị đe dọa, rủi ro cao, cuộc sống bấp bênh thì đó không thể gọi là thành phố phát triển bền vững dưới bất kỳ khía cạnh nào. Thành phố bền vững phải có trật tự kỷ cương xã hội, tinh thần thượng tôn pháp luật được đề cao.
Đảm bảo sự tham gia dân chủ của người dân trong tiến trình phát triển đô thị
Công bằng xã hội trong đời sống kinh tế
Công bằng là một mục tiêu và tiêu chí quan trọng về khía cạnh xã hội của phát triển đô thị bền vững. Chắc chắn là có mức thu nhập khác nhau, hình thành nên các nhóm người giàu nghèo khác nhau trong một thành phố bất kỳ nào đó.
Nhưng trong một đô thị được coi là phát triển bền vững thì mọi người phải được bình đẳng trong khi tiếp cận các cơ hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tìm kiếm việc làm, cải thiện đời sống, cư trú. Những người thuộc nhóm yếu thế hay “dễ tổn thương” như người già cô đơn, trẻ em mồ côi, phụ nữ đơn thân, đông con, người tật nguyền phải được quan tâm đúng mức. Mọi người trong xã hội phải được bảo đảm bằng các loại quĩ phúc lợi xã hội để không bao giờ bị rơi xuống đáy xã hội trở thành tội phạm hay tự tử.
Đảm bảo hài hòa giữa các thế hệ
Trong một thành phố, nhất là những thành phố có nhiều tuổi, sẽ có rất nhiều thế hệ chung sống với nhau. Không phải bao giờ và lúc nào mối quan hệ giữa các thế hệ cũng tốt đẹp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các thành phố chuyển đổi từ một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội hiện đại.
Các giá trị xã hội truyền thống và cổ truyền của thế hệ lớn tuổi rất dễ bị tổn thương với những giá trị xã hội hiện đại mà thế hệ trẻ tiếp thu được từ bên ngoài. Một ví dụ điển hình và dễ thấy nhất là sự đổ vỡ khi chuyển từ gia đình kép (nhiều thế hệ, đông con) sang kiểu gia đình hạt nhân ở VN trong những năm qua.
Phát triển không gian hợp lý
Qui hoạch đô thị thực chất là việc bố trí và phân bổ con người cùng với khối lượng vật chất đồ sộ trên một bề mặt không gian ba chiều. Việc phân bổ này có thể làm cho thành phố phát triển bình thường hay bất bình thường, làm cho hoạt động sản xuất, sinh hoạt trở nên thăng bằng hay mất ổn định.
Việc qui hoạch và thiết kế đô thị sai lầm đã làm cho chúng tôi ngập nước không chỉ vào mùa mưa mà cả vào mùa khô. Việc không tập trung phát triển giao thông cách đây hơn 15 năm đã để lại hậu quả nghiêm trọng là các công sở, trường học không muốn ra bên ngoài khiến cho mật độ trong khu vực trung tâm thành phố ngày càng cao, phát triển kiểu nhà ống dọc theo trục đường khiến tai nạn giao thông ngày càng trở nên khủng khiếp.
Phát triển cân đối đô thị – nông thôn
Năm 2006 ở Trung Quốc được gọi là năm “phát triển nông thôn”, suy cho cùng bài toán phát triển bền vững ở đô thị lại có nguồn gốc từ nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ ở nông thôn không chỉ hỗ trợ cho đô thị phát triển như cung cấp lương thực thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm công nghiệp do đô thị tạo ra, mà còn làm giảm áp lực lên đô thị.
Một khi nông thôn phát triển mạnh thì người nhập cư về thành phố giảm, lực lượng lao động thanh niên sẽ ở lại nông thôn, sự cân bằng trong phát triển giữa hai khu vực là bài toán rất quan trọng cho sự phát triển bền vững. Chính phủ VN đang cố gắng phát triển “điện, đường, trường, trạm, chợ” ở các vùng sâu, vùng xa nhưng hiệu quả còn hạn chế do nhiều lý do khác nhau.
Phát Triển Kinh Tế Biển Bền Vững
(TN&MT) – Biển đảo không chỉ là bộ phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc mà còn là không gian sinh tồn và phát triển của các thế hệ người Việt Nam; các vùng biển nước ta có vị trí địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế quan trọng trong khu vực và trên thế giới; thế kỷ XXI được coi là kỷ nguyên của đại dương, việc “vươn ra biển” đã trở thành xu thế lớn, định hướng quan trọng của các quốc gia có biển và cả quốc gia không có biển.
Tuy vậy, để chuyển từ tiềm năng thành hiện thực, phát triển kinh tế biển bền vững, cân bằng sinh thái, giữ biển trong lành và an toàn cho nhiều thế hệ mai sau là bài toán lớn cần có lời giải đồng hành với việc tổ chức thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.
Hiện tại, ngay trong cách tiếp cận phát triển kinh tế biển của chúng ta vẫn cần phải bổ sung và và hoàn chỉnh một số nội dung. Thứ nhất, là cách thức khai thác biển vẫn mới chỉ ở “đánh bắt ven bờ”. Thứ hai, thiếu tư duy toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chưa rõ tầm nhìn toàn cầu và thời đại trong công cuộc phát triển kinh tế biển trong bối cảnh hiện đại.
Trên thực tế, các khu kinh tế biển của Việt Nam cho đến nay là sự lập lại mô hình khu công nghiệp ở đất liền đem ra biển khi gắn thêm vào đó cảng biển. Cảng biển trở thành hạt nhân trong định hình các khu kinh tế biển, kéo theo đó là sự đầu tư rất lớn cho khu cảng. Cái cần thiết, đáng ra là định hình khu kinh tế, xây dựng đô thị để thu hút nguồn lực, con người, cơ chế thật tốt để khuyến khích đầu tư, khởi nghiệp, nguồn lực bị phân tán vào công trình cảng, mà cả khi xây xong cũng không biết hàng hóa lấy ở đâu, chuyên chở đi đâu.
Sự dàn trải vốn đầu tư của Nhà nước và phân tán các nhà đầu tư, khiến cho, phát triển kinh tế biển của Việt Nam mới chỉ nằm ở dạng tiềm năng là chính.
Vì vậy, chúng ta cần tái cấu trúc mô hình tăng trưởng kinh tế biển, trong đó, kinh tế biển cần phải đặt ở một tầm nhìn mới vào mô hình tăng trưởng mới theo phương thức kết hợp: khai thác mặt tiền và tự do hóa thương mại.
Để phát triển kinh tế biển bền vững, trước hết, các hoạt động cần bảo đảm đạt được các chỉ tiêu tổng hợp, các mục tiêu về kinh tế biển, xã hội, khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển đã được đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, tập trung 5 lĩnh vực quan trọng cần đổi mới và đột phá. Đó là: Tập trung rà soát, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về tài nguyên, môi trường biển, hải đảo; coi khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao là phương tiện thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, trí tuệ nhân tạo vào công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; cùng với đó là đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong công tác quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ đảm bảo hiện đại, đồng bộ, nâng cao hiệu quả phối hợp và xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn cao; đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, thực hiện tốt Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030…
Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp đưa ra phải hướng đến sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đồng hành với quá trình đẩy nhanh các hoạt động kinh tế biển, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền và quyền chủ quyền biển, đảo của nước ta. Đẩy mạnh điều tra, khảo sát, nghiên cứu để hiểu hơn về biển, cũng cố thông tin về tài nguyên và môi trường biển, tiến tới hiểu rõ về tài nguyên dưới đáy biển, tiềm năng băng cháy, khả năng ứng dụng năng lượng thủy triều, sóng biển…; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển; bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng; phát triển các ngành kinh tế biển bền vững; kiểm soát các nguồn ô nhiễm từ đất liền; phòng ngừa ô nhiễm từ các hoạt động trên biển và ô nhiễm xuyên biên giới; phòng chống thiên tai, ứng phó với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng…
Tất cả với mục tiêu phát triển biển bền vững, giữ biển trong lành cho nhiều thế hệ mai sau.
Thời sự – Trần Tuấn – Xuân Vũ – 18:15 07/01/2020
(TN&MT) – Xác định báo chí là lực lượng quan trọng trên mặt trận tư tưởng văn hóa, trong công tác tuyên truyền, đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo, bảo đảm an ninh trật tự trên biển, ngày 7-1, Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển tổ chức gặp mặt báo chí đầu năm 2020. Tới dự và chủ trì cuộc gặp mặt có Trung tướng Hoàng Văn Đồng, Chính ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Bền Vững Là Gì? Tiêu Chí Của Phát Triển Bền Vững trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!