Cập nhật nội dung chi tiết về Quy Định Của Pháp Luật Về Mang Thai Hộ Vì Mục Đích Nhân Đạo mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sau đây, FBLAW sẽ cùng quý khách hàng quan tâm đi tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
1. Khái niệm Khoản 22, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Khoản 22, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
2. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:
1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. 2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; b) Vợ chồng đang không có con chung; c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. 3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. 4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Điều này đã được quy định chi tiết tại Nghị định số 10/2015/NĐ- CP ngày 28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Nghị định số 10). Khi cặp vợ chồng sau một năm chung sống, có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai thì có thể được coi là vô sinh (Khoản 2, Điều 2, Nghị định 10). Cặp vợ chồng vô sinh muốn được nhờ mang thai hộ phải gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này.
3.Hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Hồ sơ gồm các giấy tờ sau:
– Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định này; – Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị định này; – Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào; Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; – Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; – Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này và đã từng sinh con; – Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; – Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa; – Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; – Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; – Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định tại Mẫu số 06 ban hành kèm theo Nghị định 10.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại Khoản 1 Điều này, cơ sở được cho phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do.
4. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Điều 96 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:
1. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ (sau đây gọi là bên nhờ mang thai hộ) và vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi là bên mang thai hộ) phải có các nội dung cơ bản sau đây: b) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này; c) Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các d) Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận. 2. Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này.
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:
1. Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. 2. Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế. 3. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. 4. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. 5. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
Điều 98 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:
1. Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế. 2. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ. 5. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.
Điều Kiện Mang Thai Hộ Vì Mục Đích Nhân Đạo
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai, sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
2. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
2.1. Điều kiện về người nhờ mang thai hộ:
Khoản 1,2 điều 95 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau về điều kiện người nhờ mang thai hộ:
” 1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”.
Vợ chồng trong trường hợp này được hiểu là những người có hôn nhân hợp pháp, nghĩa là có đăng kí kết hôn hoặc quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987. Đã có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi trước đó đã áp dụng các biện pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản rồi.
Chỉ cho phép áp dụng mang thai hộ trong trường hợp vợ chồng không có con chung, bởi lẽ mang thai hộ là nhằm mục đích nhân đạo, là một nghĩa cử cao đẹp giữa những người phụ nữ với nhau, giống một sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để những người kém may mắn có cơ hội được hưởng niềm vui được làm cha mẹ.
Quy định trên cũng góp phần hạn chế việc nhờ mang thai hộ tràn lan, dù biết rằng mang thai hộ là giải pháp tối ưu cho người phụ nữ không thể mang thai và sinh con nhưng không thể vì thế mà xem thường những ảnh hưởng của việc mang thai đối với sức khỏe của người phụ nữ mang thai hộ. Người mang thai hộ phải được tư vấn y tế, tâm lí, pháp lí trước khi mang thai hộ nhằm giúp cho họ nắm được những thông tin cần thiết để họ hiểu được quy trình của một ca mang thai hộ dưới góc độ y tế hay những hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó sẽ có những ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật, giúp hạn chế những tranh chấp xảy ra giữa các bên trong quan hệ mang thai hộ.
2.2. Điều kiện của người mang thai hộ:
Tại khoản 3 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau về điều kiện người mang thai hộ:
“3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý “.
Pháp luật quy định người được nhờ mang thai hộ là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng để đảm bảo không trái với thuần phong mỹ tục của người Việt (mẹ đẻ mang thai hộ con ruột, mẹ chồng mang thai hộ con dâu,…). Pháp luật quy định chặt chẽ như vậy là đúng đắn, phù hợp đồng thời loại bỏ được tính vụ lợi trong quá trình thực hiện việc mang thai hộ. Việc đặt ra điều kiện người mang thai hộ đã từng có thai và sinh con để đảm bảo rằng họ có kinh nghiệm trong việc mang thai. Đồng thời, quy định này cũng nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và con. Việc yêu cầu người phụ nữ đã từng sinh đẻ là điều cần thiết bởi nếu chưa từng mang thai, sinh con, người phụ nữ sẽ gặp khó khăn trong khi mang thai, thiếu kĩ năng, kinh nghiệm khiến người phụ nữ không biết cách phòng ngừa những biến chứng tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi, từ đó ảnh hưởng tới sự thành công của mang thai hộ.
Độ tuổi và sức khỏe của người mang thai hộ đóng vai trò quan trọng vào sự thành công của một ca mang thai hộ. Mang thai hộ không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe của chính người mang thai hộ mà còn ảnh hưởng tới phôi được cấy vào tử cung của người phụ nữ đó. Vì vậy người phụ nữ phải có đủ sức khỏe để thụ thai, mang thai. Mà đạt được những điều này thì ngoài những quy định khắt khe về y học thì việc yêu cầu khung độ tuổi được phép mang thai hộ là rất cần thiết.
Mang thai hộ là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp nên việc quy định phải được sự đồng ý bằng văn bản của người chồng của người mang thai hộ là quy định bắt buộc. Nếu không được sự đồng ý của người chồng hoặc sự đồng ý không được thưc hiện dưới hình thức văn bản sẽ gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp đồng thời dẫn đến mâu thuẫn làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình của người được nhờ mang thai hộ.
Việc được tư vấn về y tế, pháp lí, tâm lí tương tự như người nhờ mang thai hộ, đó là điều hết sức cần thiết. Bởi quan hệ pháp luật mang thai hộ là quan hệ hai chiều mà quyền lợi của bên này là nghĩa vụ của bên kia. Trong đó các bên đều phải có những kiến thức chuẩn mực về quyền lợi và nghĩa vụ pháp lí của mình để hạn chế tôi đa sự tranh chấp có thể xảy ra sau này.
Để tránh tình trạng nhờ người khác mang thai hộ một cách bừa bãi, việc quy định chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới được phép mang thai hộ là rất cần thiết, giúp hạn chế việc lợi dụng mang thai hộ trong khi chính người phụ nữ vẫn có khả năng làm mẹ, đồng thời đó cũng là một cách để hạn chế việc thương mại hóa mang thai hộ. Điều đáng chú ý là người nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng mà người vợ trong cặp vợ chồng đó không thể tự mình mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản.Mang thai hộ là một thành tựu khoa học trong lĩnh vực y học đã và đang là mối quan tâm của nhiều người trong xã hội. Song để hiện tượng này phát triển đúng hướng, đúng ý nghĩa xã hội, thì pháp luật cần phải điều chỉnh quan hệ này một cách kịp thời, cụ thể, tránh hiện tượng lạm dụng đi ngược lại bản chất xã hội của mang thai hộ và quan trọng nhất là tránh những tranh chấp có thể phát sinh giữa các chủ thể của quan hệ này. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang lại một nghĩa nhân văn sâu sắc, đây là một việc làm tốt và có sự kiểm soát nhất định về mặt thực tiễn cũng như luật pháp, việc thực hiện công việc này bảo đảm sẽ có những lợi ích cũng như ý nghĩa nhất định đối với cuộc sống
Thỏa thuận mang thai hộ vì mục đich nhân đạo phải thỏa mãn các điều kiện ( Điều 96 luật hôn nhân và gia đình năm 2014):
Công ty Luật Ánh Sáng Việt là đơn vị cung cấp các dịch vụ tư vấn, tố tụng về lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ
Quy Định Của Pháp Luật Về Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật
Như vậy, khi đánh giá một văn bản có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không cũng như xem xét một văn bản có chứa ”quy phạm pháp luật” hay không cần đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu đặc trưng của quy phạm pháp luật, gồm: tính áp dụng chung (quy tắc ràng buộc chung và được tôn trọng chung), tính phi cá nhân (không nhằm vào một đối tượng, một con người nào cụ thể hay một nhóm đối tượng cụ thể), tính bắt buộc – tính cưỡng chế nhà nước (đối tượng bắt buộc phải thực hiện, không thể thoái thác) và phải được cơ quan có thẩm quyền ban hành (chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Pháp luật là biểu hiện hoạt động của các chính sách Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa và bảo đảm thực hiện các chính sách [1] . Pháp luật được ban hành có thể đưa ra các biện pháp gián tiếp, thông qua việc tạo ra hành lang pháp lý mà trong phạm vi đó, từng cá nhân đóng vai trò là động lực. Luật pháp có thể đem lại công bằng xã hội, giảm đói nghèo, tạo ra động lực cho xã hội phát triển.Tuy nhiên, cần lưu ý làphát triển thôi chưa đủ mà còn cần phải phát triển bền vững. Yêu cầu phát triển bền vững đặt ra cho các cơ quan ban hành văn bản của địa phương phải có các biện pháp quản lý bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là sẽ không chỉ khai thác cạn kiệt các nguồn lực mà không tính các hệ quả tiếp theo và môi trường sau này. Phát triển bền vững đòi hỏi khi đưa ra các biện pháp quản lý, nhà quản lý phải tính đến việc bảo vệ môi trường. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, địa phương đưa ra các biện pháp để quản lý tốt các trường học, bệnh viện, xây dựng và quản lý tốt hệ thống nước sạch, đường giao thông… Bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chính quyền địa phương đưa ra các biện pháp thu hút đầu tư, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp, các cơ chế thực thi hiệu quả.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật có thể tạo ra/phân bổ/phát huy các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế Pháp luật có thể tạo điều kiện để tăng việc làm và tăng thu nhập.Pháp luật tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tiếp cận với các công nghệ thông tin và thị trường, với các kỹ năng về tín dụng và quản lý, qua đó giúp họ tăng năng suất lao động và tăng thu nhập. Trong trường hợp pháp luật thiếu hiệu quả dẫn đến việc đất nước hay từng vùng địa phương nghèo đói và kém phát triển, người ta gọi đó là “thể chế có vấn đề” . Đặc điểm ở các vùng nông thôn là người dân có mức vốn thấp, hoạt động dựa vào các công nghệ có chi phí thấp và có sẵn ở địa phương (sản xuất có thể gọi là manh mún, tiểu thủ công, phần nhiều là lao động tay chân), sử dụng các công cụ làm bằng tay nhiều hơn là sử dụng máy móc hay thiết bị hiện đại (do thiếu vốn hoặc điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế); hơn nữa, nông thôn còn có nhiều người thất nghiệp. Các nhà soạn thảo cần phải chú ý đưa ra các biện pháp pháp lý để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, thị trường lao động… đồng thời phát huy được các nguồn lực.
Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật góp phần làm ổn định trật tự xã hội, tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển Cần phân biệt quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Trong khi các quy phạm mang tính xã hội, dù được xã hội thừa nhận, nhưng vẫn không được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thì trái lại, quy phạm pháp luật luôn luôn được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
. Nếu như những người đại diện cho dân chúng không bảo đảm cho những người mà họ đại diện có cuộc sống ấm no, an bình nghĩa là họ thực hiện trách nhiệm chưa đầy đủ. Để tránh việc văn bản pháp luật trao cho các cán bộ thực thi pháp luật quyền tự định đoạt quá lớn, bên cạnh các cơ quan dân cử, vẫn cần phải có sự tham gia trực tiếp của người dân vào quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước. Để tránh sự lộng quyền của cán bộ thực thi pháp luật, chỉ có sự quy định chặt chẽ của văn bản pháp luật mới bảo đảm trách nhiệm của những cơ quan thực thi pháp luật, cán bộ thực thi pháp luật, từ đó bảo đảm lợi ích của người dân. Thứ năm, văn bản quy phạm pháp luật làm thay đổi các hành vi xử sự không mong muốn và thiết lập các hành vi xử sự phù hợp Muốn tạo điều kiện cho phát triển, chúng ta cần phải sử dụng pháp luật để làm thay đổi hành vi xử sự của phần lớn nhân dân, đặc biệt là của các cán bộ nhà nước. Các cán bộ nhà nước là những người đầu tiên có trách nhiệm bảo đảm một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ và thay mặt cho những người mà họ đại diện, đó là nhân dân. Các cán bộ địa phương một mặt thực hiện các nhiệm vụ mà pháp luật quy định nhưng mặt khác, đây cũng là sự phó thác của nhân dân đối với đại diện trực tiếp (Hội đồng nhân dân) hay gián tiếp (Uỷ ban nhân dân) của mình trong bộ máy chính quyền ”Thiếu sự quản lý bằng pháp luật, cơ chế trách nhiệm, tính minh bạch và sự tham gia của người dân, các quyết định sẽ trở nên tùy tiện, cán bộ chính quyền sẽ sử dụng quyền lực nhà nước không phải vì lợi ích của đa số nhân dân mà là cho riêng họ” .
– . Văn bản hành chính thông thường có các hình thức cũng như nội dung phong phú, đa dạng, có thể liệt kê một số loại chủ yếu như: Văn bản hành chính thông thường là những văn bản mang tính thông tin điều hành nhằm triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hoặc dùng để giải quyết các tác nghiệp cụ thể, phản ánh tình hình, giao dịch, trao đổi, ghi chép công việc… của các cơ quan hành chính nhà nước công văn hành chính (là công cụ giao dịch chính thức giữa các cơ quan: mời họp, đề xuất hoặc trả lời các yêu cầu, câu hỏi, chất vấn, hoặc kiến nghị … hoặc dùng để đôn đốc, nhắc nhở cấp dưới triển khai thi hành công việc theo kế hoạch hay theo thẩm quyền pháp luật quy định…); thông cáo, thông báo, điện báo, biên bản, giấy đi đường, giấy giới thiệu...
Phần thứ ba
I. Các nguyên tắc bảo đảm khi xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
+ Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; những quan điểm,
Công khai, minh bạch trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng cần được các cơ quan soạn thảo, ban hành đặc biệt quan tâm trong quá trình soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Theo đó, Luật năm 2008 đặt ra yêu cầu t rong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết,cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.
+ Báo cáo thẩm định đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình; ý kiến của Chính phủ đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình; bản tổng hợp ý kiến góp ý về dự án, dự thảo;
2. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
2.1. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trường hợp đề nghị đưa ra khỏi Chương trình : Trong trường hợp không bảo đảm tiến độ và chất lượng soạn thảo hoặc không cần thiết phải ban hành văn bản vì lý do khách quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị xây dựng nghị quyết có thể đề nghị đưa ra khỏi chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân văn bản đã dự kiến. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có Tờ trình gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, đồng thời gửi Uỷ ban nhân dân, trong đó phải giải trình rõ lý do đề nghị đưa ra khỏi Chương trình.
Theo quy định tại Điều 27 của Luật năm 2004 thì dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được các ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng nhân dân. Do vậy, việc phân công cho từng ban của hội đồng nhân dân thẩm tra các dự thảo nghị quyết cụ thể đã được Thường trực Hội đồng nhân dân xác định rõ trong Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Điều 29 của Luật năm 2004 quy định trình tự Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết. Điều 16 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân còn quy định cụ thể thêm một bước nữa, theo đó,Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây:
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Văn phòng Hội đồng nhân dân gửi Văn phòng Uỷ ban nhân dân để đăng Công báo cấp tỉnh trong thời hạn chậm nhất là ba mươi ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Nghị quyết gửi đăng Công báo phải là bản chính.
– Xây dựng chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị: c ơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị đến Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo thứ tự ưu tiên ban hành văn bản, căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước, tính khả thi của văn bản và tính đồng bộ của hệthống pháp luật.
– Trường hợp đề nghị bổ sung chương trình do phát sinh nhu cầu ban hành văn bản, cơ quan đã đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân và các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân có thể đề nghị bổ sung vào chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
– Quy trình bổ sung chương trình: quy trình bổ sung chương trình được thực hiện tương tự như quy trình xây dựng chương trình.
– Thẩm quyền điều chỉnh chương trình: căn cứ vào đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị và yêu cầu quản lý của địa phương, Uỷ ban nhân dân quyết định điều chỉnh chương trình.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan trình dự thảo tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến của thành viên Uỷ ban nhân dân. Cơ quan trình dự thảo báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trước các thành viên Uỷ ban nhân dân.
Biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị. Uỷ ban nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ dự thảo. Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.
Nội dung của báo cáo thẩm tra phải nêu được ý kiến đánh giá của Ban về dự thảo nghị quyết, những vấn đề được Ban nhất trí, không nhất trí và còn có ý kiến khác nhau, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo cơ quan, tổ chức soạn thảo, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết trước khi trình Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực. Cần lưu ý là việc chỉnh lý chỉ về mặt câu chữ, kỹ thuật mà không làm thay đổi nội dungdự thảo đã được Hội đồng nhân dân thông qua.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan soạn thảo chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo văn bản trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (Chủ tịch thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành văn bản). Khi chỉnh lý, không được làm thay đổi nội dungdự thảo đã được thành viên Uỷ ban nhân dân thông qua.
Theo quy định của Luật tại Điều 45 thì “Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và chỉ đạo việc soạn thảo “.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý nhà nước của địa phương rất đa dạng, phong phú. Nhiều vấn đề đột xuất, khẩn cấp phát sinh trong quản lý đòi hỏi Uỷ ban nhân dân các cấp cần có những quyết sách kịp thời nhằm giải quyết các vấn đó. Khi đó, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề này là đòi hỏi tất yếu của hoạt động quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu cấp bách của việc giải quyết vấn đề đột xuất, khẩn cấp, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không thể tuân thủ một cách chặt chẽ thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp thông thường mà Luật năm 2004 quy định. Do đó, để bảo đảm sự linh hoạt, kịp thời trong quản lý nhà nước ở địa phương, Luật còn quy định việc ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp. Điều 47 Luật năm 2004 quy định:trong trường hợp phải giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã ban hành quyết định, chỉ thị không theo trình tự, thủ tục thông thường mà theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 48 Luật năm 2004 (trình tự, thủ tục rút gọn). Cần lưu ý rằng Luật chỉ quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành rút gọn đối với văn bản của Uỷ ban nhân dân mà không quy định đối với soạn thảo, ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân.
Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của v ăn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương
Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của v ăn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp
Nếu như các cơ quan nhà nước trung ương được thiết lập ở tầm quốc gia thì các cơ quan chính quyền địa phương lại được tổ chức ở các đơn vị hành chính – lãnh thổ. Thẩm quyền và phạm vi quản lý của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ giới hạn trong khuôn khổ một địa bàn lãnh thổ nhất định. Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan này với tính chất là sản phẩm của hoạt động quản lý có hiệu lực trong lãnh thổ địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan tương ứng. Tiêu chí để xác định hiệu lực về không gian của văn bản là phạm vi lãnh thổ mà Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân được giao quản lý. Do đó, “văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi địa phương” (khoản 2 Điều 79 của Luật năm 2004) thì “phạm vi địa phương” ở đây phải được hiểu là đơn vị hành chính lãnh thổ thuộc thẩm quyền quản lý của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản.
Một nguyên tắc cần lưu ý là việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật là điều kiện bắt buộc để văn bản phát sinh hiệu lực. Theo đó, Điều 78 của Luật năm 2008 quy định ” văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành”. Nguyên tắc này bắt buộc đối với ngay cả trường hợp văn bản quy phạm pháp luật phát sinh hiệu lực ngay từ ngày công bố hoặc ký ban hành được ban hành trong trường hợp khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
“1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau mười ngày và phải được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có hiệu lực sau bảy ngày và phải được niêm yết chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã có hiệu lực sau năm ngày và phải được niêm yết chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân quy định các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp quy định tại Điều 47 của Luật này thì có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn”
– Văn bản hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản. Ví dụ: Quyết định số 2816/QĐ-UB ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc duyệt giá hỏa thiêu bằng lò gas tạm thời thực hiện tại Công ty phục vụ mai táng Hải Phòng quy định: “Thời gian thực hiện tạm thời mức giá duyệt tại Điều 1 được thực hiện 365 ngày kể từ ngày ký Quyết định”.Hoặc một số văn bản quy định: “Văn bản này hết (chấm dứt) hiệu lực sau 3 năm kể từ ngày văn bản có hiệu lực”.
Miễn Thuế Hàng Quà Tặng Vì Mục Đích Nhân Đạo (Hội Chữ Thập Đỏ Tỉnh Đồng Nai)
Về đề nghị miễn thuế hàng hóa nhập khẩu là quà biếu, quà tặng vì mục đích nhân đạo, từ thiện tại công văn số 321/CTĐĐNa ngày 25/12/2017 của Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai, Tổng cục Hải quan có ý kiến như sau:
1. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 thì:
“2. Tài sản di chuyển, quà biếu, quà tặng trong định mức của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc ngược lại.
Tài sản di chuyển, quà biếu, quà tặng có số lượng hoặc trị giá vượt quá định mức miễn thuế phải nộp thuế đối với phần vượt, trừ trường hợp đơn vị nhận là cơ quan, tổ chức được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động và được cơ quan có thẩm quyền cho phép tiếp nhận hoặc trường hợp vì mục đích nhân đạo từ thiện”
Đối chiếu với các quy định trên, trường hợp Công ty cổ phần Đồng Tiến tặng cho Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai số nguyên vật liệu dự thừa thì không thỏa mãn quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 do Công ty cổ phần Đồng Tiến không phải là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Trường hợp các Công ty nước ngoài tặng số nguyên vật liệu dư thừa cho Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai thì đáp ứng quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Theo đó, các Công ty nước ngoài phải có văn bản gửi Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai về việc biếu, tặng hoặc nếu ủy quyền cho Công ty CP Đồng Tiến biếu tặng thì phải có văn bản ủy quyền.
2. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP thì: “Quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho cơ quan, tổ chức Việt Nam được ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động theo pháp luật về ngân sách; quà biếu, quà tặng vì mục đích nhân đạo, từ thiện có trị giá hải quan không vượt quá 30.000.000 đồng được miễn thuế không quá 04 lần/năm.
Trường hợp vượt định mức miễn thuế của cơ quan, tổ chức đươc ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động, Bộ Tài chính quyết định miễn thuế đối với từng trường hợp”
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước thì: “1. Kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm. Trường hợp các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao nhiệm vụ thì được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện”
Hội chữ thập đỏ là tổ chức xã hội, không phải là cơ quan, tổ chức được ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động. Do đó, không thuộc đối tượng Bộ Tài chính quyết định miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là quà biếu, quà tặng vì mục đích nhân đạo, từ thiện có trị giá hải quan vượt quá định mức tại Điểm b Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP nêu trên.
Lô hàng quà tặng nêu trên có trị giá 129.936,28 USD, vượt quá 30.000.000 đồng. Trường hợp hàng hóa do các Công ty nước ngoài tặng cho Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai thì được miễn thuế nhập khẩu đối với lượng hàng hóa có trị giá đến 30.000.000 đồng. Đề nghị Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai liên hệ với Cục Hải quan tỉnh Đồng Nai để được hướng dẫn cụ thể.
Tổng cục Hải quan thông báo để Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai được biết./.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Quy Định Của Pháp Luật Về Mang Thai Hộ Vì Mục Đích Nhân Đạo trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!