Cập nhật nội dung chi tiết về Quy Định Về Hưởng Bảo Hiểm Thất Nghiệp mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Căn cứ pháp lý
Luật Việc làm năm 2013;
Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm thất nghiệp là gì?
Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Người lao động tham gia ký kết các hợp đồng lao động/ hợp đồng làm việc sau phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp:
Hợp đồng lao động không xác định thời hạn
Hợp đồng lao động xác định thời hạn
Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
Mức tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Tại doanh nghiệp cả người lao động và người sử dụng lao động đều có nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động như sau:
Người lao động đóng 1% tiền lương tháng;
Người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia.
Trong đó, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, với mức lương đóng tối đa như sau:
Người lao động theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định: Mức lương đóng tối đa = 20 tháng lương tối thiểu vùng.
Tiền lương tính đóng bảo hiểm thất nghiệp 2021
Mức lương đóng bảo hiểm thất nghiệp tối thiểu năm 2021
Theo quy định tại điểm 2.6 khoản 2 Điều 6 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 thì mức lương tối thiểu đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động như sau:
Đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường thì mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng.
Đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh đòi hỏi lao động qua đào tạo, học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng;
Đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 5%; công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương của công việc hoặc chức danh có độ phức tạp tương đương, làm việc trong điều kiện lao động bình thường.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, lương tối thiểu vùng năm 2021 đã được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo phương án chưa tăng lương tối thiểu vùng năm 2021 như kết quả bỏ phiếu của Hội đồng Tiền lương Quốc gia; tức mức lương tối thiểu vùng 2021 vẫn sẽ giữa như năm 2020 là: Vùng 1 giữ nguyên 4.420.000 đồng/tháng; vùng 2 là 3.920.000 đồng/tháng; vùng 3 là 3.430.000 đồng/tháng; vùng 4 là 3.070.000 đồng/tháng.
Mức lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa của năm 2021
Mức lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa theo quy định khoản 3 Điều 6 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 sẽ là 20 tháng lương cơ sở.
Hiện nay theo Nghị định 128/2020/QH14 thì mức lương cơ sở của năm 2021 vẫn giữ nguyên là 1,49 triệu đồng/tháng.
Như vậy, mức lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa là: 20 x 1,49 = 29,8 triệu đồng/tháng.
Chế độ khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Theo quy định tại Điều 42 Luật Việc làm 2014 thì người lao động nhận được 04 quyền lợi khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp, gồm:
Trợ cấp thất nghiệp.
Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm.
Hỗ trợ Học nghề.
Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.
Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp
Người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau
Chấm dứt hợp đồng lao động trừ các trường hợp: người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;
Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng lao động không xác định thời hạn; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động.
Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:
Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;
Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;
Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;
Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;
Người lao động chết.
Cách tính hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp (nhưng không được quá 05 lần mức lương cơ sở hoặc mức lương tối thiểu vùng).
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp bao gồm
Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp (Mẫu tải văn bản);
Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động;
Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
Quyết định thôi việc;
Quyết định sa thải;
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.
Sổ bảo hiểm xã hội.
Về thủ tục đăng ký để hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Để hưởng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động thực hiện 04 bước sau:
Bước 1: Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, phải nộp trực tiếp 01 bộ hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp tới trung tâm dịch vụ việc làm.
Bước 2: Đến trung tâm dịch vụ việc làm nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp theo ngày ghi trong phiếu hẹn.
Bước 3: Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, tới cơ quan bảo hiểm xã hội nhận trợ cấp thất nghiệp tháng đầu tiên.
Bước 4: Hàng tháng đến trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện thông báo tìm kiếm việc làm theo đúng quy định.
Một số trường hợp đặc biệt
Người lao động được ủy quyền nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện trong những trường hợp sau:
Ốm đau, thai sản có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền.
Bị tai nạn có xác nhận của cảnh sát giao thông hoặc cơ sở y tế có thẩm quyền;
Hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh có xác nhận của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn.
Nếu hồ sơ đủ điều kiện: Nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp và nhận trợ cấp theo nội dung tại Quyết định.
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp
Mức hưởng hằng tháng = 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
Trong đó:
Với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, mức hưởng hằng tháng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
Với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quy định (ngoài nhà nước) thì mức hưởng hằng tháng tối đa không qúa 05 lần mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.
Số tháng được hưởng trợ cấp thất nghiệp
Đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng bảo hiểm thất nghiệp: Được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp.
Cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Một người chỉ được nhiều lần tiền trợ cấp thất nghiệp nhưng chỉ được hưởng tối đa tổng không quá 12 tháng.
Những quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, về thủ tục được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Công ty Luật Việt An – Tiễn sĩ, Luật sư: Đỗ Thị Thu Hà sẽ nêu và tư vấn giúp các bạn qua video này: Cơ sở pháp lý, Luật áp dụng, Đối tượng nào được hưởng trợ cấp thất nghiệp, Điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp, Thủ tục bao gồm những gì, Cách tính bảo hiểm thất nghiệp như thế nào, Và những lưu lý khi làm thủ tục thất nghiệp được Ts. Ls Đỗ Thị Thu Hà hướng dẫn các bạn qua video sau:
Luận Văn: Bảo Hiểm Thất Nghiệp Theo Pháp Luật Việt Nam, Hay
, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi
Published on
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ NGUYỆT KHUÊ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: chúng tôi Nguyễn Hữu Chí HÀ NỘI, 2017
2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dương Thị Nguyệt Khuê
3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………. 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP………………………………………. 7 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp………………………………………………. 7 1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp…………………………. 15 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM…………………………………………………………………… 25 2.1. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ……………………………………….. 25 2.2. Đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam……………………………………………………………………………… 47 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM………………………………………………… 60 3.1. Phương hướng hoàn thiện…………………………………………………… 60 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam …………62 KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………… 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………. 74
4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội BHTN Bảo hiểm thất nghiệp HĐLĐ Hợp đồng lao động ILO International Labour Organization : Tổ chức Lao động Quốc tế NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động NTN Người thất nghiệp TCTN Trợ cấp thất nghiệp
5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Biểu đồ tháp dân số năm 2014 Nhìn vào tháp dân số trên, có thể dễ dàng nhận thấy dân số Việt Nam trong độ tuổi từ 20 – 40 những năm gần đây vẫn đang ở mức cao ở cả nam và nữ, đặc biệt nhóm tuổi từ 15 đến 30 tuổi, tức là trong độ tuổi lao động. Vì vậy, áp lực dân số lên vấn đề lao động, việc làm ở nước ta rất lớn. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, biến động cung – cầu lao động trên thị trường lao động thường xuyên xảy ra, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động ngày càng gia tăng. Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế – xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới phải đương đầu. Có thể xem thất nghiệp là một hiện tượng khách quan và nó được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Những biến động của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng có những tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam, trong đó có sự gia tăng số lượng người lao động mất việc làm. Nước ta, tuy mới bước vào nền kinh tế thị trường nhưng thất nghiệp đã, đang và sẽ là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tập trung giải quyết.
6. 2 Nhận thức được điều này, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngay từ rất sớm, Đảng ta đã khẳng định: “Từng bước hình thành quỹ bảo trợ thất nghiệp ở thành thị, đảm bảo công ăn việc làm cho dân là mục tiêu hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên” (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, năm 1996). Tiếp đó, vấn đề thất nghiệp và bảo trợ thất nghiệp đã được khẳng định lại trong nhiều văn kiện của Đảng và được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách đối với vấn đề này. Đặc biệt, Bộ luật lao động năm 2013, Luật bảo hiểm xã hội ngày 29/6/2006 và Luật việc làm ngày 16/11/2013 là những văn bản pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm quyền được BHTN cho NLĐ bị thất nghiệp ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, quan điểm, đường lối của Đảng về chính sách xã hội, đặc biệt là ASXH được nâng lên tầm cao mới, thể hiện toàn diện hơn trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm.” Là một trong những chính sách về ASXH, quyền được BHTN đã được quan tâm song, thực tế cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện như: đối tượng tham gia BHTN còn hạn chế dẫn tới một bộ phận không nhỏ NLĐ chưa được bảo đảm quyền lợi khi họ bị mất việc làm; tình trạng NSDLĐ nợ đóng BHTN; sự lợi dụng của NLĐ đối với việc chi trả BHTN, chúng tôi vậy, việc tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng trên là hết sức cần thiết để bảo đảm quyền được BHTN cho người bị mất việc, góp phần củng cố niềm tin của NLĐ đối với chính sách, pháp luật của nhà nước, ổn định đời sống xã hội. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn tìm ra những điểm tồn tại, vướng mắc trong quy định của chính sách, pháp luật về BHTN, những khó khăn trong thực tiễn áp dụng, từ đó làm cơ sở để tìm ra những giải pháp nhằm bảo đảm quyền được BHTN.
11. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp 1.1.1. Khái niệm Thất nghiệp là vấn nạn chung của toàn cầu, nạn thất nghiệp tồn tại dưới dạng ” bắt buộc” là một trạng thái mà trong đó, tổng cung về lao động của những người lao động muốn làm việc với tiền lương danh nghĩa tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có. Thất nghiệp được coi là một vấn đề trung tâm trong xã hội hiện đại. Đó là hiện tượng người có năng lực lao động không có cơ hội tham gia lao động xã hội, bị tách khỏi tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, luôn luôn tồn tại một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Vấn đề thất nghiệp không phải là hiện tượng độc lập của nền kinh tế mà đó là kết quả của các quy luật nhất định để đạt được sự cân bằng của hệ thống kinh tế. Theo Từ điển kinh tế học hiện đại, thì thất nghiệp là tình trạng ” người lao động không có việc làm, bao gồm cả những người đang trong giai đoạn tìm việc làm mới hoặc những người không thể tìm được việc làm với đồng lương thực tế hiện hành.” Tại điều 20 Công ước 102 ngày 28/6/1952 của ILO, định nghĩa về thất nghiệp được đưa ra như sau: “Thất nghiệp là sự ngừng thu nhập do người lao động không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”[14]. Sau này, trong Công ước 168 năm 1988, ngoài hai điều kiện đã được nêu trong Công ước 102 là ” có khả năng làm việc” và ” sẵn sàng làm việc”, Công ước 168 đã bổ sung thêm một điều kiện nữa để xác định tình trạng thất nghiệp, đó là người lao động phải “tích cực tìm kiếm việc làm”. Như vậy, theo tiêu chuẩn quốc tế, “người thất nghiệp” bao gồm những người ở độ tuổi nhất định (thường từ 15 tuổi trở lên) mà trong thời gian khảo sát (thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó) đáp ứng tất cả 3 điều kiện: “không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1 giờ, không làm việc làm công ăn lương lương hoặc
12. 8 việc tự làm), “sẵn sàng làm việc” và “đang tìm việc”. Định nghĩa về thất nghiệp ILO đưa ra có tính khái quát cao, được nhiều nước tán thành và lấy đó làm nền tảng để vận dụng tại quốc gia mình khi đưa ra khái niệm về người thất nghiệp. Cần nhìn nhận người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc nhưng không có việc làm và đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Để giải quyết vấn nạn thất nghiệp, chính phủ phải đưa ra rất nhiều chính sách và biện pháp khác nhau, trong đó có chính sách được coi trọng và tối ưu nhất BHTN, một bộ phận của bảo hiểm xã hội BHXH nhằm bảo vệ người lao động trong trường hợp bị mất việc làm. BHTN là các biện pháp được đưa ra nhằm hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho NTN mà không phải do lỗi chủ quan của họ. Theo Công ước 102 của ILO, BHTN là một biện pháp hỗ trợ thiết thực về mặt tài chính cho NLĐ trong lúc mất việc làm nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Ngoài ra, cơ chế pháp lý này còn tạo dựng hệ thống các giải pháp như: hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần ổn định tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động bị mất việc có cơ hội tìm kiếm, thích ứng với công việc mới. Dưới góc độ kinh tế – xã hội, BHTN là một trong các giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Khoản tiền quỹ được xây dựng từ nguồn do NLĐ và NSDLĐ đóng góp, cộng thêm sự hỗ trợ một phần của Nhà nước được coi là khoản thay thế một phần thu nhập, giúp cuộc sống của NTN tạm ổn định trong thời gian tìm công việc mới. Dù không sinh ra nhằm mục đích sinh lợi nhuận song nó thể hiện bản chất kinh tế thông qua chức năng phân phối thu nhập chung, hay nói cách khác là chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể cùng tham gia vào thị trường lao động. Dưới góc độ pháp lý, BHTN là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành nhằm đảm bảo việc xây dựng và sử dụng quỹ BHTN nhằm hỗ trợ một phần tài chính cho NTN cũng như đưa ra các biện pháp giúp NTN sớm tìm được việc làm. Điều 25 Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua năm 1948 khẳng định: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”[7]. Quyền được có việc làm, được làm việc và bảo vệ chống thất nghiệp là một trong những quyền cơ bản của con người. Nó không những đã được ghi nhận từ
13. 9 rất lâu trong pháp luật quốc tế mà còn được quy định ở hầu hết pháp luật quốc gia. Mục đích của BHTN là ngăn ngừa sự bất ổn định về kinh tế xã hội, hỗ trợ và đào tạo để giúp người lao động có cơ hội trở lại thị trường lao động, tìm kiếm việc làm mới. Với ý nghĩa thay thế một phần thu nhập bị mất mà không phải do lỗi của người lao động, Nhà nước cần có cơ chế để quản lý NTN và việc chi trả BHTN. Trước khi Luật Việc làm 2013 ra đời, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về định nghĩa BHTN. Nhìn chung, BHTN chính là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động một cách hữu hiệu. Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ trao cho người lao động “con cá” mà còn cung cấp cho họ “cần câu” để họ tự xây dựng cuộc sống trong tương lai [8, tr.32]. Thông qua việc xây dựng và vận hành quỹ tài chính tập trung với sự tham gia của các chủ thể trong thị trường lao động ( NLĐ, NSDLĐ, nhà nước), BHTN được hình thành với hai mục đích: Đảm bảo đời sống vật chất cơ bản cho NTN trong một khoảng thời gian nhất định sau khi họ bị mất việc làm và có chế độ hỗ trợ để NTN nhanh chóng tìm được việc làm mới thông qua các hoạt động như: giới thiệu việc làm, tái đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, … Như vậy, BHTN không phải là biện pháp giải quyết hậu quả của thất nghiệp một cách thụ động mà là một chính sách của thị trường lao động tích cực nhằm ngăn chặn tình trạng thất nghiệp. 1.1.2. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp Có thể nói, BHTN là một bộ phận cấu thành không thể tách rời trong hệ thống các chế độ BHXH nói riêng và ASXH nói chung. Xét về bản chất , BHTN cũng giống như BHXH, đều thể hiện bản chất kinh tế và bản chất xã hội. Về bản chất kinh tế, BHTN mặc dù không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận, nhưng vẫn mang bản chất kinh tế qua chức năng phân phối lại thu nhập xã hội. Khi gặp khó khăn, rủi ro, biến cố trong việc làm dẫn dến thu nhập bị mất, đối tượng bị thất nghiệp cần một khoản tiền hoặc phương tiện để trang trải và bù đắp lại những tổn thất. Khi đó, BHTN với khoản trợ cấp của mình sẽ là các khoản thay thế thu nhập đã mất. Thực chất, đây là sự phân phối lại thu nhập trong xã hội. Nguồn quỹ BHTN hình thành từ sự đóng góp của số đông người tham gia, nhưng chỉ những người thỏa mãn điều kiện được trả trợ cấp mới là đối tượng được hưởng. Về tính xã hội của
15. 11 1.1.3. Ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp Từ những đặc điểm trên, có thể thấy BHTN đóng góp rất lớn vào việc đảm bảo mục tiêu ASXH và phát triển kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. * BHTN góp phần giải quyết tạm thời các khó khăn về tài chính cho NTN, giúp họ sớm tìm được việc làm: Mất việc làm là điều không ai mong muốn, nó gây ra rất nhiều hệ quả xấu cho bản thân NLĐ và ảnh hưởng tới gia đình họ. Đặc biệt, đối với những trường hợp NTN là lao động chính trong gia đình thì việc mất đi khoản thu nhập hàng tháng khiến cho đời sống vật chất trở nên rất khó khăn. Chính vì vậy, sự chia sẻ của cộng đồng xã hội thông qua BHTN sẽ là phương tiện giúp cuộc sống của họ bớt áp lực, tạo điều kiện để họ vững tâm tìm công việc mới chính đáng, phù hợp với khả năng của mình. Bên cạnh việc trao cho họ một mức trợ cấp hàng tháng, các chính sách BHTN còn hỗ trợ cho NTN trong việc đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm. Như vậy, việc tham gia đóng góp BHTN được coi là một hoạt động chủ động phòng chống rủi ro trong tương lai cho bản thân và chia sẻ rủi ro với cộng đồng. * BHTN góp phần phát triển xã hội hài hòa về mặt lợi ích giữa NLĐ và NSDLĐ: Để thoát khỏi gánh nặng của vấn đề thất nghiệp, nhiều lao động đã phải chấp nhận làm những công việc không phù hợp với trình độ, khả năng của mình với mức thu nhập không xứng đáng, làm việc trong môi trường làm việc độc hại và điều kiện lao động không đảm bảo. Điều đó vô hình chung gây ra thiệt thòi cho bản thân lao động, lãng phí nguồn nhân lực của thị trường kinh tế, làm cho thị trường lao động phát triển một cách không cân đối. Hiện tượng đó dẫn đến sự bất đối xứng trong quan hệ cung cầu lao động mà bên hưởng lợi hơn là bên NSDLĐ. Các chính sách của BHTN giúp NLĐ ngăn ngừa rủi ro, hạn chế các tác động tiêu cực trong thời gian lao động mất việc làm, không phải vội vàng lựa chọn những công việc mà họ cảm thấy không phù hợp. Đối với NSDLĐ, khi tham gia BHTN, bên cạnh việc ràng buộc trách nhiệm chia sẻ rủi ro với NLĐ không may mất việc làm, họ sẽ còn không phải chi trả một khoản chi phí lớn cho việc giải quyết chế độ cho NLĐ khi họ mất việc làm. Mặt khác, các
17. 13 BHXH là một trong những quyền cơ bản mà con người được nhận, được ghi nhận rất rõ trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua năm 1948. Là một phần không thể thiếu trong tổng thể các chính sách BHXH, BHTN cũng cần được đảm bảo. Điều 25 của Tuyên ngôn ghi rõ: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”[7]. Thông qua các chính sách về BHXH, trong đó có BHTN, có thể đánh giá phần nào sự tiến bộ, văn minh trong tư duy pháp luật của một quốc gia. 1.1.4. Yếu tố tác động đến việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp Có rất nhiều yếu tố tác động đến việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, đặc biệt phải kể đến các yếu tố sau: Thứ nhất: Về vấn đề đóng phí và mức đóng BHTN, pháp luật BHTN chỉ có thể thực thi hiệu quả, khi có quy định cụ thể và phù hợp cho việc đóng phí và mức phí tham gia bởi quỹ BHTN được hình thành từ nguồn đóng góp của ba chủ thể với những lợi ích khác nhau là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Mức phí đóng BHTN của NLĐ phải được tính toán bằng một tỷ lệ phần trăm phù hợp trên mức lương NLĐ đang hưởng, sao cho sau khi trừ khoản tiền tham gia BHTN, NLĐ vẫn có thể trang trải cuộc sống của mình ở mức tối thiểu. Song quyền lợi BHTN cũng không dành cho tất cả, bởi không phải NLĐ nào cũng thuộc đối tượng tham gia. Đối với NSDLĐ, việc tham gia BHTN sẽ giúp họ giảm bớt gánh nặng phải trả số tiền lớn một lúc cho khoản trợ cấp khi NLĐ thôi việc, đồng thời, tạo tâm lý yên tâm làm việc cho NLĐ. Song, để NSDLĐ có trách nhiệm đóng phí thì mức phí cũng phải được tính toán cho phù hợp. Bên cạnh đó, nhà nước cần có biện pháp, chế tài cụ thể đối với hành vi chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ đóng phí của NSDLĐ nhằm bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Đối với Nhà nước, việc trích một phần từ ngân sách vào quỹ BHTN có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng. Có khoản hỗ trợ này sẽ giúp NSDLĐ và NLĐgiảm bớt gánh nặng đóng phí, đồng thời hạn chế khả năng vỡ quỹ. Do đó, đòi hỏi ngân sách Nhà nước có khoản chi thường xuyên cho chính sách BHTN, để duy trì sự tồn tại của quỹ cũng như bảo đảm cho chính sách ASXH được thực hiện.
18. 14 Thứ hai: Về quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN phải được đơn giản hóa tối đa, đảm bảo quyền lợi của NLĐ được giải quyết một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất. BHTN chỉ được thực hiện tốt khi nó tạo được hiệu ứng tốt đối với những người đã, đang và sẽ tham gia. Bản chất của BHTN là một chính sách ASXH, nó cần được tạo ra bởi một cơ chế thiết thực, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, người sử dụng nó được an tâm khi quyền lợi được giải quyết một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Do vậy, đòi hỏi việc xây dựng và ban hành quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thứ ba: Về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác tạo môi trường thực hiện và phát triển chính sách BHTN. Thông qua công tác này, NLĐ, NSDLĐ ý thức được vai trò, trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Từ đó, họ sẽ tích cực, tự giác tham gia, góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết đầy đủ về chính sách này, đồng thời, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho người khác hiểu thêm. Để làm tốt cần sự nỗ lực, phối hợp của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và chính NLĐ, qua đó, làm tăng tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách. Thứ tư: Về nguồn quỹ do NLĐ và NSDLĐ đóng, có hỗ trợ một phần ngân sách từ nhà nước hoặc tiền sinh lời của các hoạt động đầu tư từ quỹ như mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mua kỳ phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay vốn, trực tiếp liên doanh hoặc ủy thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng là biện pháp an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng. Ở một số nước phát triển, quỹ còn được dung để cho vay xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, các công trình giáo dục hay chăm sóc sức khỏe. Thứ năm: Năng lực quản lý của cơ quan BHXH trong việc triển khai, tổ chức việc chi trả trợ cấp TN và các chế độ hỗ trợ NTN khác: Việc quản lý và sử dụng quỹ BHTN; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các chính sách về BHTN; công tác thanh kiểm tra, giám sát việc triển khai BHTN. Ngoài các yếu tố kể trên thì Chính sách BHTN, mức độ hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật, tình hình kinh tế – xã hội cùng thực trạng tình hình thất nghiệp, nhận thức của NLĐ và NSDLĐ cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện BHTN.
19. 15 1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp 1.2.1 Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Hệ thống pháp luật đầu tiên về BHTN được hình thành ở Na Uy và Đan Mạch trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Dựa trên mô hình đó, pháp luật về BHTN lần lượt được hình thành tại các nước châu Âu khác và áp dụng nguyên tắc bắt buộc, đầu tiên là ở Anh (1911). Năm 1921 ở Luxembourg lần đầu tiên trên thế giới xuất hiện hình thức trợ cấp bằng tiền mặt cho NTN mà điều kiện được quy định cụ thể. Năm 1938, New Zeala áp dụng một chương trình BHTN toàn diện và trợ giúp thất nghiệp được thực hiện trên cơ sở thẩm tra thu nhập của cá nhân. Ngày nay, BHTN không chỉ được coi là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia mà còn được xem xét, điều chỉnh trong phạm vi quốc tế. Cũng như thất nghiệp là một hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng hệ thống pháp luật về BHTN cũng là việc làm bắt buộc đối với mỗi quốc gia nhằm đảm bảo quyền lợi chủa NLĐ, duy trì và phát triển nền kinh tế. Theo ILO thì nội dung cơ bản của pháp luật BHTN bao gồm: Đối tượng tham gia BHTN; các chế độ BHTN: điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng, đào tạo nghề và tư vấn giới thiệu việc làm; nguồn hình thành quỹ thông thường là sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và một phần hỗ trợ từ nhà nước tùy theo chính sách của từng quốc gia; tổ chức thực hiện chính sách BHTN. Có thể khái quát khái niệm Pháp luật BHTN như sau: “Pháp luật về BHTN là một bộ phận trong hệ thống các quy định về bảo hiểm xã hội, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả TCTN để bù đắp thu nhập cho NTN và thực hiện các biện pháp đưa họ sớm trở lại làm việc”. 1.2.1.Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Pháp luật về NHTN của mỗi quốc gia, tùy vào đặc thù kinh tế, xã hội đều có những nội dung riêng, song cơ bản thường đề cập đến những nội dung sau: 1.2.1.1.Đối tượng: Đối tượng của BHTN bao gồm đối tượng tham gia và đối tượng hưởng. Đối tượng tham gia bao gồm NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước; đối tượng hưởng là người đã tham gia BHTN bị mất việc làm không do lỗi của họ, có khả năng và sẵn sàng trở lại làm việc. Cụ thể như sau:
20. 16 – Người lao động: Cũng như các loại BHXH khác, đối tượng của BHTN là NLĐ có tham gia đóng bảo hiểm và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật về BHTN. Đa số các nước đều quy định chỉ những người làm công ăn lương (làm công cho chủ) mới được tham gia BHTN. Quy định này được ghi nhận tại Điều 2, Công ước số 44 ngày 23/06/1934 của ILO. Tuy nhiên, tùy vào bối cảnh xã hội từng ước mà có thể quy định thêm về một số đối tượng ngoại lệ khác như người giúp việc, lao động tại nhà, công chức nhà nước, lao động mùa vụ, lao động trẻ sát cận độ tuổi lao động quy định, lao động quá độ tuổi quy định, lao động đang được hưởng chế độ hưu trí,… Công ước này không áp dụng cho thủy thủ, thủy thủ đánh cá và lao động nông nghiệp. Sở dĩ đây những trường hợp trên không được áp dụng công ước do để quản lý được các đối tượng này khó khăn do đặc thù công việc luôn có sự phân tán, không cố định dẫn đến việc tham gia đăng ký, đóng góp và quản lý họ là rất phức tạp. Hơn nữa, những công việc của họ không mang tính thường xuyên, liên tục, cụ thể nên rất khó xác định họ có đang rơi vào tình trạng thất nghiệp hay không. Trong khi đối tượng hưởng BHTN phải là những người trong độ tuổi lao động, bị mất việc làm không do lỗi của họ (không phải là thất nghiệp tự nguyện), tức là bị chấm dứt hợp đồng lao động do không có việc làm, bị sa thải, không đáp ứng được yêu cầu của NSDLĐ, … nhưng có khả năng làm việc và luôn sẵn sàng quay trở lại làm việc. Trong khi đó, theo Công ước số 102 của ILO, Điều 21, thì đối tượng nhận TCTN phải thuộc trường hợp những người được bảo vệ, đó là: ” Những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương; Hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định theo Điều 67; Hoặc, nếu đã có bản tuyên bố để áp dụng Điều 3, bao gồm những người làm công ăn lương mà tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong các cơ sở công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên”. Và, “Trường hợp bảo vệ phải bao gồm tình trạng gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định, và xảy ra do không thể có được một công việc thích hợp, trong tình hình người được bảo vệ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” (Điều 20) [14].
23. 19 cần tham gia do họ có thời gian phục vụ Nhà nước là cả đời. Học sinh, sinh viên và người lao động làm việc dưới 18 giờ trong tuần hoặc có mức thu nhập ít hơn 1/7 thu nhập trung bình của tất cả các thành viên của BHTN cũng không phải tham gia loại bảo hiểm này [6, tr.33-34]. – Người sử dụng lao động: Đối tượng của BHTN không chỉ áp dụng đối với NLĐ mà còn là cả NSDLĐ. NSDLĐ là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ. Theo quy định, đối tượng này có quyền tham gia BHTN. Thực tế cho thấy, BHTN không chỉ bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho NLĐ mà còn cho cả NSDLĐ. Trong trường hợp có NLĐ mất việc làm, NSDLD không phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để giải quyết chế độ cho NLĐ, như vậy, họ sẽ được san sẻ gánh nặng trả trợ cấp. Bởi nhờ có tham gia đóng BHTN nên khi NLĐ bị mất việc làm thì NSDLĐ sẽ không phải đối mặt với việc trả TCTN nữa, mà thay vào đó đã có cơ quan quản lý về BHTN chịu trách nhiệm chi trả. Hơn nữa, đóng BHTN là một hình thức chia sẻ rủi ro với người đã có cống hiến trong kinh doanh, giúp NLĐ cũng an tâm cống hiến sức lực của mình. Ngoài ra, để chính sách ASXH đi vào hiện thực thì việc tham gia BHTN còn là nghĩa vụ bắt buộc đối với NSDLĐ. Hiện tại, trong các Điều ước quốc tế chưa quy định điều kiện cụ thể cho nhóm đối tượng này, mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính sách ASXH, mỗi quốc gia đặt ra những điều kiện tham gia BHTN nhất định cho NSDLĐ. – Nhà nước: Nhà nước tham gia vào BHTN như một phần đảm bảo sự tồn tại của hình thức bảo hiểm này. Không chỉ thể hiện vai trò trong việc xây dựng chính sách, bắt buộc thực hiện, đa số các Chính phủ đều hỗ trợ một phần xây dựng quỹ BHTN. Tùy theo quy định pháp luật từng nước mà mức hỗ trợ, hình thức đóng góp vào quỹ BHTN ở các nước là khác nhau. Ví dụ như ở Việt Nam, quỹ được đóng góp bằng 1% quỹ tiền lương tháng, NSSDLĐ đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những NLĐ tham gia BHTN và Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN nhưng ở Nhật Bản, người lao động chỉ đóng 0,6% còn Chính phủ phải đóng 25% tổng mức chi.
24. 20 1.2.1.2. Chế độ BHTN – Điều kiện hưởng: Theo Công ước số 44 của ILO, NTN phải có đủ các điều kiện sau nếu muốn được hưởng TCTN: + Thuộc đối tượng hưởng BHTN: Bị mất việc làm do nguyên nhân nằm ngoài mong muốn chủ quan của họ. Có năng lực là, việc và luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Đây là điều kiện quan trọng mà luật BHTN của các nước đều đặt lên hàng đầu. + NTN còn phải thỏa mãn về thời gian tham gia và mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc có đóng có hưởng. Theo đó, tùy thuộc vào thời gian đóng góp và mức đóng góp để quyết định thời gian hỗ trợ và mức hỗ trợ thất nghiệp của từng lao động nhưng nhìn chung đều phảidựa trên cơ sở đảm bảo cho người thất nghiệp đủ sống ở mức tối thiểu trong thời gian không có việc làm, đồng thời cân đối khoảng thời gian sao cho không quá ngắn để NTN chưa tìm được việc làm nhưng cũng không quá dài để họ không thể lạm dụng, muốn được hưởng trợ cấp hơn đi làm. Nhìn chung, các nước thường quy định thời hạn trợ cấp tối đa từ 12 đến 52 tuần, thời hạn tạm chờ từ 3 ngày đến 7 ngày đầu thất nghiệp không được hưởng trợ cấp. Điều này làm giảm nhẹ tài chính cho quỹ bảo hiểm và đơn giản hóa khâu quản lý trong trường hợp thất nghiệp ngắn ngày. Như vậy, mức trợ cấp thất nghiệp không cao hơn mức lương hàng tháng họ được hưởng trong thời gian còn việc làm. + Để nhận được trợ cấp thất nghiệp, NTN phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền trong nhất định được pháp luật quy định. Quy định này ở mỗi Quốc gia là khác nhau, ví dụ như ở Nhật Bản, NTN nhất thiết phải đăng ký tại cơ quan bảo đảm việc làm quốc gia, có khả năng và năng lực làm việc, luôn sẵn sàng khi có cơ hội việc làm mới; NTN phải đăng ký thường xuyên 4 tuần 1 lần; Pháp luật Thụy Điển quy định điều kiện hưởng TCTN là NLĐ phải hoàn toàn khỏe manh, có khả năng làm việc ít nhất 3 giờ một ngày và 7 ngày một tuần, tích cực tìm kiếm việc làm phù hợp và phải đăng ký tại trung tâm tìm kiếm việc làm của Chính phủ. Việc đăng ký này là cần thiết vì nó giúp cho cơ quan quản lý theo dõi, kiểm soát được số người thất nghiệp cũng như chi trả bảo hiểm một cách hợp lý cũng như giúp người lao động thể hiện được sự chủ động và mong muốn tìm kiếm việc làm của mình. Một số nước quy định rất cụ thể về việc điều tra thu nhập của người được
25. 21 hưởng trợ cấp thất nghiệp, nếu NTN có nguồn thu nhập khác thì sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp. + NTN phải có sổ BHTN. Sổ BHTN được coi là căn cứ pháp lý chứng minh sự tham gia bảo hiểm của NTN, được ghi trong đó bao gồm mức đóng và thời gian đóng BHTN. Các trường hợp NTN bị mất việc làm do lỗi cố ý của mình hoặc tự ý bỏ việc không có lý do chính đáng; từ chối một việc làm phù hợp do cơ quan giới thiệu việc làm giới thiệu, có hành vi gian lận để hưởng trợ cấp thì không được hưởng TCTN. – Về thời gian hưởng trợ cấp: Thời gian hưởng trợ cấp ngắn hay dài là tùy thuộc vào năng lực của từng quỹ BHTN. TCTN có thể được trả suốt thời gian NLĐ bị mất việc làm ngoài ý muốn, và đôi khi TCTN này cũng có thể hạn chế trong nhiều trường hợp đối với các loại đối tượng hưởng trợ cấp. Riêng đối với đối tượng là người làm công ăn lương, thời gian hưởng trợ cấp có thể bị hạn chế trong khoảng 13 tuần trong từng thời kỳ 12 tháng (Điều 24, Công ước 102 của ILO). Ở nhiều nước, khoảng thời gian này có thể lên đến 3 năm hoặc trên 3 năm, nhưng tại các nước đang phát triển, số người thất nghiệp lớn thì khoảng thời gian này được quy định thường là tối đa 12 tháng. Thời gian hưởng TCNT có thể được chia ra thành nhiều bậc, theo thời gian tham gia đóng. Tuy nhiên, không phải NLĐ khi nghỉ do thất nghiệp được hưởng ngay TCTN mà phải sau một thời gian quy định là khoảng thời gian kể từ khi NTN nộp đơn xin hưởng TCTN đến khi họ thực sự được hưởng TCTN. Khoảng thời gian này được gọi là thời gian hoãn hưởng và thường được quy định không vượt quá 8 ngày. – Về mức trợ cấp: Theo quy định của ILO, mức trợ cấp BHTN tối thiểu bằng 45% thu nhập trước khi thất nghiệp. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, mức TCTN có thể được dựa trên một trong các cơ sở sau: * Mức lương tối thiểu; * Mức lương bình quân cá nhân; * Mức lương tháng cuối cùng trước khi bị thất nghiệp. Mỗi quốc gia đều có những phương pháp xác định mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, nhưng cơ bản là các phương pháp:
26. 22 * Xác định theo tỷ lệ đồng đều cho tất cả các đối tượng hưởng căn cứ vào các cơ sở nêu trên; * Xác định theo tỷ lệ mức độ giảm dần mức TCTN, tức là cao nhất ở tháng đầu tiên hưởng và sẽ thấp dần ở những tháng sau. * Xác định theo cách chia thành các nhóm lao động: nhóm lao động có thu nhập thấp được hưởng tỷ lệ cao và ngước lại, nhóm có thu nhập cao được hưởng tỷ lệ thấp. * Xác định dựa trên tính chất công việc (lao động trí óc và lao động chân tay), số lượng người sống phụ thuộc trong gia đình (số người chưa có hoặc đã hết khả năng lao động), theo khu vực (nông thôn và thành thị),…. Nhìn chung, mức trợ cấp cần đảm bảo mức sống tối thiêu của NLĐ nhưng phải thấp hơn mức lượng được hưởng khi còn làm viêc để đảm bảo cuộc sống NTN không gặp khó khăn mà vẫn thúc đẩy được mong muốn quay trở lại làm việc của họ, tránh việc NTN ỷ lại vào trợ cấp mà kéo dài thời gian hưởng ảnh hưởng xấu đến thị trường lao động nói chung và gây thất thoát cho quỹ. – Về các chính sách hỗ trợ đào tạo và tìm việc làm mới: Không chỉ được hỗ trợ một khoản tiền, trong thời gian mất việc làm, NTN còn được hưởng các chính sách đài thọ như đào tạo lại nghề, đào tạo nghề mới, đào tạo nâng cao,… và giúp tìm việc làm mới phù hợp thông qua các hoạt động cung cấp thông tin về các cơ sở dạy nghề,cập nhật nhu cầu tuyển dụng lao động, tư vấn cho NLĐ chọn công việc thích hợp với họ và với nhu cầu của NSDLĐ. Ngoài ra, trong suốt thời gian bị thất nghiệp, NLĐ vẫn được đóng bảo hiểm y tế. 1.2.1.3 Quỹ BHTN: Quỹ BHTN là một quỹ độc lập tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Đối tượng tham gia xây dựng quỹ BHTN bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Cũng như BHXH, NLĐ tham gia BHTN đóng góp một tỷ lệ nhất định trong phần thu nhập của mình. NSDLĐ đóng góp bằng một tỷ lệ phần trăm theo quy định so với quỹ tiền lương hàng tháng chi trả cho người lao động. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Ngân sách hoặc từ tiền sinh lời của hoạt đồng đầu tư từ quỹ nhằm bù đắp phần còn thiếu. Hầu hết các nước đều có quy định cụ thể về mức đóng BHTN để đảm bảo an toàn cho sự tồn tại của quỹ nhưng tỷ lệ đóng góp giữa các bên tại các nước là không giống nhau. Có nước quy định NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước đóng góp như nhau, có những nước lại quy định NSDLĐ đóng gấp đôi NLĐ, Nhà nước chỉ
29. 25 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM 2.1. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam 2.1.1. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp trong pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHTN là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt, chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật BHTN. Theo Điều 41 Luật việc làm, nguyên tắc bảo hiểm thất nghiệp bao gồm 05 nguyên tắc sau: 2.1.1.1. Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp được xây dựng trên nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, hỗ trợ kinh tế song song với hỗ trợ việc làm cho NTN, khuyến khích NTN chủ động tìm việc làm. Đặc trưng của BHTN là có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia. BHTN dựa trên sự tương hỗ giữa các cá nhân trong xã hội, nghĩa là lấy số đông bù số ít, không phải là theo hình thức là một khoản tiết kiệm trả sau như đa số các hình thức bảo hiểm khác. Thực tế, trong số những người tham gia không phải ai cũng gặp rủi ro, tương tự, trong số NLĐ tham gia BHTN không phải ai cũng bị thất nghiệp. Nhưng do mức đóng chỉ là một tỉ lệ phần trăm rất nhỏ trên thu nhập của NLĐ khi làm việc, nên không đủ để chi trả chế độ cho NTN, mà cần có sự san sẻ rủi ro cả từ những người tham gia BHTN nhưng không bị thất nghiệp. TCTN và giải quyết việc làm cho NTN là mục đích chính của pháp luật về BHTN nhằm trợ giúp NLĐ khi bị mất việc vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, không như chính sách ASXH, BHTN ngoài việc bù đắp, hỗ trợ thu nhập bị mất còn tạo cơ hội cho NTN được tiếp cận việc làm mới thông qua giải pháp giới thiệu việc làm. Vì vậy, việc quy định và tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN phải đảm bảo chi trả TCTN không tách rời giải quyết việc làm, cụ thể: – Trong từng trường hợp hưởng chế độ BHTN phải bao gồm cả mức TCTN và cách thức hỗ trợ việc làm.
30. 26 – Bên cạnh việc quy định các mức TCTN, điều kiện tham gia BHTN, phương thức đóng BHTN, căn cứ chi trả quyền lợi bảo hiểm và thời gian hưởng TCTN phải có các quy định về các giải pháp nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội việc làm cho NTN như: định hướng, giới thiệu việc làm; đào tạo nghề, kỹ năng xin việc; ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp nhận NLĐ thất nghiệp; khuyến khích NTN tự tạo việc làm… – Việc chi trả TCTN cần tiến hành đồng thời với thực hiện các chế độ hỗ trợ về việc làm nhằm duy trì sinh hoạt của bản thân và gia đình của NLĐ trong thời gian bị mất việc, nhanh chóng đưa họ trở lại thị trường lao động. Gắn liền TCTN và giải quyết việc làm cho NTN phải là nguyên tắc xuyên suốt trong chế định BHTN nhằm mang lại sự an tâm cho người tham gia.Với mong muốn bù đắp những tổn thất về tài chính cho NLĐ trong thời gian bị mất việc làm, trợ cấp BHTN đã giải tỏa được sự lo lắng, bất an của NTN. Trong khi bản thân NLĐ không có khả năng duy trì thu nhập thì trợ cấp BHTN chính là khoản thu mà họ đang trông chờ. Khoản thu này không chỉ lấp đi những thiếu hụt tài chính mà còn giúp cho NTN tự tin hơn trong cuộc sống đời thường. Song, ngoài sự hỗ trợ về mặt vật chất, chế độ này đòi hỏi NTN chủ động tìm kiếm việc làm. Điều đó có nghĩa là trợ cấp BHTN chỉ có thể hỗ trợ phần nào thu nhập bị mất của NTN, trong một thời gian nhất định, phụ thuộc vào khoảng thời gian NTN tham gia đóng BHTN. Do đó, bản thân họ phải tích cực chủ động tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng của mình trên cơ sở có sự hỗ trợ về việc làm. Sự hỗ trợ này chỉ mang tính chất định hướng, giới thiệu chứ không có nghĩa là bắt buộc NTN phải làm công việc đó hay họ không phải lo tìm việc mà cứ chờ đợi sẽ được giải quyết việc làm. Từ những phân tích nêu trên cho thấy, trợ cấp BHTN như một bước đệm, tạo điều kiện cho NTN tiến gần đến việc làm hơn. Tuy nhiên, trợ cấp như thế nào để NTN còn chủ động tìm việc thì đòi hỏi nhà làm luật phải có sự tính toán kỹ lưỡng. Bởi lẽ, mức trợ cấp quá cao sẽ tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ, không muốn đi tìm việc, ngược lại mức trợ cấp quá thấp khiến NTN không đủ trang trải sinh hoạt hàng ngày ở mức tối thiểu sẽ dẫn đến tình trạng thiếu niềm tin vào chính sách. Do đó, việc xác định mức trợ cấp BHTN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với vấn đề ASXH của mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, mục tiêu, chiến lược; căn cứ vào đối tượng tham gia
31. 27 BHTN, thời gian đóng, mức đóng mà mỗi quốc gia quy định mức trợ cấp BHTN khác nhau. Theo đó, khoản trợ cấp này được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mức tiền lương đóng bảo hiểm và được trả hàng tháng cho NTN trong một thời hạn nhất định. Mức TCTN hàng tháng không thấp hơn mức lương tối thiểu và được cân đối với mức đóng BHTN trước đó của NLĐ. 2.1.1.2. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương của người lao động Theo điều 14, quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày 9/9/2015 của BHXH Việt Nam, mức đóng và trách nhiệm đóng BHTN được quy định như sau: 1. Người lao động đóng bằng 1% tiền lương tháng; 2. Đơn vị đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia BHTN; 3. Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những người lao động đang tham gia BHTN và do ngân sách trung ương bảo đảm. Điều 15 quyết định này quy định về tiền lương tháng đóng BHTN : 1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 6. 2. Người lao động đóng BHTN theo chế độ tiền lương do đơn vị quyết định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản 2 Điều 6. Trường hợp mức tiền lương tháng của người lao động cao hơn hai mươi tháng lương tối thiểu vùng thì mức tiền lương tháng đóng BHTN bằng hai mươi tháng lương tối thiểu vùng (thực hiện từ ngày 01/01/2015). 2.1.1.3. Mức hưởng bảohiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp Một trong các vai trò quan trọng của BHTN là hỗ trợ cuộc sống cho người lao động khi bị mất thu nhập do thất nghiệp gây nên. Do đó, việc quy định tỷ lệ hưởng và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và được cân đối với mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp trước đó của người lao động. Chế độ BHTN được dựa trên cơ sở quan hệ hữu cơ giữa
32. 28 đóng góp và thụ hưởng. Nguyên tắc này được pháp luật quy định rất cụ thể tại Khoản 1 điều 57 và Điều 58 Luật việc làm 2013. Quyền lợi bảo hiểm được chỉ được giải quyết theo nguyên tắc có đóng, có hưởng. Vì thế, người tham gia sẽ được hưởng nếu bị mất việc làm. Tuy nhiên, để được hưởng người tham gia phải đáp ứng điều kiện về đối tượng tham gia, thời gian đóng bảo hiểm. Khi đó, mức hưởng BHTN cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào mức đóng, thời gian đóng của NTN. Điều này cho thấy, chính sách BHTN giúp cho người tham gia có thể phòng ngừa, tránh né những rủi ro khi xảy đến mà bản thân họ không lường trước được. Song, không phải vì đã tham gia thì sẽ không sợ thất nghiệp, cứ ngồi hưởng thụ quyền lợi, người đóng BHTN phải hiểu rằng, chính sách này chỉ hỗ trợ một phần thu nhập bị mất trong một thời hạn nhất định. Do vậy, người đã tham gia BHTN mà bị thất nghiệp phải chủ động kiếm việc làm. Hơn nữa, có khoản thu từ mức trợ cấp này NTN sẽ yên tâm học tập nâng cao tay nghề, và trong khi hưởng chế độ TCTN họ sẽ có thời gian lựa chọn công việc phù hợp. Mức hưởng BHTN ảnh hưởng nhiều đến sự sinh tồn của NTN. Song, mức hưởng lại phụ thuộc vào mức đóng, thời gian đóng của người tham gia. Vậy nên, việc quy định mức hưởng bảo hiểm cũng cần phải xem xét nhưng không được cao hơn mức tiền lương khi làm việc. Nếu mức hưởng quá cao sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm, vô tình tạo điều kiện cho một bộ phận NLĐ muốn được thất nghiệp. Nếu mức hưởng quá thấp sẽ khiến NTN không duy trì được điều kiện sống tối thiểu, gây khó khăn trong việc kêu gọi NLĐ tham gia chính sách. Khi đó, mục tiêu bù đắp thu nhập bị mất trong thời gian NLĐ bị thất nghiệp sẽ chỉ còn là vấn đề lý thuyết. 2.1.1.4. Nguyên tắc việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia. 2.1.1.5. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHTN do một cơ quan quản lý thống nhất, công khai và hạch toán độc lập. Quỹ BHTN do một cơ quan quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương theo chế độ tài chính của Nhà nước. Quỹ được sử dụng vào các mục đích như: Chi trả trợ cấp thất nghiệp cho NLĐ, chi cho các hoạt động tìm việc làm cho NTN, chi trả
33. 29 cho công tác đào tạo, đào tạo lại, học nghề cho người thất nghiệp, chi phí cho hoạt động của bộ máy quản lý BHTN,… Người hưởng TCTN chỉ được hưởng trợ cấp nếu đóng BHTN. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc có đóng, có hưởng. Nhưng ngoài trách nhiệm đóng góp của NLĐ, NSDLĐ, đòi hỏi nhà nước cũng phải đưa vào quỹ BHTN một khoản hỗ trợ hợp lý để đảm bảo chi trả trợ cấp mỗi khi có sự kiện bảo hiểm diễn ra. Khoản hỗ trợ này là cần thiết bởi thu nhập của NLĐ chỉ có hạn trong khi mọi chi phí sinh hoạt của họ và gia đình lại chỉ dựa vào đó. Với tư cách là người đại diện và thực hiện các chính sách xã hội, bên cạnh việc có trách nhiệm hỗ trợ một phần kinh phí cho quỹ, Nhà nước còn áp dụng các biện pháp để bảo tồm giá trị quỹ và làm cho quỹ tang trưởng. Điều này còn thể hiện sự quan tâm, bảo đảm, bảo vệ NLĐ thoát khỏi tình trạng khó khăn nếu bị thất nghiệp, thu hút sự quan tâm, tham gia của đông đảo NLĐ. Tuy nhiên, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia mà có sự hỗ trợ nhất định, trong trường hợp cần thiết nhà nước cần có biện pháp bảo toàn giá trị quỹ, bảo đảm sự an toàn tài chính cho quỹ. 2.1.2. Đối tượng tham gia Căn cứ theo Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp, có thể thấy, Pháp luật Việt Nam quy định rất rõ ràng về 02 đối tượng bắt buộc tham gia BHTN như sau: 2.1.2.1. Người lao động Theo khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật việc làm thì NLĐ là công dân Việt Nam, phải tham gia BHTN khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Theo quy định này, chỉ những NLĐ là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc như trên với NSDLĐ mới là đối tượng của BHTN. Do đó, những NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình; người giao kết hợp
34. 30 đồng lao động dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHTN. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN thì NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, NLĐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã giao kết theo quy định của pháp luật thì NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHTN trong thời gian này. Tuy nhiên, so với thời điểm ban hành, quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm trước đây đã trở nên không còn phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy, ngày 16/11/2013, Quốc Hội đã ban hành Luật việc làm. Theo Điều 43, ngoài trường hợp NLĐ ký kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được tham gia BHTN thì những người ký kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng đã được quyền tham gia BHTN. Như vậy, quy định mới đã cho phép mở rộng đối tượng tham gia. Điều này cho thấy, Nhà nước đã rất nỗ lực trong việc giải quyết chính sách đối với NTN, song vẫn còn hạn chế đối với NLĐ có thời hạn làm việc dưới ba tháng, người giúp việc gia đình. Đây là những đối tượng rất cần có sự quan tâm, giúp đỡ. Vì thế, để đảm bảo quyền được BHTN của NLĐ, trong thời gian tới, Nhà nước cần cân nhắc, xem xét bổ sung thêm vào chính sách đối tượng chưa được tham gia để họ được hưởng quyền lợi bảo hiểm như những NLĐ khác. 2.1.2.2. Người sử dụng lao động Cũng như NLĐ, pháp luật BHTN ngay từ khi mới ban hành cũng giới hạn phạm vi được tham gia BHTN của NSDLĐ. Trước đây, theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội và Điều 3 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP thì việc tham gia BHTN chỉ áp dụng đối với NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Nhưng thực tế của thị trường Việt Nam hiện nay cho thấy, NSDLĐ có sử dụng dưới 10 lao động còn khá phổ biến, hơn nữa nguy cơ NLĐ mất việc làm ở những nơi này lại cao hơn so với các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan có quy mô sử dụng lao động lớn nên đây là một điểm
35. 31 bất cập. Vì vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng BHTN, Luật việc làm cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia BHTN của NSDLĐ. Theo Điều 43, NSDLĐ tham gia BHTN gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động. Như vậy, theo Luật việc làm, việc tham gia BHTN không còn phụ thuộc vào số lượng NLĐ nữa mà căn cứ vào thời hạn làm việc theo hợp đồng làm việc của NLĐ. Sự thay đổi đáng kể này không chỉ hỗ trợ, giải quyết những khó khăn cho NLĐ khi mất việc mà còn ràng buộc thêm trách nhiệm từ phía NSDLĐ. Khoản 3 điều 44 Luật Việc làm quy định, bên cạnh trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHTN của NLĐ và NSDLĐ, sự tham gia đóng góp của Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết chính sách cho những NTN: “Căn cứ vào tình hình kết dư của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Nhà nước chuyển kinh phí hỗ trợ từ ngân sáchnhà nước vào Quỹ theo mức do Chính phủ quy định tại khoản 3 Điều 59 của Luật này”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP, ngân sách nhà nước hỗ trợ Quỹ BHTN theo nguyên tắc đảm bảo duy trì số dư quỹ hàng năm bằng 02 lần tổng các khoản chi chế độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm trước liền kề nhưng mức hỗ trợ tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN. Nguồn kinh phí này được chuyển mỗi năm một lần và được trích từ ngân sách nhà nước để chuyển vào BHTN. Sự tham gia của Nhà nước trong việc xây dựng quỹ BHTN là cần thiết vì bên cạnh việc Nhà nước khẳng định vai trò chủ đạo trung tâm của mình. Việc đóng góp này không chỉ với mục đích bù đắp sự thiếu hụt về tài chính mà còn nhằm bảo đảm cho chính sách của Nhà nước được thực hiện, quyền lợi của những NTN được đảm bảo chắc chắn hơn. Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, hàng năm, ngân sách trung ương phải trích 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những NLĐ tham gia BHTN để chuyển vào quỹ BHTN. Còn theo quy định của Luật việc làm, tỷ lệ này đã có sự thay đổi để tránh tình trạng ỷ lại từ phía NLĐ và NSDLĐ,
36. 32 cụ thể là tối đa không quá 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia. 2.1.3. Điều kiện hưởng Theo quy định tại Điều 49 Luật việc làm và Điều 11 Nghị định 28/2015/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN, điều kiện để NLĐ bị thất nghiệp được hưởng TCTN yêu cầu như sau: – Trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, NLĐ phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm. – NLĐ đang đóng bảo hiểm bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật. NLĐ đang đóng BHTN được hiểu là người có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã đóng BHTN và được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận. Như vậy, những trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật, bị xử lý kỉ luật theo hình thức sa thải hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hoặc bị kết án tù giam theo quyết định của Tòa án, chết hoặc mất tích theo tuyên bố của Tòa án sẽ không được hưởng trợ cấp BHTN. Việc đưa ra quy định như trên nhằm nâng cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm của NLĐ trong quá trình làm việc. Đồng thời, tránh tình trạng NLĐ ỷ lại vào BHTN mà không coi trọng đối với công việc mà mình đang có. Ngoài ra, so với quy định tại khoản 1 Thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH, Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định cụ thể, chặt chẽ hơn. Bên cạnh quy định về cách tính thời gian đóng BHTN để được hưởng trợ cấp, quy định mới còn nhấn mạnh việc đóng phí phải được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận. Điều này nhằm mục đích phòng ngừa, hạn chế sự gian lận khi làm hồ sơ hưởng TCTN. – NTN phải tham gia đóng BHTN đủ thời gian theo quy định của pháp luật. Cụ thể, thời gian phải từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp đối với trường hợp ký kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn; đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi thất nghiệp đối với NLĐ ký kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc
37. 33 một công việc nhất định có thời hạn đủ 03 tháng đến dưới 36 tháng (Khoản 2 Điều 49 Luật việc làm). Theo đó, NLĐ muốn hưởng TCTN phải có trách nhiệm đóng phí BHTN trong một khoảng thời gian nhất định trước khi bị mất việc làm. Việc đóng góp là cần thiết, phòng khi rủi ro xảy đến cho cả hai bên. Lợi ích này không chỉ có NLĐ mà chính NSDLĐ cũng được hưởng. Như vậy, để được hưởng quyền lợi của BHTN thì NSDLĐ và NLĐ thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm đóng phí để tạo quỹ. Do đó, nếu NSDLĐ không tự giác đóng thì NLĐ sẽ không được tham gia chế độ và khi thất nghiệp sẽ không được hưởng quyền lợi. Ngoài ra, khi tham gia BHTN, NSDLĐ có quyền được sử dụng quỹ để chi trả cho việc đào tạo lại, đào tạo nâng cao tay nghề cho NLĐ. Bên cạnh đó, để đảm bảo ASXH, giải quyết hậu quả của việc ban hành những chính sách gây bất lợi ảnh hưởng tới vấn đề việc làm, Nhà nước cũng phải có một phần trách nhiệm trong việc hình thành quỹ. Hơn nữa, ngoài mục đích duy trì sự tồn tại của quỹ BHTN, việc đóng phí còn là cơ sở đảm bảo thanh toán quyền lợi của người tham gia. Vì vậy, quy định này được đặt ra nhằm tránh tình trạng ỷ lại vào Nhà nước, gây thâm hụt quỹ bảo hiểm do chậm hoặc không đóng phí từ phía NLĐ, NSDLĐ. Đặc biệt, đây cũng là biện pháp ngăn ngừa trường hợp NLĐ cố tình làm mất việc để trục lợi bảo hiểm. Căn cứ vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có quy định riêng về khoảng thời gian đóng phí trước khi hưởng TCTN. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tùy vào từng loại hợp đồng mà thời hạn này là đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng hoặc 36 tháng trước khi NLĐ thất nghiệp. Tháng đóng BHTN của NLĐ được tính nếu NSDLĐ và NLĐ đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và đã đóng BHTN. Như vậy, so với khoản 1 Điều 15 Nghị định 127/ 2008/NĐ-CP, Luật việc làm đã mở rộng thêm đối tượng được tham gia BHTN. Tuy nhiên, để được hưởng quyền lợi bảo hiểm thì họ phải có thời gian đóng phí tối thiểu là 12 tháng trong khoảng thời gian 36 tháng trước khi họ thất nghiệp. Quy định mới cho thấy, cùng là NLĐ nhưng phụ thuộc vào loại hợp đồng đã ký kết mà điều kiện hưởng trợ cấp khác nhau. Do vậy, để bảo vệ quyền được BHTN của NLĐ, Nhà nước cần quy định lại
38. 34 khoảng thời gian đóng phí trước khi hưởng TCTN sao cho dung hòa lợi ích giữa các đối tượng hưởng trợ cấp. – Để hưởng TCTN, NLĐ thất nghiệp phải nộp hồ sơ tại Trung tâm dịch vụ việc làm ở địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. Trước đây, theo quy định tại khoản 5 Điều 1 Thông tư số 04/2013/TT- BLĐTBXH thì trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày NLĐ bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, nếu NLĐ chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng TCTN thì phải đăng ký thất nghiệp. Còn nay, cũng trong thời hạn nêu trên, NLĐ thất nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN là được hưởng trợ cấp (Khoản 1 Điều 17 Nghị định 28/2015/NĐ-CP). Như vậy, việc bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp là một hướng mới trong cải cách thủ tục hành chính. Quy định này sẽ tạo điều kiện cho người mất việc thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Thực tế cho thấy, khi không có việc làm, NTN thường có những biểu hiện tự ti, do đó, nếu đưa ra quy định bắt buộc phải đăng ký thất nghiệp mới được hưởng trợ cấp, thì chưa chắc tất cả số NTN đã đến cơ quan tiếp nhận thông tin để đăng ký. Hơn nữa, việc đăng ký thất nghiệp sẽ tạo ra nhiều rào cản hơn đối với NLĐ có nhu cầu đăng ký thất nghiệp tại Trung tâm Giới thiệu việc làm không phải là nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Bởi theo quy định cũ, để được hưởng trợ cấp họ phải có xác nhận về việc chưa đăng ký thất nghiệp của Trung tâm Giới thiệu việc làm nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Điều này gây khó khăn, rắc rối cho người đăng ký, vì thế, rất khó để có được chính xác số lượng NTN. Do vậy, việc giải quyết tình trạng thất nghiệp cũng mang lại hiệu quả không cao. Để khắc phục điều này, Luật việc làm và Nghị định 28/2015/NĐ-CP đã cho phép NLĐ thất nghiệp được nộp hồ sơ hưởng TCTN ở Trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi NLĐ muốn nhận trợ cấp. Quy định này giúp cho NLĐ thoải mái, dễ dàng và chủ động hơn trong việc tiến hành thủ tục hưởng TCTN. Tuy nhiên, hàng tháng NLĐ thất nghiệp vẫn phải có trách nhiệm khai báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi họ đang hưởng TCTN về việc tìm kiếm việc làm. Qua đó, cơ quan quản lý nhà nước về lao động cũng có được số liệu chính xác về số lượng NTN, từ đó đề ra biện pháp
Khái Niệm, Vai Trò Và Các Nguyên Tắc Của Bảo Hiểm Thất Nghiệp
Khái niệm, vai trò và các nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp? Bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là biện pháp để giải quyết tình trạng thất nghiệp, nhằm trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật việc làm năm 2013 bảo hiểm thất nghiệp được hiểu như sau:
“Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.”
Bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là biện pháp hay giải pháp để nhằm mục đích giúp người lao động khắc phục tình trạng thất nghiệp, trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp không có công ăn việc làm trong thời gian nghỉ việc mà chưa tìm được việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm công việc mới.
Theo quy định pháp lý, thì chế độ bảo hiểm thất nghiệp chính là là tất cả các quy phạm pháp luật quy định việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi trả một khoản trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho người lao động nghỉ việc, bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp, giải pháp hỗ trợ tìm kiếm việc làm người thất nghiệp trở lại làm việc.
2. Vai trò và các nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp
– Thứ nhất: Đối với người lao động, thì bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thât nghiệp chính là khoản tiền trợ cấp cần thiết để giúp đỡ những người thất nghiệp có cuộc sống ổn định khi bị mất việc làm. Ngoài 1 khoản tiền được hưởng thì cơ quan chi trả bảo hiểm thất nghiệp cũng tạo cơ hội về công việc để họ có thể tiếp tục tìm kiếm các công việc khác để có thu nhập. Chính cơ quan chi trả bảo hiểm thất nghiệp đã tạo ra chỗ dựa về vật chất và tinh thần cho những người lao động khi lâm vào tình trạng mất việc làm ổn định được cuộc sống.
– Thứ hai: Đối với người sử dụng lao động thì gánh nặng kinh tế, tài chính của họ cũng sẽ được chia sẻ khi những người lao động tại doanh nghiệp đã bị mất việc làm, thất nghiệp họ không cần phải mất một khoản chi để giải quyết chế độ cho những người lao động nghỉ việc. Đặc biệt, trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều người lao động thất nghiệp.
– Thứ ba: Đối với nhà nước, ngân sách nhà nước thì sẽ giảm bớt chi phí khi nạn thất nghiệp gia tăng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tạo sự chủ động về tài chính cho nhà nước.
a. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Theo quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013 thì người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì cần có đủ các tiêu chuẩn như sau:
– Người lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, tuy nhiên phải trừ các trường hợp như đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật hoặc đủ điều kiện để hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;
– Người lao động có quá trình đóng bảo hiểm thất nghiệp tại doanh nghiệp trường hợp thứ nhất là lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013. Trường hợp thứ hai là người lao động tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp tại doanh nghiệp lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013.
– Trong thời gian chính xác là 03 tháng, từ thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có quyết định nghỉ việc, thì người lao động phải nộp hồ sơ để giải quyết và hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm.
– Người lao động chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, tuy nhiên trừ các trường hợp như: phải tham gia nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; Chết.
– Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo mẫu quy định.
– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; hoặc Quyết định thôi việc; hoặc Quyết định sa thải; hoặc Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; hoặc Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. ( bản chính hoặc bản sao có chứng thực)
– Chứng minh nhân dân ( bản sao)
– Quyết định tạm hoãn hợp đồng, Quyết định thỏa thuận nghỉ việc không hưởng lương. ( nếu có )
c. Mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
Quy định về thời gian để giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp thì được tính theo số thời gian tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp khi tham gia bảo hiểm bắt buộc, nếu đóng từ đủ 12 tháng trở lên đến đủ 36 tháng thì sẽ được giải quyết và được chi trả 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau thời gian đó thì cứ đóng đủ thêm được 12 tháng nữa thì sẽ được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng. ví dụ: 4 năm đóng thất nghiệp được 4 tháng; 4 năm đóng thất nghiệp được 5 tháng….
Thời gian để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì được tính kể từ ngày thứ 16 khi đã nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp hợp lệ theo quy định pháp luật.
Công ty tôi kinh doanh hoạt động về ngành nghề du lịch. Do tình hình dịch bênh Covit 19 nên doanh nghiệp rơi vào tình trạng không có việc làm cho nhân viên. Nên tôi nghỉ việc vào ngày 29/4/2020 việc nghỉ việc do sự thỏa thuận của doanh nghiệp và tôi. Tuy nhiên, trước khi có quyết định nghỉ việc thì tháng 3 và tháng 4 năm 2020 công ty và tôi có ký văn bản thỏa thuận nghỉ việc không hưởng lương nên không đóng bảo hiểm xã hội cho tháng 3 và tháng 4. Thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp của tôi là 1 năm 6 tháng. Vậy tôi có được hưởng bảo hiểm thất nghiệp không? hồ sơ giấy tờ tôi cần chuẩn bị là gì? và mức hưởng là bao nhiêu? Tôi xin cảm ơn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013 thì người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì cần có các điều kiện sau:
– Người lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đúng quy định pháp luật lao động
– Người lao động tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp trường hợp thứ nhất là lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013. Trường hợp thứ hai là người lao động tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013.
– Nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm để hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
Hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp gồm có:
– Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo mẫu quy định.
– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; hoặc Quyết định thôi việc; hoặc Quyết định sa thải; hoặc Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; hoặc Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. ( bản chính hoặc bản sao có chứng thực)
– Sổ bảo hiểm xã hội.
– Quyết định thỏa thuận nghỉ việc không hưởng lương tháng 3,4.
– Chứng minh nhân dân ( bản sao)
Như vậy, trường hợp của bạn tham gia bảo hiểm thất nghiệp trên 12 tháng và nghỉ việc đúng luật nên bạn được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp nên trong thời hạn 3 tháng thì bạn cần làm 1 bộ hồ sơ như trên để gửi trung tâm tư vấn việc làm để giải quyết bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo Hiểm Y Tế Tự Nguyện Là Gì? Quy Định Bảo Hiểm Y Tế Tự Nguyện?
Bảo hiểm y tế là một trong những chính sách xã hội của nhà nước, không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm phục vụ, bảo vệ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân. Với một số đối tượng theo quy định sẽ được nhà nước cấp phát thẻ miễn phí, một số đối tượng được nhà nước hỗ trợ mức đóng còn lại phải tự nguyện bỏ tiền để tham gia bảo hiểm y tế.
Hiểu được những vấn đề đó, Luật Hoàng Phi mang đến nội dung bài viết với tiêu đề: Tìm hiểu về bảo hiểm y tế tự nguyện để giải đáp những thắc mắc của Khách hàng
Bảo hiểm y tế tự nguyện là gì?
Bảo hiểm y tế tự nguyện là hình thức bảo hiểm do Nhà nước cung cấp thực hiện không vì mục đích sinh lợi nhuận mà hướng tới việc thông qua những chính sách, quyền lợi của bảo hiểm thì tất cả người dân đều có thể tham gia và được chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, bệnh tật từ Quỹ bảo hiểm y tế.
Vì đây là hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện nên người dân được tự do trong việc lựa chọn về việc tham gia bảo hiểm y tế hay không tham gia bảo hiểm y tế.
Và đương nhiên dù nhà nước không bắt buộc người dân phải tham gia bảo hiểm, song nhà nước luôn khuyến khích tất cả người dân chưa có bảo hiểm y tế nên tham gia để được hưởng lợi ích khi đi khám chữa bệnh.
Hiện nay theo quy định của Luật bảo hiểm y tế về thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện thì tất cả mọi người đều có thể mua bảo hiểm y tế tự nguyện, ngoại trừ những trường hợp thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc và trẻ em dưới 6 tuổi cùng những đối tượng được cấp phát thẻ miễn phí hàng năm.
Thực tế trong văn bản pháp luật hiện nay thì khái niệm bảo hiểm y tế tự nguyện không được sử dụng mà thay vào đó là việc sử dụng bảo hiểm y tế tự nguyện theo hộ gia đình.
Theo việc mua bảo hiểm y tế tự nguyện có thể mua theo hộ gia đình tức là mua theo sổ hộ khẩu hoặc mua theo sổ tạm trú thì tất cả các thành viên trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú khi chưa có bảo hiểm y tế thì các thành viên còn lại đều phải mua.
Mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện ở đâu?
Từ ngày 01/01/2016 trở đi, khi muốn tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện thì người dân phải đăng ký tham gia mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình hoặc theo sổ tạm trú. Đồng thời Bảo hiểm y tế tự nguyện cũng sẽ không được bán tại các cơ sở khám chữa bệnh mà chỉ được đăng ký tại địa phương nơi thường trú hoặc tạm trú.
Người dân khi muốn tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện thì có thể đến những nơi có thẩm quyền đăng ký cấp bảo hiểm y tế tự nguyện bao gồm:
– Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi mà người mua bảo hiểm đang sinh sống, cư trú theo sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú KT3.
– Đại lý thu Bảo hiểm xã hội như đến bưu điện gần khu vực mình đang sinh sống.
– Bảo hiểm xã hội cấp quận, huyện nơi người mua đang cư trú.
Mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện?
Với các đối tượng tham gia mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình thì mức đóng hàng tháng được tính như sau:
– Người thứ nhất đóng bảo hiểm y tế tự nguyện sẽ đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở
– Người thứ hai đóng bảo hiểm y tế tự nguyện sẽ bằng 70% mức đóng người thứ nhất
– Người thứ ba đóng bảo hiểm y tế tự nguyện bằng 60% mức đóng người thứ nhất
– Người thứ tư đóng bảo hiểm y tế tự nguyện bằng 50% mức đóng người thứ nhất
– Từ người thứ năm trở đi thì mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện bằng 40% mức đóng người thứ nhất.
Lưu ý: Mức đóng trên sẽ dựa trên mức lương cơ sở của từng thời điểm mà người dân tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Ví dụ như ở thời điểm hiện tại thì mức lương cơ sở theo quy định đang là 1.490.000 Việt nam đồng/ tháng.
Thủ tục mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện?
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ để tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện. Hồ sơ tham gia gồm:
– Tờ khai tham gia BHYT theo Mẫu TK1-TS của Quyết định số 595 của cơ quan bảo hiểm xã hội;
– Bản sao Sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú;
– Thông tin cá nhân của các thành viên khác trong hộ khẩu/ tạm trú đã có thẻ bảo hiểm y tế để xác định giảm trừ mức đóng theo quy định.
– Chứng minh thư nhân dân/ căn cước công dân của những người mua bảo hiểm y tế.
Bước 2: Đến những cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ bảo hiểm y tế thì người mua khi đi Xuất trình giấy chứng minh nhân dân/thẻ căn cước công dân, hộ khẩu hoặc sổ tạm trú bản chính để kiểm tra, đối chiếu thông tin.
Bước 3: Nộp hồ sơ và hoàn thiện giấy tờ và đóng tiền tham gia BHYT tự nguyện theo quy định.
Bước 4: Nhận giấy hẹn trả kết quả và dựa trên căn cứ thời hạn trên giấy hẹn để đến nhận thẻ.
Thường với những trường hợp mua lần đầu bảo hiểm y tế tự nguyện thì sau 30 ngày mua thì thẻ bảo hiểm y tế mới có giá trị hiệu lực.
Những chia sẻ trên của Luật Hoàng Phi trong Tìm hiểu về bảo hiểm y tế tự nguyện, hi vọng sẽ là những thông tin hữu ích cho Khách hàng. Trường hợp Khách hàng thắc mắc thông tin gì, vui lòng liên hệ Tổng đài 1900.6557 để được chúng tôi giải đáp chi tiết nhất.
CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC
1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”
Bạn đang đọc nội dung bài viết Quy Định Về Hưởng Bảo Hiểm Thất Nghiệp trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!