Cập nhật nội dung chi tiết về Sự Thật Về Thuyết Tiến Hóa: Hình Vẽ Phôi Thai Giả Của Haeckel, Vụ Lừa Đảo Xuyên Thế Kỷ mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Ernst Haeckel là một nhà sinh học người Đức sống cùng thời với Darwin, và là tác giả của nhiều thuật ngữ sinh học nổi tiếng. Trong phần lớn sự nghiệp của mình, Haeckel giữ vị trí giáo sư ngành Giải phẫu so sánh tại trường Đại học Jena, Đức. “Học thuyết về sự lặp lại hình thái” (còn gọi là “Định luật phát sinh sinh vật”) được xây dựng dựa trên các hình vẽ phôi của Haeckel có ý nghĩa rất quan trọng đối với thuyết tiến hóa của Darwin. Haeckel là người đã giúp Darwin và các tác phẩm của ông trở nên nổi tiếng trên khắp nước Đức.
Quý độc giả lưu ý:
Loạt bài về thuyết tiến hóa trên Đại Kỷ Nguyên được phân thành 2 mục chính sau:
Sự thật về thuyết tiến hóa (trình bày các luận cứ chất vấn học thuyết Darwin)
Hệ lụy của thuyết tiến hóa (trình bày các ảnh hưởng có hại đối với xã hội của học thuyết Darwin)
Từ những hình vẽ phôi giả…
Năm 1868, Ernst Haeckel xuất bản cuốn Lịch sử sáng tạo tự nhiên (Natürliche Schöpfungsgeschichte), trong đó tuyên bố rằng ông đã tiến hành so sánh phôi người, phôi khỉ và phôi chó. Trong các hình do ông vẽ, các phôi gần như giống hệt nhau. Trên cơ sở các hình vẽ đó, Haeckel tuyên bố rằng các giống loài có một nguồn gốc (tổ tiên) chung.
Nhưng sự thực hoàn toàn khác hẳn. Ernst Haeckel thực ra chỉ vẽ hình của một phôi thai duy nhất, rồi dựa vào đó làm ra hình phôi người, phôi khỉ, và phôi chó. Ông đã thêm vào mỗi hình một chút thay đổi. Nói cách khác, đây là một vụ lừa đảo.
Trên thực tế, vụ bê bối này đã bị không ít người phát giác, ngay cả trước khi Darwin viết cuốn “Nguồn gốc loài người” (The Descent of Man), tức là trước năm 1871.
“Trò lừa đảo của Haeckel đã quá rõ ràng và quá lớn đến nỗi ông đã bị cáo buộc bởi 5 vị giáo sư khác nhau và bị phán có tội bởi tòa án trường Đại học Jena.”
– Hank Hanegraaff, trong “Điều mà những người theo trường phái tiến hóa không muốn bạn biết”, nhà xuất bản W Publishing Group, 2003, trang 70
“Sau lời thú tội ‘giả mạo’ đáng hổ thẹn này, tôi tự thấy bản thân đáng bị kết tội và tiêu hủy, nếu tôi không có được sự an ủi khi nhìn thấy bên cạnh hàng trăm đồng bị cáo cùng đứng trước vành móng ngựa, trong đó có nhiều nhà quan sát đáng tin cậy nhất và nhiều nhà sinh vật học được kính trọng nhất. Hầu hết các biểu đồ trong sách giáo khoa sinh học, luận án và tạp chí tốt nhất sẽ phải gánh chịu cùng một tội danh ‘giả mạo’ với mức độ tương đương, bởi tất cả chúng đều không chính xác, và không ít thì nhiều đã bị làm giả, giản lược và ngụy tạo” (Theo cuốn sách “Cái cổ của con hươu cao cổ: Chỗ sai của Darwin”, của Francis Hitching, nhà xuất bản Ticknor and Fields, New York, năm 1982, trang 204)
“Lời thú tội của Haeckel đã biến mất sau khi những hình vẽ của ông được sử dụng trong một cuốn sách in năm 1901 có tựa đề: “Darwin và hậu Darwin” và đã được phát hành rộng rãi trong tuyển tập các tư liệu sinh học bằng tiếng Anh” (Elizabeth Pennisi, bài viết “Những cái phôi của Haeckel: Tái phát hiện trò gian lận” trên tạp chí Science, ngày 5/9/1997)
… Cho đến “Định luật phát sinh sinh vật” bịa đặt
Ông ta vẽ sát cạnh nhau hình phôi của cá, kỳ giông, rùa, gà, thỏ và phôi người. Các phôi đó được vẽ hết sức giống nhau và chỉ dần dần cho thấy sự khác biệt trong các giai đoạn sau của quá trình phát triển. Đặc biệt, sự tương đồng giữa phôi người và phôi cá quả là rất ấn tượng, đến mức người ta có thể nhìn thấy cái “mang” trong hình vẽ phôi người, giống như ở hình vẽ phôi cá. Từ đó, Haeckel đưa ra “thuyết về sự lặp lại hình thái” (còn gọi là “định luật phát sinh sinh vật”), với nội dung cơ bản là: trong quá trình phát triển của phôi, tất cả các giống loài đều lặp đi lặp lại “lịch sử tiến hóa”. Lấy ví dụ, ông ta nói phôi thai con người trong tử cung của người mẹ, đầu tiên có khe mang giống như cá, và trong những tuần tiếp theo sẽ giống như bò sát, rồi giống thú, rồi cuối cùng mới “tiến hóa” thành người.
Bây giờ người ta đã biết rằng “những cái mang” xuất hiện trong giai đoạn đầu của phôi thai người, trên thực tế là ống tai giữa, tuyến cận giáp, và tuyến ức đang hình thành. Phần phôi thai trông giống “túi lòng đỏ trứng” là nơi sản xuất máu cho trẻ sơ sinh. Cái “đuôi” trên thực tế là xương sống, và nó trông giống như một cái đuôi chỉ vì nó được hình thành trước khi đôi chân xuất hiện.
Giáo sư bác sỹ Erich Blechschmidt là Giám đốc Viện Giải phẫu học trường Đại học Göttingen, Đức. Ông từng đưa ra kết luận thẳng thắn:
“Cái gọi là khe mang ở phôi người không có liên hệ gì đến mang, và phôi người không hề trải qua một giai đoạn sinh trưởng giống cá hay bất kỳ giai đoạn tiến hóa nào khác. Sự phát triển của phôi người cho thấy một tiến trình vững chắc hướng về một cơ thể người hoàn chỉnh với đầy đủ chức năng. Trong quá trình phát triển này phôi người sẽ không hấp thụ khí oxy từ nước giống như cá thông qua mang (bởi vì phôi người đã được cung cấp đầy đủ oxy thông qua dây rốn). Trên thực tế, những cái “khe mang” đó thậm chí không phải là khe [mà là các nếp gấp]”. (Bác sỹ Tommy Mitchell và bác sỹ Elizabeth Mitchell)
Ngay cả các nhà khoa học thuộc phái tiến hóa cũng phải thừa nhận rằng Haeckel đã lừa đảo. Năm 1976, nhà phôi học, sinh học và giải phẫu học người Anh, tiến sỹ William W. Ballard đã viết rằng “chỉ có nhờ các thủ đoạn ngữ nghĩa và cách chọn lọc bằng chứng mang đầy tính chủ quan”, bằng cách “bẻ cong những thực tế của tự nhiên”, thì người ta mới có thể lý luận rằng những giai đoạn đầu tiên của các động vật có xương sống là “tương đồng hơn so với các cá thể trưởng thành”.
Thực ra, giới khoa học đã biết Haeckel lừa đảo từ lâu, ngay cả những người theo phái tiến hóa cũng phải công nhận điều đó.
“Đây là một trong những vụ lừa đảo khoa học tồi tệ nhất. Thật sửng sốt khi phát hiện ra rằng một nhân vật từng được coi là một nhà khoa học vĩ đại lại chủ động lừa đảo. Điều đó làm tôi cảm thấy bức xúc… Điều ông ta [Haeckel] đã làm là lấy một cái phôi người rồi sao chép nó, giả vờ như kỳ giông, lợn và tất cả những loài động vật khác đều trông giống nhau ở cùng một giai đoạn sinh trưởng. Chúng không hề tương đồng… Những hình vẽ đó là ngụy tạo’. (Nigel Hawkes, The Times (London), ngày 11/8/1997, trang 14)
Giáo sư nổi tiếng Keith S. Thomson bày tỏ sự vui mừng khi thấy vụ lừa đảo của Haeckel được phơi bày:
Thế nhưng có vẻ Thomson đã quá lạc quan. Thực tế là, nhiều hình vẽ giả của Haeckel vẫn được giảng dạy trong các trường học, và được người ta xem như một “chân lý khoa học”…
Vụ lừa đảo xuyên thế kỷ: 150 năm
Vào tháng 3/2000, một người theo trường phái tiến hóa kiêm nhà cổ sinh vật học Stephen Jay Gould từ Đại học Harvard tuyên bố rằng từ lâu ông đã biết đây là trò gian lận. TS Gould nói rằng đây là một thảm họa trong khoa học khi các hình vẽ của Haeckel vẫn tiếp tục được sử dụng:
“Tôi nghĩ chúng ta có quyền cảm thấy kinh ngạc và xấu hổ vì hành vi tái sử dụng cái lý thuyết này một cách mất lý trí trong suốt cả thế kỷ, dẫn đến tình trạng các hình vẽ đó vẫn tồn tại dai dẳng trong một số lượng lớn, nếu không phải là đại đa số, các sách giáo khoa hiện đại”. (Stephen Jay Gould, “Thật tồi tệ!”, Natural History, tháng 3/2000, trang 42)
Giáo sư Gavin de Beer, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Vương quốc Anh, đã miêu tả cảm nghĩ của mình như sau:
“Hiếm khi có một sự quả quyết nào tương tự như cái ‘thuyết lặp lại hình thái’ của Haeckel: nông cạn, gọn gàng, hợp lý, được chấp nhận một cách rộng rãi mà không bị kiểm chứng kỹ càng. Nó đã gây rất nhiều tác hại cho khoa học”. (Hank Hanegraaff, “Điều mà những người theo trường phái tiến hóa không muốn bạn biết”. Nhà xuất bản W Publishing Group, năm 2003, trang 70)
Nhà sinh học phân tử thuộc Đại học California, tiến sỹ Jonathan Wells nhận xét:
Tại sao những hình vẽ giả mạo của Haeckel vẫn có thể tiếp tục lừa dối rất nhiều người, dù đã được phơi bày ra công chúng từ gần 150 năm trước? Thế giới khoa học đã xác nhận vụ bê bối của Haeckel, nhưng rất nhiều người vẫn giữ thái độ im lặng một cách kỳ lạ, đặc biệt là những người theo phái tiến hóa? Họ rủ nhau im lặng suốt 150 năm như vậy vì mục đích gì? Đây là những câu hỏi khiến chúng ta phải suy ngẫm.
Mặc dù “thuyết lặp lại hình thái” của Haeckel đã chính thức bị loại bỏ khỏi các sách giáo khoa, nhưng một lượng nhỏ các sách giáo khoa trên thế giới vẫn rao giảng nó. Các hình vẽ phôi bịa đặt của Haeckel – vốn là nền tảng của học thuyết đó – thì thậm chí vẫn tiếp tục được xuất bản đại trà.
“Ngày nay bổn phận của chúng ta là tiêu diệt sự hoang đường của thuyết tiến hóa, vốn bị xem như là một hiện tượng đơn giản, đã được hiểu thấu, đã được giải thích xong rồi… Sự lừa dối đôi lúc là vô tình, nhưng không phải luôn như vậy, vì một số người, do khuynh hướng bè phái của bản thân, đã chủ động phớt lờ thực tế và từ chối thừa nhận những thiếu sót và sai lầm trong các quan điểm của họ”. – Tiến sĩ Pierre-Paul Grasse, “Sự tiến hóa của các sinh vật sống”, Academic Press, New York, 1977, trang 8
Ngày càng có nhiều tiến sỹ khoa học, các nhà bác học, các viện sỹ viện hàn lâm khoa học và các nhà khoa học đạt giải Nobel… không còn tin vào thuyết tiến hóa. Đây là điều tất yếu, bởi tri thức khoa học của thế kỷ 21 đã phơi bày những sai lầm trong các quan điểm khoa học sơ khai của thời Darwin thế kỷ 19.
“Ngày càng có nhiều nhà khoa học đáng kính đang rời bỏ phái tiến hóa… hơn nữa, trong đa số các trường hợp, những chuyên gia này từ bỏ thuyết tiến hóa, không phải do niềm tin tôn giáo hay niềm tin vào kinh Thánh, mà dựa trên các nền tảng khoa học nghiêm túc. Trong một số trường hợp, họ đã từ bỏ phái tiến hóa trong tâm trạng đầy ân hận”. – TS Wolfgang Smith, nhà vật lý và toán học, trong “Teilhardism và Tôn giáo mới: Phân tích cẩn thận những lời dạy của Pierre Teilhard de Chardin”, Tan Books & Pub. Inc (Mỹ), 1988, trang 1
Bạch Vân tổng hợp
Tổng Hợp Về Phôi Thai Của Haeckel P4 – Về Cuốn Sách Của Johanathan Wells
Johnathan Wells: “Icons of Evolution – Những biểu tượng của tiến hóa”
Chợt tôi nhớ về một bài viết tên: 9 mánh lưu manh của Vichoco trên diễn đàn lichsuvn.info
Tự nghĩ thấy thay Vichoco bằng “người chống tiến hóa” (NCTH) thì cũng ổn lắm!
“
5/ Mánh thứ năm : Tiền đề áp đặt
Ví dụ một số tiền đề sai bét bèn bẹt nhưng NCTH áp đặt mặc nhiên bất cần lý lẽ :”
_Thuyết TH trong nay mai sẽ bị bác bỏ.
_Phôi thai Haeckel là giả 100%.
_Cộng đồng KH chưa bao giờ nghi ngờ Piltdown man cho đến khi nó bị lật tẩy.
_Thuyết TH là vô thần/Cộng Sản.
…”
Mà cứ nhìn các nguồn trong bài báo của tờ tin180 thì biết 😉 chúng tôi một trang chống TH, cứ vào đi, sẽ thấy nó trưng biểu tượng của các bạn hữu: http://www.intelligentdesign.org/
(thiết kế thông minh 😉 )
, IDEA (
Intelligent Design and Evolution Awareness )
center ; “Những sai lầm chết người “điều mà những người theo thuyết tiến hóa không muốn bạn biết”, “Cuộc chiến lâu dài chống lại Thần” (ấy, nguyên văn nó là “The Long War Against God”, ai cũng biết chữ god viết thường là “thần” nói chung nhưng chữ god viết hoa đầu God là danh từ riêng Chúa Trời của Do Thái – Ki-tô giáo. Dù được trình bày cả cái tựa đều viết hoa đầu, nhưng trong văn phạm tiếng Anh nếu ý là “thần” thì phải là against a god hay against the gods. Vì thế chỗ này phải dịch là “Cuộc chiến lâu dài chống lại Chúa Trời”, niềm tin Ki-tô giáo, mong muốn bảo vệ va trò sáng tạo của Chúa Trời chính là nền tảng của phong trào Sáng tạo luận chống TH ở Mỹ) Henry Morris chính là cha đẻ của thuyết Thiết kế thông minh (Rằng vạn vật được thiết kế ra bởi một thế lực có tư duy nào đó, dễ thấy đây chỉ là Sáng Tạo Luận sơn phết lại cho bớt màu sắc tôn giáo…); và cuốn sách “Icons of Evolution – những biểu tượng tiến hóa” của Wells
Cả chương sách của Wells đã đặt cái tiền đề “Phôi thai Haeckel là giả 100%” như thể đúng rồi và sau đó bắt đầu cáo buộc các nhà viết SGK tội thông đồng cấu kết. Nhưng trong bài trước tôi đã nói, các hình vẽ của Haeckel tuy không chính xác nhưng không phải lừa đảo, vì thế ngay cả khi các SGK có đăng lại thì cũng không có phải tội đáng muôn chết – chỉ là chuyện dùng tư liệu lỗi thời, nhưng thật ra thì các SGK đã làm tốt hơn thế. Trong khuôn khổ bài viết chỉ xin bàn về các SGK được đề cập trong sách của Wells ở Mỹ.
Ernst Haeckel và sinh học so sánh:
Có lẽ ông cũng nổi tiếng, và cũng bị hiểu sai nhiều như thế, vì những nghiên cứu phôi học và lời tuyên bố rằng “sự phát sinh cá thể lặp lại sự phát sinh loài”, gọi là Định luật sinh-di truyền (Biogenetic Law, hay ở Việt Nam SGK gọi là định luật phát sinh sinh vật). Haekel tán thành quan điểm rằng nói chung TH diễn ra bằng cách đặt một sự tiến bộ mới lên trên cái cũ, như thêm các lớp bánh. Vì thế phôi thai của một sinh vật “cao cấp” sẽ trải qua (tái hiện) các giai đoạn trưởng thành của các dạng “sơ khai” hơn khi nó phát triển. Tuy nhiên, các quan sát lặp đi lặp lại về quá trình phát triển của những người khác như Wilhelm His, Walter Garstang, Wilhelm Roux, Adam Sedgwick, Gavin de Beer, v.v; xem
Gilbert ed. 1991
, hay
Gould 1977
để biết cụ thế) rõ ràng cho thấy các phôi thai không trải qua các giai đoạn
trưởng thành
của các dạng thấp hơn; mà, chúng có nhiều đặc điểm chung trong quá trình phát triển. Đã nhiều thập kỉ nay không nhà sinh học nào chấp nhận Định luật sinh-di truyền. Nhiều trong số các công trình về quá trình của Haeckel đã không còn hiệu lực. Những hình vẽ của Haeckel đã bị nhiều nhà khoa học đưa ra các lí lẽ có lí để lên án là bị làm lệch lạc để phù hợp với các quan điểm có sẵn của ông.
Bất chấp độ chính xác hay các định kiến của Haeckel, phôi học so sánh vẫn tiếp tục là trung tâm hiểu biết của chúng ta về TH. Phôi học so sánh cho thấy các cấu trúctrưởng thành khác nhau của nhiều loài động vật cóchung những tiền thân ở giai đoạn phôi. Các đặc điểm phát triển chung này cho thấy động vật có tổ tiên chung. Phôi học so sánh sâu hơn còn cho thấy những động vật gẫn gũi thực hiện một sự nhất quán trong hướng phát triển, đặc biệt ở những giai đoạn sớm, và có chung nhiều đặc điểm phát triển hơn những sinh vật xa nhau. Việc một số cấu trúc phôi thai như các túi hầu tồn tại ở tất cả các phôi động vật có xương sống nhưng lại phát triển thành các cấu trúc trưởng thành rất khác nhau cho thấy chúng cùng chung một tổ tiên mà phôi của nó có túi hầu (ít nhất là ở một giai đoạn phát triển nào đó). Theo cách này, những nét giống trong quá trình phát triển được kế thừa từ một tổ tiên chung là tương đồng, y như các xương trong các chi trưởng thành.
Về Johnathan Wells
Vậy việc nhà sinh học Wells chống TH không phải do một sự khám phá bất ngờ là một kế hoạch định sẵn. Nếu đặt vào cùng tiêu chuẩn gọi là lừa đảo như với Haekel thì đúng, Wells đã lừa đảo ngay trong những trang đầu tiên trong sách. Từ đó theo logic của Wells ta suy ra tất cả những người theo STL có từng trích Wells đều lừa đảo và bản thân STL cũng là lừa đảo? Viết cho bạn đọc coi chơi chứ quá khứ của Wells chẳng có nghĩa lí gì trong vấn đề Haekel hay TH cả, vì không như ngụy KH, KH chân chính xem xét bằng chứng và lí lẽ mà thôi, cùng xem các luận cứ của Wells.
Các lập luận của Wells:
“
Darwin đã viết trong Về nguồn gốc của các loài rằng GS. Haekel “đã mang kiến thức và năng lực to lớn của mình để đóng góp vào cái ông gọi là ‘phát sinh loài’, hay các dòng dõi di truyền của mọi sinh vật. Trong quá trình vẽ ra nhiều chuỗi ông đã tin dùng chủ yếu các đặc điểm giai đoạn phôi.’ ” (i)
Về mặt lịch sử, Wells chủ động phớt lờ những công trình có giá trị của nhiều người đi trước & cùng thời với Haeckel như William and Jeffrey Parker, Hans Gadow, Hans Selenka, Heinrich Rathke, Virgil Leighton, Hugo Schauinsland, Alfred Voeltzkow… ), ở TK 19 không chỉ có Haeckel hay von Baer là nhà phôi học, nhưng đọc sách Wells bạn sẽ không biết được điều đó đâu. Ông cũng không nhận ra gần 60 năm (còn đang tăng) thành tựu trong sinh học về quá trình phát triển và vì thế lờ tịt tất cả những bằng chứng tiến hóa từ ngành này. Gần như là mục tiêu của Wells là hạ uy tín toàn bộ ngành sinh học so sánh bằng cách ủy nhiệm, sử dụng chiêu treo đầu Haeckel bán thịt Darwin. Ý đồ của Wells làm ta liên tưởng đến kiểu logic trẻ con thế này: Haeckel có một công trình giả mạo trong sinh học so sánh, vì thế toàn bộ sinh học so sánh đều không đáng tin cậy; Darwin dựa trên Haeckel, Haekel lừa đảo, vì thế Darwin là kẻ lừa đảo.
Karl Ernst von Baer – Nhà phôi học nổi tiếng người Đức
Dù Darwin không dùng của Haeckel, ông có dùng von Baer. Nhận ra việc này, Wells liền cáo buộc Darwin “dùng sai” các công trình của von Baer, bóp méo dữ liệu cho phù hợp với quan điểm của ông. Nhưng Darwin không làm thế. Wells nói các luật phôi học của von Baer không phù hợp với các kết luận của Darwin, nhưng không phải thế. Có lẽ Von Baer sẽ không đồng tình với Darwin về các kết luận, nhưng những qui luật của ông thì không cấm việc quá trình phát triển có thể làm sáng tỏ nguồn gốc chung. Darwin đi tới một kết luận khác từ cùng một bộ phận bằng chứng – đây không phải là “bóp méo”. Darwin suy ra một lí luận qui nạp chung và tìm các dữ liệu có khả năng kiểm tra tuyên bố về tổ tiên chung. Nói đây là “dùng sai” thì Alfred Wegener cũng đã dùng sai các dữ liệu trong môn địa chất sẵn có khi ông dám xem xét chúng dưới thuyết trôi dạt lục địa (mobile continents). Thuyết mới luôn dùng dữ liệu cũ. Chẳng lẽ theo Wells sinh học tiến hóa không được dùng bất cứ nghiên cứu nào trước 1859?
2. Cố tình nhập nhằng “lặp lại hình thái” và “Tương đồng trong phát triển”:
Wells cũng gộp “lặp lại hình thái” – rằng phôi trải qua những giai đoạn trưởng thành của tổ tiên – với việc các đặc điểm chung của phôi cho biết thông tin về quan hệ trong hệ thống sinh của chúng. Việc không phân biệt 2 điều này giúp Wells có thể không phải đối mặt với những bằng chứng thực thụ về các điểm tương đồng trong quá trình phát triển của nhiều phôi. Chính đây là quan điểm chủ đạo trong chương này của sách Biểu tượng : Darwin & toàn thể NTTH ngày nay đều truyền bá “định luật phát sinh sinh vật – lặp lại hình thái”. Thực ra cái “lặp lại” mà các nhà phôi học hậu-Haeckel (VD như Frank Lillie) mà Wells đã dẫn cũng như các nhà phôi học đương đại chấp nhận là: Một bố phần trong chuỗi phát triển (và một số đặc điểm cụ thể của chúng) ở những động vật gần gũi có nhiều nét chung đặc biệt (về khuôn mẫu, thứ tự, vị trí v.v của các đặc điểm) với nhau hơn là với những sinh vật có quan hệ xa hơn. Nhưng Wells cứ làm như họ nghĩ y chang Haeckel. Đáng ra Wells – có bằng tiến sĩ sinh học tế bào & phát triển – phải hiểu biết nhiều hơn thế.
_Wells tấn công Darwin và các nhà phôi thai học thế kỷ 19 vì nói những giai đoạn “sớm nhất” trong quá trình phát triển tương tự nhau trong khi chúng không tương tự. Ờ Wells nói ĐÚNG đấy.
Bức hình đơn giản từ
Nature
này cho thấy sự khác nhau giữa lần lượt từ trái sang phải: ếch (đại diện cho lưỡng cư), cá, gà (đại diện cho chim, và có thể là cả bò sát nữa) và chuột (thú có vú). Lí do chủ yếu vì lượng yolk – noãn hoàn hay bình dân gọi là lòng đỏ của các động vật có xương sống khác nhau. Ta có thể thấy “điểm xuất phát của chuột” quá khiêm tốn so với những con khác – tế bào sinh dục của thú có vú nói chung rất nhỏ vì chúng không phải mang theo lượng dưỡng chất lớn cho phôi do sự nuôi dưỡng liên tục của mẹ – điều mà những con vật kia không có. Vì lòng đỏ không phân chia cùng với các tế bào trong trứng, vì thế sự phân bào của chúng phải khác nhau. Wells viết:
“
Nếu áp dụng thuyết Darwin vào sự phát triển sớm của động vật có xương sống mà đúng thì ta sẽ trông mong 5 lớp này giống nhau nhất khi mới là trứng đã thụ tinh; những khác biệt nhỏ sẽ xuất hiện trong quá trình phân bào, và các lớp sẽ khác nhau hơn nữa vào giai đoạn phôi vị” (Wells 2000:96).(ii)
Nhưng Darwin không hề đòi hỏi điều đó. Nhà sinh học – GS. Jerry Coyne nhận xét trên tờ Nature:
“
Chính Darwin nhận thấy rằng các phôi phải thích nghi với những điều kiện sống của chúng, và những giai đoạn đầu của các phôi động vật có xương sống cho thấy sự thích nghi với lượng noãn hoàng khác nhau trong trứng của chúng.” (iii)
“Sớm nhất” là Wells nói chứ không phải Darwin. Cả cuốn Nguồn gốc từ ‘sớm nhất’ chỉ xuất hiện duy nhất một lần và đó là Darwin dẫn lời von Baer. Wells cũng như nhiều học giả khác đã lẫn lộn giữa ý kiến cá nhân và trích dẫn từ người khác của Darwin. Nhưng thực ra ý Darwin không quan trọng. Cũng như phôi học hiện đại không dựa vào Haeckel, SHTH hiện đại cũng không sống chết với Darwin. Cũng cần phải biết về vấn đề thuật ngữ các nhà nghiên cứu KH thế kỉ 19. Khi đó các sinh vật đang phát triển không được coi là phôi đến khi đạt giai đoạn mầm đuôi (phylotypic) – đã có dáng vóc cơ thể. Trước đó, chúng là “trứng đang phát triển – developing ovum”. Nghĩa là ý Haeckel, von Baer và những người khác khi nói “phôi giai đoạn sớm”, ý họ không giống sự suy diễn bằng các định nghĩa hiện đại của Wells.
“
Với Tiếng Anh hiện đại, chữ “embryo – phôi” bao gồm cả những giai đoạn sớm nhất. Nhưng theo truyền thống KH của Đức, chủ yếu được thiết lập bởi von Baer, thì chữ phôi được giới hạn lại là một cơ thể chưa phát triển đầy đủ hay các giai đoạn sau (“embryo proper” – phôi hoàn thiện trong tiếng Anh). Điều này rất rõ trong các nhận xét của von Baer, VD “Mầm [“kleim”, đĩa phôi] trong quá trình phát triển của nó biến hóa thành 2 phần […] phần giữa hình thành phôi, còn phần lớn hơn nhiều bên ngoài thành Keimhaut [bì ngoài phôi]”
In present English usage, the term “embryo” includes even the earliest stages. The German tradition, however, largely established by von Baer, restricts the term “embryo” to the basic rudiment of the body or its later stages (the “embryo proper” in English usage). This is evident from many remarks by von Baer, for instance: “The germ [“Keim”, blastodisc] during its growth transforms into two parts; [… ] the middle forms the embryo, the much wider periphery the Keimhaut [extraembryonic blastoderm]” (von Baer, 1828, p.44).
Klaus Sander and Urs Schmidt-Ott, 2004. “Evo-Devo aspects of classical and molecular data in a historical perspective,” J. Exp. Zool. (Mol. Dev. Evo) 302B:69–91.
Từ tiền đề “sớm nhất” này Wells đã lệch hướng từ đó trở về sau, cất công soạn ra một loạt phát biểu của các nhà phôi học về việc không thể nào có chuyện giống nhau ở giai đoạn sớm nhất từ khi thụ tinh đến phôi vị chỉ để cuối cùng không trúng đâu hết vì 2 cái “sớm nhất” này không giống nhau.
Wells ‘tức giùm’ cho von Baer khi mà các sách cứ trưng hình của Haekel rồi bảo “hình vẽ này minh họa cho qui luật của von Baer” coi đây là một sự ‘sỉ nhục’ một nhà sinh học ‘thực thụ’ như ông – người chưa bao giờ chấp nhận thuyết tiến hóa xấu xa và đây lại là một chiêu lừa HS khác. Nhưng định luật của Haekel là “phát sinh cá thể lặp lại phát sinh loài” tức là theo đó phôi người trong quá trình phát triển sẽ đi theo đúng lịch sử tiến hóa: đầu tiên giống con cá, sau đó giống lưỡng cư rồi sau đó giống bò sát… 4 định luật von Baer tóm tắt như sau: sự phát triển của một sinh vật đi từ cái chung tới cái riêng và các phôi thuộc các lớp khác nhau trông rất giống nhau trong các giai đoạn sớm hơn nhưng trong quá trình phát triển càng về sau càng phân hóa ( theo từ điển Merriam-Webster ). Độc giả thân mến không cần bằng tiến sĩ sinh học chắc cũng thấy đúng là cái hình vẽ ‘tội đáng muôn chết’ kia dùng minh họa cho von Baer thì hoàn toàn hợp lí hơn là “phát sinh cá thể lặp lại phát sinh loài” nhỉ?
(Henry M. Morris, “Cuộc chiến lâu dài chống lại Thần”, Nhà xuất bản Master Books, 2000, trang 32)
Thật đáng kinh ngạc thay, những người theo phái tiến hóa vẫn phớt lờ sự thật và tiếp tục sử dụng những hình vẽ giả mạo của Heackel làm bằng chứng cho “sự tiến hóa”, vẫn duy trì chỗ đứng của chúng trong nhiều sách giáo khoa khác nhau. “
Lạ thay, trích dẫn câu trên rồi trích thêm câu này câu này: (Keith S. Thomson, “Vòng đời của cá thể sinh vật và sự phát sinh loài,” đăng trên báo American Scientist, tập 76, tháng 5 và tháng 6 năm 1988, trang 273)
Tức tác giả biết Thuyết lặp lại hình thái đã RIP (an nghỉ vĩnh hằng) mà đồng thời tác giả lại cứ làm như là vẫn còn đang được dạy và công nhận trong các SGK!
3. Dã tâm tập thể của các “tín đồ (!?) tiến hóa” ?
Pictures of Evolution and Charges of Fraud – Ernst Haeckel’s Embryological Illustrations của Nick Hopwood phần nào cho ta thấy không phải cứ muốn vẽ phôi là vẽ, đặc biệt ở thế kỉ 19 về trước:
Thật ra tôi nghĩ cái nguyên nhân khiến các nhà xuất bản dùng lại tranh của Haeckel chẳng có gì sâu xa thâm độc như các bạn nghĩ, chẳng qua vì …kinh tế. Sách để giáo dục là chính nhưng NXB cũng phải có lời nhiều. Bây giờ muốn vẽ con heo con bò thì cứ nhớ trong đầu rồi vẽ ra cũng được nhưng minh họa sách khoa học thật là khổ: phải tìm họa sĩ không những vẽ giỏi mà có kiến thức sinh tương đối tốt, trả tiền một khoản lớn để thuê anh ta, tìm mẫu vật, sử dụng các thiết bị chuyên dụng, tham khảo ý kiến chuyên môn… một đoạn trong bài viết của Nick Hopwood phần nào cho ta thấy không phải cứ muốn vẽ phôi là vẽ, đặc biệt ở thế kỉ 19 về trước:
“
Ngành phôi học sắp xếp các đối tượng thành các chuỗi trình tự phát triển. Cá thể, thường khó kiếm ở những giai đoạn mong muốn, được thu thập và bố trí thành các phôi. Những đối tượng nhỏ xíu này được chuyển hóa qua một loạt các thao tác giải phẫu, hiển vi và thẩm mỹ thành những hình ảnh rõ ràng mà loại đắt tiền nhất có thể truyền tải được cái sự tinh tế, mềm mại mờ ảo của chất sống. Những thao tác này cô lập phôi khỏi môi trường, cả liên kết với cơ thể mẹ. Những hình và mẫu thu được được sắp xếp theo trình tự phát triển, các đại diện bình thường được chọn và chuỗi được xuất bản hay trưng bày. Chuyện này tuyệt đối không hề dễ dàng ngay cả với con gà, “thân trâu ngựa” trong nghiên cứu phôi; với các phôi người sớm mà các nhà giải phẫu chủ yếu lấy từ các ca phá thai (ngày xưa ca sớm nhất là ~ 2 tuần tuổi) thì phải nói là cực kì khó. Tìm ra mối liên hệ giữa các chuỗi còn khó hơn thế nữa!” (iv)
Sẵn có tranh của Haeckel (1866) xuất bản trước 1923 nên giờ đã trở thành “của chung” (public domain) theo luật bản quyền mà các NXB có thể xài mà không cần trả đồng nào hết thì những nhà tư bản đứng đầu các NXB sẽ làm gì và đã làm gì thì bà con thấy rồi đấy 😦 .
Và chúng ta cũng nên nhớ AI mới là người “phanh phui” vụ Haeckel? Không phải là người theo STL hay NCTH; mà là Richardson, là Gould – những nhà sinh học thực thụ, những “tín đồ” tiến hóa. Gould là một trong những người chỉ trích Haeckel kịch liệt nhất nhưng lại cũng là một trong những nhà sinh học tiến hóa tiêu biểu nhất, người ra sức bảo vệ tiến hóa nhất trong TK 20. Sao lại có hành động mâu thuẫn đó nhỉ? Câu trả lời là hành động đó không có gì mâu thuẫn, đó chỉ là hoạt động khoa học. KH là quá trình tìm hiểu cái mới song song không ngừng kiểm tra và thử thách cái cũ. KH có cái bản chất rất… khoa học 😉 là tự sửa lỗi (self-correcting nature), tất cả những kiến thức bây giờ ta đã biết là không đúng từng được KH chấp nhận đều bị đạp đổ bởi chính KH. KH là cái khoảnh khắc vui buồn lẫn lộn trước…
“
Cái bi kịch vĩ đại của Khoa học – việc khai tử thương tâm một giả thiết đẹp đẽ vì một sự thật đáng ghét” – “The great tragedy of Science – the slaying of a beautiful hypothesis by an ugly fact.”
— Thomas Henry Huxley
Wells cũng tố cáo Haeckel và ngành phôi học so sánh cố tình chọn những con vật trông giống nhau nhất. Ông phê bình Haeckel sao lại không chọn những con vật như thú đơn huyệt để minh họa. Nhưng các giai đoạn phát triển của thú đơn huyệt chưa được biết tới vào năm 1866 mà phải mãi đến tận 1884. Cũng chính từ những điểm tương đồng trong quá trình phát triển của thú đơn huyệt có với thú có túi mà Caldwell kết luận chúng là thú có vú (
Caldwell 1887
). Vào thế kỉ 19 hầu hết các mẫu vật thú lạ được đưa đến các nhà nghiên cứu trong tình trạng đã phân hủy. Haeckel có thiên vị không? Có, và tất cả những nhà phôi học ngày ấy đều thế, họ sẽ chọn những con vật: sẵn có nhất, cỡ nhỏ, lứa to, mau thành dục, sinh sản nhanh, có khả năng phát triển trong phòng thí nghiệm nhiều đời (
Bolker, 1995
) chứ không phải để “chống đỡ tiến hóa” như Wells ngụ ý. Chính Wells cũng chọn những sinh vật mẫu ở phần sau của chương và không chỉ ra trình tự phát triển của bất kỳ loài nào mà ông phê bình rằng những người khác không đề cập. Vì sao? Bởi vì ông ta không có bằng chứng cho khẳng định rằng các nhà phôi học sàng lọc dữ liệu để giấu giếm gì đó. Việc các nhà phôi học thường trình bày, ít nhất trong SGK, những trình tự phát triển có dữ liệu căn cứ tốt nhất thì có gì mâu thuẫn với việc những phân loại gần gũi có thể, và đúng là có, nhiều điểm tương đồng trong quá trình phát triển hơn những loài xa?
Tóm lại là Wells thấy có 3 điểm “lừa đảo” trong các hình vẽ Haekel:
“
(1) Chỉ bao gồm những lớp và bộ hợp với thuyết của Haekel nhất
–
ở đoạn trên
; (2) Bóp méo hình ảnh phôi –
có hay không thì tôi đã trình bày trong phần 1,2,3 của chùm bài đặc biệt dài này
; (3)Nghiêm trong nhất là, hoàn toàn phớt lờ những giai đoạn sớm hơn mà các động vật có sương sống trông rất khác nhau. (vi)
20 hình trong
Anthropogenie
Và chính Wells đang tố cáo Haeckel “chơi chiêu” “chọn lọc hình ảnh” “Thổi phồng sự thật”!
Mổ xẻ các SGK
1 . Sự giống nhau trong phát triển phôi Phôi của các động vật có xương sống thuộc những lớp khác nhau, trong những giai đoạn phát triển đầu tiên đều giống nhau về hình dạng chung cũng như quá trình phát sinh các cơ quan. Chỉ trong những giai đoạn phát triển về sau mới dần dần xuất hiện những đặc điểm đặc trưng cho mỗi lớp, tiếp đó là những đặc điểm của bộ, họ, chi (giống), loài và cuối cùng là cá thể. (Lưu ý là SGK chỉ bảo là giống nhau về hình dạng chung và quá trình phát sinh các cơ quan thôi) Hình 32.2. Sự phát triển phôi của một số loài động vật có xương sống (là hình vẽ, và đúng là vẽ phôi ở giai đoạn đầu giống giống nhau như hình của Haeckel, nhưng cũng chỉ giống ở chỗ là đều cong cong thôi chứ không vẽ kĩ như hình của Haeckel)
[…]
Sự giống nhau trong phát triển phôi của các loài thuộc các nhóm phân loại khác nhau là một bằng chứng về nguồn gốc chung của chúng. Những đặc điểm giống nhau đó càng nhiều và càng kéo dài trong những giai đoạn phát triển muộn của phôi chứng tỏ quan hệ họ hàng càng gần.
2. Định luật phát sinh sinh vật: Đacuyn đã nhận xét: Trong quá trình phát triển phôi, mỗi loài đều diễn lại tất cả những giai đoạn chính mà loài đó đã trải qua trong lịch sử phát triển của nó. Dựa trên nhận xét này và một số công trình nghiên cứu khác, hai nhà khoa học Đức là Muylơ (Muller) và Hêcken (Haeckel) đã phát biểu định luật phát sinh sinh vật (1886): “Sự phát triển cá thể phản ánh một cách rút gọn sự phát triển của loài”.
Phôi người đến 18 – 20 ngày tuổi vẫn còn dấu vết các khe mang ở phần cổ giống như cá sụn; tim lúc đầu chỉ có một tâm thất, một tâm nhĩ như ở cá, sau đó tâm nhĩ chia làm 2 giống như ở ếch nhái, cuối cùng mới thành tim 4 ngăn giống như chim và thú. (Cái này thì đúng đây) […] […] Tuy nhiên, không nên hiểu là sự phát sinh cá thể lặp lại đúng trình tự các giai đoạn trong lịch sử phát triển chủng loại một cách cứng nhắc.(<= bị quăng gạch nhiều như SGK VN ta mà còn nói là không đúng tuyệt đối mà 😀 – EvoLit)
Trích:
“Ví dụ, những năm đầu tiên của phôi thai người không bao giờ có mang có chức năng như một con cá, và không bao giờ trải qua các giai đoạn nào trông giống như một loài bò sát trưởng thành hoặc là một con khỉ”. – (Elizabeth Pennisi, bài báo “Những cái phôi của Haeckel: Trò gian lận đã bị phát hiện lần nữa”, đăng trên tờ báo Science, 5 tháng 9 năm 1997)”
Trong giai đoạn về sau, ở cá và ấu trùng lưỡng cư, các khe mang biến thành mang, còn ở phôi các động vật có xương sống ở cạn thì khe mang tiêu biến. Phôi các động vật có xương sống đều trải qua giai đoạn có dây sống, về sau dây sống biến thành cột sống sụn rồi cột sống xương. Trong khi phôi ở cá xuất hiện các vây bơi thì ở thằn lằn, thỏ, người lại xuất hiện các chi năm ngón. Đặc biệt, ở phôi người, phần hộp sọ chứa bộ não rất phát triển còn đuôi thì tiêu biến. (À, phần “đuôi” còn sót lại của chúng ta chính là phần xương cụt đó )
Còn về phần giải thích cho sự tiến hóa của sinh giới, SGK dựa trên các bằng chứng về giải phẫu và phôi sinh học so sánh, bằng chứng địa lí sinh học, bằng chứng tế bào học và sinh học phân tử. Vậy nên theo em nghĩ SGK cũng không sai lệch bao nhiêu (thật ra quyển sinh nâng cao này còn bị phàn nàn về nhiều lỗi lắm). Hình vẽ thì đúng là sách của ta vẫn đưa vào, nhưng do họa sĩ ta vẽ lại, không đến nỗi giống quá nhiều như hình gốc.
*Về các sách Mỹ:
Bảng chấm điểm “được nghiên cứu kỹ” của Wells:
Wells thiết kế hẳn 1 hệ thống chấm điểm cho các SGK, không chỉ riêng về Haeckel mà còn những biểu tượng khác. Nhưng hệ thống này thất bại vì Wells cho rằng tất cả những hình vẽ đều là vẽ lại và bất cứ sách nào có 1 hình vẽ lại đều ăn điểm F (hình dưới). Wells không giải thích thế nào mới gọi là ‘đơn thuần vẽ lại’ của Haeckel. Sử dụng hình ảnh chính xác hơn chỉ thu về được 1 điểm D. Muốn được C hay hơn, cuốn sách KHÔNG được dùng ‘ những tranh vẽ hay
ảnh chụp
dễ gây hiểu lầm’ Điều này nghĩa là than phiền rằng SGK không nên để bị gây hiểu lầm bởi thực tế! Wells không nói tranh vẽ hay ảnh chụp như thế nào mới gọi là
không
gây hiểu lầm. Hay Wells nghĩ rằng
tất cả
những trình diễn hình ảnh về phôi đều là gây hiểu lầm, dù chúng có đúng hay không? Ông công kích
Mader
và
Campbell, Reese, & Mitchell
, vì dùng “ảnh chụp gây hiểu lầm” & lặp lại trò lừa số 1 của Haekel, bởi vì chúng cho thấy phôi của một con thú có vú (heongười) và một con gà, mà theo ông là “ ‘tình cờ’ trông giống thú có vú hơn bất cứ lớp nào động vật có xương sống nào khác vào giai đoạn đó –
just happens to look more like a mammal than any other class of vertebrate at that stage
(
Wells 2000
:104)” Sai: Ở giai đoạn đó phôi gà sẽ giống cá sấu hơn là thú có vú (sự so sánh này được đưa ra bởi
Nelson 1953
,
Schaunislaund 1903
, và
Reese, 1915). Điều này phù hợp với những dự đoán của thuyết tiến hóa, bởi vì cá sấu và gà có tổ tiên chung gần với nhau hơn gần với thú có vú, và vì thế nên có chu trình phát triển tương tự hơn. Wells cũng khiển trách Mader vì đã viết rằng các phôi “có nhiều điểm chung”
“have many features in common” (
Wells 2000
:103-104). Vậy ý Wells là chúng
không
có điểm chung nào sao? Nếu thế, ông ấy nên dẫn chứng điều đó. Vì không làm được điều này, Wells cứ gán cho bất cứ thứ gì ông ấy không thích là ‘gây hiểu lầm’.
Wells cũng đặc biệt không vui vì chữ “khe mang” – là thuật ngữ không chuyên để chỉ các túi hầu (pharyngeal pouches). Wells ngụ ý là khi dùng chữ này thì các sinh học và SGK đang nói rằng tất cả phôi động vật đều có “mang”. Điều này sai, thậm chí không có cuốn nào ngụ ý về sự hiện diện của mang trong phôi cả. Wells cố khẳng định rằng “Cách duy nhất để thấy cấu trúc ‘giống mang’ ở người là nhồi tiến hóa vào quá trình phát triển – The only way to see ‘gill-like’ structures in human embryos is to read evolution into development”. Nhưng chính Wells cũng nói chúng chỉ giống mang ở chỗ tạo nên những mẫu vạch giống nhau ở vùng cổ– đó không phải là ướm trước tiến hóa, đó là một lí do chính đáng để gọi là “khe mang”! Dĩ nhiên là sau đó ta phải hỏi xem vì sao phôi người cũng như tất cả động vật có xương sống lại có cấu trúc như vậy và chính cái điểm chung này là bằng chứng tiến hóa chứ không phải tên gọi. Tuy nhiên dùng từ “khe mang” sẽ ngay lập tức ăn điểm C dù cho sách không chứa hình nào hết và cũng không cần biết nội dung. Campbell, Reese, & Mitchell và Guttman đều dành cả chương dành để nói về sinh học phát triển trong đó họ có nói về “những khác biệt giai đoạn sớm” mà Wells ngụ ý họ không làm. Họ không được thêm điểm nào hết vì những cách xử lý vấn đề trên.
Figure 11
Book
Phôi học
#trang
#t
ừ
Cách thể hiện phôi
Điểm
Schraer, W. D. and H. J. Stolze. 1999. Biology: The Study of Life, seventh edition. Prentice-Hall, Upper Saddle River, NJ. 944p.
1/4
108
Vẽ lại (có s
ửa chữa
)
F
Johnson, G. B. 1998. Biology: Visualizing Life. Holt, Rinehart & Winston, Orlando. 895p.
1/4
78
Vẽ
F
Biggs, A., C. Kapinka, and L. Lundgren. 1998. Dynamics of life. Glencoe/McGraw Hill, Westerville, OH. 1119p.
1/2
96
Vẽ
F
Miller, K. R. and J. Levine. 2000. Biology, fifth edition. Prentice-Hall, Upper Saddle River, NJ. 1114p.
1
324
Vẽ
F
1/2
282
Vẽ lại
F
Guttman, B. S. 1999. Biology. WCB/McGraw-Hill, Boston. 1175p.
1/2 +1
265
Haeckel/ Vẽ /ảnh
F1
Mader, S. 1998. Biology, sixth edition. WCB/McGraw-Hill, Boston. 944p.
1/4 +1/3
109 +86
Ảnh/ Vẽ
D2
Raven, P. H. and G. B. Johnson. 1999. Biology, fifth edition. WCB/McGraw-Hill Boston. 1284p.
1/4 +1/3 +1/2
83 +170 +271
Ảnh/
Vẽ /
Vẽ lại
F
Cambpell, N. A., J. B. Reese, and M. G. Mitchell. 1999. Biology,fifth edition. Benjamin Cummings, Menlo Park, CA. 1175p.
3/4 +3
247 +3
Ảnh/ Vẽ
D3
Futuyma, D. 1998. Evolutionary Biology. Sinauer Associates, Sunderland, MA. 761p.
26
(1.5)4
5614
Haeckel (trong hoàn cảnh cụ thể)
F5
1. Guttman dành hẳn 2 chương để nói về quá trình phát triển. Thêm một phần bàn luận thấu đáo và cập nhật (Ch 20, 21 tr. 397-441) về những “những khác biệt giai đoạn sớm” mà Wells điểm của Wells gây cảm giác là nó không làm.
2. Mader dùng thuật ngữ “túi hầu” thay vì cái từ “khe mang” báng bổ nhưng bảng điểm không có đường nào để tính điểm tốt này vào.
3. Sách này còn có hẳn 1 chương để nói về quá trình phát triển (Ch 47 tr.936-960) và bàn về về những “những khác biệt giai đoạn sớm” mà Wells điểm của Wells gây cảm giác là nó không làm.
4. Futuyma dành hẳn 1 chương để nói về quá trình phát triển & tiến hóa (Ch 23 tr 651-676) trong đó 1.5 trang dành riêng Haeckel.
5. Futuyma chỉ dùng hình vẽ Haeckel trong bối cảnh lịch sử. Nó cũng nói rõ “khe mang” hay “cung” không phát triển thành mang, và chúng chẳng có gì tiến gần hơn tới mang trong quá trình phát triển. Bảng điểm của Wells không có cách nào để đưa những vấn đề về ngữ cảnh này vào.
Ẩn/Hiện nội dung
Tham khảo
http://www.thienvanhoc.org/forum/showthread.php?t=6798
http://ncse.com/book/export/html/2320
http://www.antievolution.org/topics/law/ar_hb2548/Haeckels_embryos.htm
Trích dẫn (i)
“Darwin wrote in The Origin of Species that Professor Haeckel «brought his great knowledge and abilities to bear on what he calls phylogeny, or the lines of descent of all organic beings. In drawing up the several series he trusts chiefly to embryological characters.» ” (Wells 2000:82).(ii)
If the implications of Darwin’s theory for early vertebrate development were true, we would expect these five classes to be most similar as fertilized eggs; slight differences would appear during cleavage, and the classes would diverge even more during gastrulation.
(iii)
“Darwin himself noted that embryos must adapt to the conditions of their existence, and the earliest stages of vertebrate embryos show adaptation to widely varying amounts of yolk in their eggs.”
Jerry Coyne, 2001. “Creationism by Stealth,” Nature, 410, p. 475-476
(iv) “Embryology organized its objects by making developmental series. Specimens, often difficult to obtain at desired stages, were collected and framed as embryos; some had previously been interpreted in very different terms—for example, as children to come or as waste material. The tiny and initially unprepossessing objects were transformed through sequences of anatomical, microscopical, and artistic operations into clear images, of which the most expensive conveyed some of the soft, translucent delicacy of the living material. These procedures isolated embryos from other contexts, including connections to pregnant women. The resulting pictures and models were arranged in developmental order, normal representatives selected, and the series prepared for publication or display. This was far from trivial even for the chick, the workhorse of embryological research; for the early human embryos that anatomists mostly obtained from abortions (the youngest then known were estimated at about two weeks old) it was extremely hard. Working out the relations between the series for different species was even harder.” (v) The fact of evolution is as well established as anything in science (as secure as the revolution of the earth about the sun), though absolute certainty has no place in our lexicon..” (Darwinism defined, the difference between fact and theory – Stephen Jay Gould)
(vi)
(1) they include only those classes and orders that come closest to fitting Haeckel’s theory; (2) they distort the embryos they purport to show; and (3) most seriously, they entirely omit earlier stages in which vertebrate embryos look very different. (Wells 2000: 102)”
Vài Giả Thuyết Về Sự Sống
Lời mở đầu
Tôi cũng coi những tư tưởng nầy là “lối sống” của mình vì chúng có ảnh hưởng đáng kể đến cách hành xử của tôi trong đời sống hàng ngày. Ở đây tôi không cố ý chỉ trích phê bình một chủ thuyết nào, và nhất là không có ý định khuyến dụ bất cứ ai.
Sinh lực (Life force)
Tất cả mọi vật đều có thể được coi là tập hợp của năng lượng và có thể được phân tích hay giải thích theo ý nghĩa của năng lượng.
Mỗi người chúng ta đều có một cơ thể vật chất và một cơ thể phi vật chất. Ý niệm về cơ thể phi vật chất nầy cũng tương tự, nhưng có thể không hoàn toàn giống, với ý niệm “linh hồn” thông thường trong dân gian. Cả hai cơ thể vật chất và phi vật chất nầy là sự biểu hiện của một “sinh lực” trong mỗi cá thể. Trong bài nầy, từ “sinh lực” nên được hiểu trong nghĩa là “lực mang lại và chứa đựng sự sống”. Sinh lực nầy hiện hữu trong mỗi người, riêng biệt và có tính cá thể. Sinh lực của mỗi người biến đổi không ngừng từ hình dạng, cường độ đến tính chất, nhưng không thể được tạo thành từ sự trống rỗng và không thể bị tiêu hủy hoàn toàn. Theo định luật bảo toàn năng lượng, “năng lượng chỉ có thể bị biến cải từ dạng nầy sang dạng khác chứ không bao giờ bị tiêu hủy”.
Sinh lực hiện diện trong tất cả sinh vật. Nói chung, sinh lực của một con người mạnh hơn sinh lực của một con thú, và sinh lực của một con thú mạnh hơn nhiều so với sinh lực của thực vật. Cơ thể phi vật chất trong một con người được hình thành bởi phần sinh lực lớn hơn nhiều so với phần sinh lực cơ thể vật chất. Có nghĩa là về phương diện năng lượng thì phần cơ thể phi vật chất của một người quan trọng gấp nhiều lần so với phần cơ thể vật chất. Phần cơ thể phi vật chất của thú vật cũng quan trọng hơn phần cơ thể vật chất, tuy nhiên tỉ lệ khác biệt giữa hai thành phần nầy không lớn bằng trường hợp trong con người. Hầu hết sinh lực của thực vật nằm trong phần cơ thể vật chất của chúng. Phần cơ thể phi vật chất của thực vật có thể được coi là không đáng kể.
Phần lượng sinh lực trong cơ thể phi vật chất của mỗi người đều khác nhau. Một người càng tiến bộ về phương diện tâm linh thì phần sinh lực trong cơ thể phi vật chất của người nầy càng lớn. Trong thú vật, phần sinh lực của cơ thể phi vật chất cũng khác nhau tùy theo loài thú. Đây là do sự khác nhau ở trình độ phát triển tiến hóa tâm linh nói chung của mỗi loài thú.
Vật vô sinh (thí dụ như đất đá) có những dạng năng lượng khác nhau (thí dụ như từ trường) với phẩm chất thấp kém hơn nhiều so với trong sinh vật nên không được coi là có sinh lực.
Sinh thể có thể được định nghĩa là mỗi đơn vị nguyên vẹn với đầy đủ cá tính của sự sống. Trong thế giới nầy, thí dụ như mỗi con người, mỗi con thú, mỗi cây cỏ là một sinh thể.
Sinh dạng (life form)
Tôi cho rằng sự sống hiện hữu trong nhiều dạng. Có bao nhiêu dạng khác ngoài cái dạng thể mà chúng ta cảm nhận được thì ta không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng có vô số dạng thể khác nhau của sự sống mà ở đây tôi xin gọi là “sinh dạng”. Những sinh dạng nầy, đối với loài người chúng ta, được chia làm hai nhóm: sinh dạng trong những thế giới vật chất và sinh dạng trong những thế giới phi vật chất.
Sinh dạng trong thế giới vật chất gồm có sự sống ở trên địa cầu cũng như tất cả các sự sống khác ở trên những thái dương hệ hay thiên hà khác trong vũ trụ. Những thế giới nầy là “thế giới vật chất” vì chúng ta có thể cảm nhận được chúng bằng ngũ quan. Sinh dạng trong thế giới vật chất chịu ảnh hưởng bởi những quy luật vật lý hoặc quen thuộc hoặc không quen thuộc với loài người. Cho đến nay chúng ta chưa có đủ bằng chứng chắc chắn về sự hiện hữu của những sự sống khác trong vũ trụ; tuy nhiên xác xuất nầy rất lớn. Những ai nhìn lên bầu trời đầy sao ban đêm và nghĩ rằng giữa tỉ tỉ thiên thể trong vũ trụ chỉ có một hạt bụi nhỏ bé gọi là địa cầu nầy mới có sự sống thì người ấy vừa ngây thơ vừa kiêu ngạo. Đó là chưa kể đến việc vũ trụ nầy có thể chỉ là một trong vô số những vũ trụ khác đang hiện hữu.
Dạng vật thể mà chúng ta cảm nhận được hàng ngày trong thế giới của chúng ta có thể được giải thích bằng những hạt cơ bản vô cùng bé mệnh danh là điện tử, hạt nhân hay các hạt hạ nguyên tử (subatomic). Tuy nhiên vật thể cũng hiện diện dưới nhiều dạng khác nữa. Những dạng vật thể khác nầy tạo thành những thế giới mà tôi xin gọi là thế giới phi vật chất. Các cấu trúc cơ bản của những loại vật thể nầy khác hẳn với loại vật thể trong thế giới chúng ta. Ở trạng thái thông thường các loại vật thể nầy và loại vật thể trong thế giới của chúng ta không cảm nhận sự hiện diện lẫn nhau được. Nói cách khác, trong điều kiện bình thường thì những thế giới phi vật chất nầy hoàn toàn không hiện hữu đối với chúng ta, và ngược lại.
Con người không thể dùng ngũ quan để cảm nhận những vật thể trong những thế giới phi vật chất nầy. Tuy vậy cần nhớ rằng con người cũng không thể cảm nhận được từ trường của trái đất, tia cực tím của mặt trời, vi khuẩn, vi sinh vật v.v. nhưng tất cả chúng ta đều công nhận rằng chúng hiện hữu. Khoa học kỹ thuật ngày nay đã sáng chế ra những dụng cụ để cho phép con người xác định và đo lường được những hiện tượng nầy. Vài trăm năm trước khi những dụng cụ nầy chưa được phát minh thì những hiện tượng nói trên vẫn đã hiện hữu bất kể con người biết đến chúng hay không.
Sự sống hiện diện trong những thế giới phi vật chất nầy cũng tương tự như sự sống hiện diện ở trong những thế giới vật chất. Ta hãy gọi những dạng thể khác nhau của sự sống trong những thế giới phi vật chất là “sinh dạng phi vật chất”, cũng như những dạng thể khác nhau của sự sống trong những thế giới vật chất là “sinh dạng vật chất”. Mỗi thế giới vật chất hay phi vật chất đều có thể có liên hệ bằng cách nầy hay cách khác với những thế giới vật chất hay phi vật chất khác.
Những sinh dạng trong không gian
Như đã nói ở trên, vô số những sinh dạng vật chất tương tự như sinh dạng trên địa cầu có thể hiện hữu trong hay ngoài thái dương hệ của chúng ta. Một trong những giả định về những sinh dạng trong không gian là những sinh thể được gọi là “người không gian” hay “người hành tinh” mà nhiều người tin rằng thỉnh thoảng đến thăm viếng địa cầu.
Có nhiều cách giải thích tại sao cho đến nay chúng ta vẫn chưa có bằng chứng vững chắc hay xác nhận được bằng khoa học về những sinh dạng trong không gian nầy.
Cách giải thích thứ nhất là lịch sử của nhân loại chỉ bao trùm một khoảng thời gian vài chục ngàn năm gần đây. Khoảng thời gian nầy chỉ là một cái chớp mắt so với các diễn biến khác trong vũ trụ. Ngay cả lịch sử chính thức của loài người cũng rất chủ quan và thiếu chính xác đến đỗi những nhà khảo cứu ngày nay chỉ có thể ước đoán một cách mơ hồ về nhiều sự kiện xảy ra trước công nguyên. Nhiều sự kiện quan trọng chắc chắn đã xảy ra mà không hề được ghi chép lại. Nếu lần cuối cùng mà những sinh dạng từ không gian đến thăm viếng địa cầu đã xảy ra khoảng hai mươi ngàn năm về trước thì sao? Như đã nói, hai mươi ngàn năm cũng chỉ là một khoảnh khắc rất ngắn trong vũ trụ. Loài người ở thời điểm đó chưa hề có khái niệm gì về “lịch sử” cả thì làm sao các cuộc thăm viếng nầy, nếu đã xảy ra, có thể được ghi nhận và thông tin lại cho thế hệ tương lai?
Cách giải thích thứ hai là khoa học kỹ thuật ngày nay của loài người có thể vẫn còn rất thô sơ và kém hiệu quả để phát hiện và xác định những chuyến thăm viếng địa cầu của người không gian. Điều có thể xảy ra là tuy vẫn đến thăm viếng thường xuyên nhưng vì lý do nào đó mà họ không muốn liên lạc trực tiếp hay ra mặt công khai với người địa cầu.
Một cách giải thích khác là ngay cả hiện nay, loài người cũng chưa thám hiểm, kiểm soát hay quan sát được hết tất cả nơi chốn trên trái đất nầy. Nếu những cuộc thăm viếng của người không gian chỉ xảy ra một cách lặng lẽ và ngắn ngủi trong những khu vực chưa biết đến nầy thì làm sao chúng ta có thể ghi nhận được?
Một điểm khả dĩ khác nữa là có thể hiện tượng người không gian đến trên địa cầu đã được xác định bởi một số tổ chức nào đó trên thế giới, tuy nhiên có thể là mọi dữ kiện đều được giữ kín vì lý do bí mật quân sự hay an ninh quốc phòng?
Những sinh dạng phi vật chất
Xác định sự hiện diện của những sinh dạng vật chất khác trong vũ trụ đã phức tạp, nhưng xác định sự hiện hữu của những thế giới phi vật chất còn khó khăn hơn nữa.
Một số tập hợp, thí dụ như nhóm “Kỷ nguyên mới” (New Age), gọi những thế giới nầy bằng những từ như “mặt phẳng” (plans) hay “kích thước” (dimensions) khác. Vài tôn giáo tin rằng thế giới vật chất của chúng ta nối liền đến hai thế giới phi vật chất mà họ gọi bằng một số tên tuy khác nhau nhưng cụ thể là “thiên đàng” và “địa ngục”.
Nếu đã chấp nhận khái niệm “thiên đàng, địa ngục” nầy rồi thì chúng ta chỉ cần bước thêm một bước ngắn nữa là sẽ đến với quan niệm là có vô số các thế giới phi vật chất khác, chúng cũng có liên hệ phần nào đến thế giới chúng ta. Như vậy thì cũng có thể là sự sống trong những thế giới nầy cũng có tương tác phần nào đến sự sống trên địa cầu? Phải chăng có nhiều sự sống (hay sinh dạng) từ nhiều thế giới khác nhau, chúng cũng chia sẻ một khoảng không gian và thời gian chung với nhau, hiện hữu chồng chất lên nhau, nhưng trong điều kiện bình thường thì những sinh dạng nầy không hề cảm nhận được nhau.
Nơi đây người ta dễ liên tưởng đến quan niệm về cái “chết”. Ta có thể xem cái chết là điểm chấm dứt của sự sống trong thế giới vật chất nầy. Nhiều người tin rằng khi chết thì phần cơ thể phi vật chất (thường được gọi là “linh hồn”) của cá thể sẽ hoặc tự nguyện hoặc bị bắt buộc thoát ra khỏi cái vỏ, tức là cái cơ thể vật chất của cá thể đó. Đồng ý là cho đến nay chưa hề có bằng chứng khoa học nào thừa nhận điều này, nhưng nếu chấp nhận nguyên lý bảo toàn năng lượng thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng sau khi cơ thể của một người mất sự sống và lần hồi tan rã đi thì cái thể tính đã tạo ra sự khác biệt giữa một người sống và một xác chết phải được biến đổi ra một cái gì khác. Tất cả những năng lượng trong tình cảm của một con người không thể chỉ tiêu tan mà không biến đổi ra thành một dạng năng lượng khác. Những thứ khác trong một con người như khả năng và mức độ cảm nhận, kiến thức, suy luận, thông minh, v.v. cũng có thể như vậy.
Có những tôn giáo quan niệm về tiền kiếp, hậu kiếp, sự tái sinh, sự sống trường cửu, v.v. Có thể là sau khi một cá nhân chết đi, cơ thể phi vật chất của người ấy vẫn còn giữ được tương đối nguyên vẹn trong khi biến đổi qua thành một hay nhiều những sinh dạng khác hiện hữu trong một hay nhiều những thế giới phi vật chất. Cái cơ thể phi vật chất nầy có thể vẫn chứa đựng một phần những cá tính đặc thù của cá nhân đó mặc dù nó đã chuyển hoán qua một hay nhiều dạng khác trong thế giới khác. Một cách nói khác là mỗi người có thể đều có một “linh hồn”, và linh hồn nầy có cùng một bản thể cá biệt trong đời sống nầy cũng như những đời sống khác. Dĩ nhiên liệu nó có nhận biết hoàn toàn được cái bản thể nầy hay không là một chuyện khác.
Những hiện tượng siêu nhiên
Tâm trí (the mind) của con người có thể là một trong những dụng cụ tinh vi nhất mà chúng ta có thể có. Ngay cả ngày nay, khoa học chỉ có thể hiểu được một phần rất nhỏ về khả năng của tâm trí. Một trong những điều mà có người tin là tâm trí có thể cho phép con người “liên lạc” được với những thế giới phi vật chất. Nó hơi giống như một loại radio, nếu vặn đúng băng tần thì sẽ cho phép chủ nhân nghe hay thấy những thứ mà trong điều kiện bình thường người nầy sẽ không bao giờ nghe thấy được. Ta có thể giải thích sự hiện tượng “gặp ma” bằng cách tương tự.
Tâm trí có thể được so sánh với một cánh “cổng” nối liền thế giới nầy với những thế giới phi vật chất. Cánh cổng nầy có thể mở ra được trong một số trường hợp nhất định.
Trường hợp thứ nhất là khi tâm thần, tình cảm bị chấn động dữ dội. Thí dụ như khi một cá nhân vừa mới mất người thân thường xúc động và thương tiếc mãnh liệt và điều này có thể sinh ra khả năng cảm nhận được linh hồn của người thân vừa chết. Hiện tượng nầy, nếu xảy ra, thường nằm ngoài chủ ý hay sự điều khiển của cá nhân.
Trường hợp thứ hai là bằng một sự cố gắng có chủ ý, như qua một quá trình tập trung tư tưởng cao độ của các thiền giả (trong một số phương pháp thiền) hay của đồng cốt. Đây là điều gây ra rất nhiều nghi vấn. Liệu những người nầy có thật sự liên lạc được với thế giới khác hay không; và nếu có thật thì chính họ có thể điều khiển được bao nhiêu phần trong những thứ mà họ có thể nghe hay thấy?
Có khi cánh cổng đó được mở ra bởi ngoại lực. Đây là khi có một số điều kiện thiên nhiên mạnh mẽ nào đó dự phần vào. Thí dụ như ở những địa điểm trên mặt đất mà địa từ trường (hay có thể những loại “trường năng lượng” khác) tập trung hay dao động một cách khác thường. Đây có thể là lý do mà ở một số địa điểm người ta thường có thể cảm nhận hay chứng kiến những hiện tượng “ma quỷ”, “vong hồn”, v.v. hiện ra. Những môi trường năng lượng đặc biệt nầy không cố định; cường độ, tính chất của chúng có thể thay đổi theo thời gian. Những loại trường năng lượng nầy cũng tác động lên mỗi người một cách khác nhau; vì thế có người có thể cảm nhận được những hiện tượng “ma quỷ” dễ dàng hơn những người khác cũng cùng đang hiện diện.
Có khi cánh cổng của một người có thể bị mở ra bởi một sinh dạng từ thế giới khác. Sinh thể từ một thế giới khác có thể vô tình hay cố ý mở khóa được cái cổng của một người và làm cho người nầy cảm nhận được sự hiện diện của nó. Một thí dụ trong trường hợp nầy có thể thường được gọi là “quỷ nhập”.
Như đã nói ở trên, sinh thể trong thế giới nầy, người và thú, thường không cảm nhận được sự hiện diện của những sinh thể trong những thế giới khác. Trong điều kiện bình thường, chúng không giao thoa, không gặp gỡ. Ta không rõ sinh thể, sinh dạng ở những thế giới khác hiểu biết bao nhiêu về sự hiện diện của chúng ta trong thế giới nầy. Tuy nhiên, không thể loại bỏ khả năng trong đó một số thế giới có thể rất tiến bộ so với những thế giới khác kể cả của chúng ta, và do đó có nhiều kiến thức rất sâu rộng hơn chúng ta về sự liên hệ giữa những thế giới với nhau.
Luật nhân quả hay Nghiệp lực (Karma)
Hãy thử liên tưởng đến qui luật “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một sinh lực mang thiện tính có khuynh hướng thu hút cùng một thứ năng lượng cũng có thiện tính. Hạnh phúc, yêu thương, hòa đồng, v.v. là vài thí dụ của loại diễn biến thiện tính nầy. Ngược lại, một người gây ra nhiều diễn biến mang ác tính sẽ cho làm sinh lực của mình mang nhiều ác tính và từ đó sẽ thu hút nhiều diễn biến có ác tính xảy ra cho mình.
Bất cứ một biến cố xảy ra ở bất cứ thời điểm nào cũng đều có thể được coi là hậu quả của một hay nhiều diễn biến xảy ra ở một hay nhiều thời điểm khác. Nếu mở rộng lối lý luận vừa rồi thêm thì mỗi biến cố xảy ra ở bất cứ thời điểm nào cũng có ảnh hưởng đến một hay nhiều diễn biến xảy ra ở một hay nhiều thời điểm khác. Lý thuyết nầy chính là thuyết “Nhân quả” và là một nguyên lý nền tảng trong Phật giáo.
Xin lưu ý là trong những đoạn văn trên, tôi đã cố ý không dùng những từ như “quá khứ”, “hiện tại” hay “tương lai”. Trong thế giới của chúng ta, thời gian được coi là có một chiều và một hướng nhất định; có nghĩa là chúng ta chỉ thấy là thời gian luôn luôn đi tới theo đường thẳng. Đối với chúng ta, quá khứ xảy ra trước hiện tại và hiện tại xảy ra trước tương lai. Có thể là trong những thế giới khác, thời gian có nhiều chiều hướng hơn. Có nghĩa là thời gian không “chạy” theo một đường thẳng nữa mà có thể đi theo nhiều đường cong khác nhau. Diễn biến xảy ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai không nhất thiết xảy ra theo một thứ tự nào cả. Sự áp dụng của khái niệm nầy vào thế giới của loài người sẽ trở thành cực kỳ phức tạp và vượt xa hẳn khỏi tầm hiểu biết của phần lớn chúng ta.
Như vừa nói, khi một người làm bất cứ một điều gì ở một thời điểm thì điều đó sẽ có ảnh hưởng ít nhiều đến tương lai của người ấy. Điều gì xảy ra đến một người ngày hôm nay có thể được coi là bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp bởi một hay nhiều diễn biến liên can đến cũng người đó trong kiếp sống nầy hay kiếp sống khác, trong thế giới nầy hay trong thế giới khác. “Gieo hạt nào thì hái quả ấy”. Tuy nhiên, vấn đề không phải thô sơ như là khi bạn hãm hại một người hôm nay thì bạn sẽ bị người ấy, hay ai khác, hãm hại lại giống như vậy trong tương lai. Sự vận hành của những thiện tính hay ác tính trong hành động và ý nghĩ của chúng ta luôn luôn tuân theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nghĩa là một diễn biến ác tính chỉ có thể được hóa giải bởi những diễn biến thiện tính bằng hay lớn hơn, và ngược lại. Đây là một cách giải thích về khái niệm “âm đức” trong dân gian Việt Nam; “đức lành” tương ứng với năng lượng thiện tính gây ra hay tích lũy trong sinh lực của một người, “nghiệp dữ” tương ứng với năng lượng ác tính. Tuy vậy, chi tiết chính xác về phương cách và công thức để ứng dụng sự vận hành nầy có thể quá phức tạp cho tư duy con người chúng ta.
Vận mạng
Rất có thể là mỗi người chúng ta sinh vào cõi đời nầy với một số lượng “đức lành” hay “nghiệp dữ”. Những nghiệp lực (năng lượng lành hay dữ) nầy là kết quả của những diễn biến trong quá khứ ở những kiếp (hay thế giới) khác. Tương lai suốt cuộc đời của người nầy có thể được tiên đoán khá chính xác dựa lên những nghiệp lực nầy, nếu không có diễn biến nào khác xảy ra. Tuy nhiên, vì hầu như luôn luôn là sẽ có nhiều sự việc, hành động, ý nghĩ, quyết định, v.v. xảy ra trong cuộc đời mỗi người từ giây phút được sinh ra, tương lai của người nầy sẽ tiếp tục biến hóa và thay đổi không ngừng. Tương lai, hay vận mạng, tuy thay đổi vô tận nhưng luôn luôn chịu ảnh hưởng bởi ý nghĩ và hành động của người đó. Do đó, ta có thể nói rằng tương lai hay vận mạng của một người nằm trong tay của chính người đó.
Tuy vậy, một người không thể nào điều khiển hoàn toàn được vận mạng của mình. Những nghiệp lực lành hay dữ trong cuộc đời của một người cũng chịu ảnh hưởng bởi nghiệp lực của những sinh thể đã từng có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với người nầy ở kiếp nầy hay những kiếp khác. Khái niệm nầy thường được gọi là “cộng nghiệp”, để phân biệt với “biệt nghiệp” của mỗi cá nhân. Bởi vì cuộc đời của mỗi sinh thể luôn luôn đã, đang và sẽ dính dáng đến vô số cuộc đời của vô số những sinh thể khác, một người không thể nào hoàn toàn tách rời vận mạng của mình ra khỏi vận mạng của toàn khối của vô số những sinh dạng khác. Tuy vậy như đã nói ở trên, một người thường có thể quyết định một phần lớn vận mạng của mình.
Mỗi người chúng ta phải tự làm việc để tăng trưởng trên bậc thang tâm linh. Nói chung là không có ngoại lực gì, dù cao cả đến mấy, có thể thay đổi vận mạng toàn diện của một người. Nhiều tôn giáo truyền giảng rằng nếu người ta cầu nguyện và tôn thờ một đấng thiêng liêng hay vị thần thánh nào đó thì sẽ được cứu rỗi. Lối rao truyền nầy rất hấp dẫn đối với nhiều người vì theo đó thì cá nhân không còn cần phải gánh vác trách nhiệm đối với tâm linh mình nữa.
Đầu thai, tái sinh
Như đã nói ở trên, có hằng hà sa số sinh dạng trong hằng hà vô số thế giới, vật chất và phi vật chất. Mỗi sinh dạng có hằng hà sa số sinh thể (hay sinh lực cá nhân). Thí dụ, mỗi giống loại sinh vật trên địa cầu nầy có thể được coi là một sinh dạng, và mỗi cá thể, người ta hay thú vật, có thể được coi là một sinh thể (hay sinh lực riêng biệt).
Mỗi sinh dạng nầy (nghĩa là tất cả các sinh thể vật chất sống trên hành tinh nầy hay trên bất cứ tinh tú nào khác, cũng như tất cả sinh thể trong tất cả những thế giới phi vật chất) có thể được coi là có một trình độ phát triển khác nhau trong quá trình tiến hóa. Mỗi cá nhân của loài người có một trình độ tiến hóa tuy tương tự nhưng khác nhau ít nhiều so với những cá nhân khác. Cũng có trường hợp một cá nhân trong loài người có thể mang trình độ tiến hóa thấp hơn trình độ tiến hóa của một con vật nhất định.
Xin chú ý là từ “trình độ phát triển khác nhau trong quá trình tiến hóa” ở đây không những nói về lãnh vực vật chất mà quan trọng hơn là lãnh vực phi vật chất của một cá thể. Trong trường hợp của một con người, đây là sự tiến triển về phương diện tâm linh cũng như toàn bộ những năng lượng tích trữ trong sinh lực của họ. Vì vậy, từ “sự phát triển tâm linh” và từ “sự phát triển qua quá trình tiến hóa” ở đây có khi được dùng tương đương nhau.
Khi một người trên địa cầu vừa chết đi, tùy vào tình trạng tiến hóa tâm linh của họ ở thời điểm đó mà phần phi vật chất, hay “linh hồn”, của họ có thể được hoán đổi thành một trong nhóm loại những sinh dạng nào đó. Nhóm loại những sinh dạng nầy có trình độ tiến hóa tương đương với trình độ tiến hóa của người nầy trước khi họ chết. Chỉ có những người đã đạt được sự tiến hóa tâm linh cao mới có thể hoán chuyển thành những sinh dạng hay di nhập vào những thế giới có trình độ tiến hóa cao. Những người có trình độ tiến hóa thấp chỉ có thể hoán chuyển thành những sinh dạng thấp tương tự.
Một sinh thể tuy không thể nào hoán chuyển thành một sinh dạng tiến bộ hơn, có thể vì lý do gì đó, lựa chọn để hoán chuyển thành một sinh dạng hơi thấp hơn trình độ tiến hóa của mình. Có thể đây là cách giải thích tại sao một vài cá thể có vẻ được sinh ra với những đặc tính (vật chất cũng như tâm linh) ưu việt so với những cá thể cùng loại khác.
Tôi thiết nghĩ rằng sau khi chết, hầu hết linh hồn con người đang sở hữu một trình độ tiến hóa tương đương với trình độ của một con người bình thường sẽ có khuynh hướng lựa chọn được hoán chuyển trở lại thành loài người.
Trong khi xem luật Nhân quả là lực tác động chính trong quá trình nầy, Phật giáo cho rằng lý do để con người luôn muốn hoán chuyển trở lại thành sinh dạng cũ là vì lòng lưu luyến của họ đến những cám dỗ vật chất và tình cảm trong cái thế giới không hoàn hảo nầy. Sự phát triển tâm linh đưa đến giác ngộ có thể giải thoát một cá nhân ra khỏi cái vòng khổ lụy vô tận nầy. Một người đã giác ngộ là một người đã đạt được trình độ tiến hóa tâm linh cao và không còn mong muốn trở lại sinh dạng kém hoàn hảo nầy nữa.
Một nhận xét lý thú là trong truyền thống Á Đông, ý niệm rất phổ thông gọi là “tiền duyên” chẳng qua là một chuyển biến tình cảm của luật Nhân quả. Người ta tin rằng những người yêu nhau khi đã nhất tâm chung sống với nhau nhưng vì lý do gì đó mà không thực hiện được ước vọng trong kiếp sống nầy sẽ có thể tái sinh lại trong những kiếp sống trong tương lai để gặp gỡ lại và cố gắng thực hiện điều họ đã mơ ước.
Nguồn gốc của thần linh
Đại đa số người ta trong thế giới nầy sinh ra với một “tôn giáo”. Từ giây phút mới sinh ra, họ thường đã theo gia đình hay xã hội sống trong một tôn giáo nhất định. Nhiều người lớn lên, sống hết cuộc đời họ và sau cùng chết đi cũng với cái tôn giáo nầy. Nhiều người hết lòng bảo vệ tôn giáo và có khi sẵn sàng hy sinh mạng mình để chiến đấu cho nó nhưng có thể chưa hề tự hỏi là mình có thật sự hiểu biết về nó. Nhiều người tự cho mình theo quan niệm “bất khả tri” vì không muốn bị lôi kéo vào một thứ mà họ không hiểu rõ. Nhiều người tự mình họ là “vô thần” vì họ không thể chấp nhận cách trả lời quá đơn giản về nguồn gốc sự sống của nhiều giáo phái đang lan tràn trên thế giới.
Khác với loài vật, chỉ có con người mới có tôn giáo. Khi phải đối diện với những hiện tượng “siêu nhiên” đáng sợ không thể giải thích được, chỉ có loài người mới có tư duy sáng tạo ra những câu trả lời nhằm trấn an chính mình. Có thể con người cần thấy họ phải có một thủ lãnh để bảo vệ họ và để cho họ tuân phục. Đây là nguyên cớ và lý do hình thành vị thần linh đầu tiên và dần dần tôn giáo phát sinh. Rồi càng lúc càng nhiều thần linh và tôn giáo khác được phát minh ra thêm để cung ứng những giải đáp thỏa đáng hơn cho những câu hỏi càng ngày càng phức tạp khi con người càng lúc càng phát triển hơn.
Đến nay, chưa hề có một tôn giáo nào có thể đáp ứng được cho tất cả mọi người trên hành tinh nầy. Lý do chính là vì chưa hề có một giáo điều của bất cứ tôn giáo nào có thể được chấp nhận và minh chứng bằng phương cách khoa học.
Tiến hóa hay Sinh tạo?
Người theo thuyết Tiến hóa quan sát những sinh vật hiện tại trên địa cầu và cho rằng tập hợp vĩ đại của vô số những giống loài nầy hẳn phải là kết quả của một quá trình tuyển chọn và tiến hóa trong thiên nhiên. Người theo thuyết Sinh tạo tin rằng nếu sự sống của mọi vật kỳ diệu như thế nầy thì chúng chắc phải được sinh tạo ra bởi một siêu thể toàn trí.
Khoảng 30 năm về trước xuất hiện tác phẩm “Mã xa của Thượng đế” (Chariots of the Gods) của Erich Von Däniken. Tác giả nầy đưa ra giả thuyết rằng người không gian đã đến thăm viếng địa cầu trong quá khứ, và rất có thể là loài người chúng ta xuất xứ từ những người không gian nầy. Tác phẩm này chứa đầy những “bằng chứng khoa học” cùng với nhiều cách lý luận có vẻ khá đáng tin để hỗ trợ giả thuyết của tác giả. Sau đó Von Däniken còn viết thêm nhiều cuốn nữa. Nhiều “dữ kiện” và “bằng chứng khoa học” nữa được đưa ra. Tất cả đều có vẻ khá đáng tin và vững chắc. Sau đó lại xuất hiện tác phẩm “Quá khứ là từ Con người” (The Past is Human) của Peter White, người chống đối kịch liệt lại giả thuyết cho rằng nhân loại xuất xứ từ người không gian. Những tác phẩm loại này, cũng với đầy đủ những “bằng chứng khoa học” đáng tin không kém, đều lý luận và kết luận ngược hẳn lại chiều hướng của Von Däniken. Điều lý thú nhất mà ta nhận thấy là cả Von Däniken và những tác giả chống đối ông nhiều khi sử dụng cùng những dữ kiện và quan sát giống nhau nhưng lại đi đến những cách diễn giải hoàn toàn đối nghịch nhau.
Bài học mà ta gặt hái được từ kinh nghiệm trên là bất cứ một sự khảo sát nào cũng có thể được diễn giải, và hỗ trợ bởi một số những “bằng chứng khoa học”, theo phương hướng hoàn toàn khác nhau. Những cách diễn giải nầy tuy có thể thành tâm, nhưng chúng ta phải nhớ rằng con người lúc nào cũng có khuynh hướng chỉ có thể thấy được những gì mình muốn thấy.
Thuyết Tiến hóa có thể vẫn còn có nhiều lỗ hổng và hiện nay vẫn chưa được tất cả mọi người chấp nhận. Địa tầng học và tài liệu về vật hóa thạch ngày nay vẫn chưa cung cấp đầy đủ bằng cớ để chứng minh rõ ràng những gì Darwin giả định. Một số khoen xích vẫn còn đang thất lạc và có thể đây là nhược điểm lớn nhất của giả thuyết nầy. Tuy vậy, thuyết Sinh tạo đang ở một vị thế yếu kém hơn nhiều vì những người theo chủ thuyết nầy chỉ có thể đưa ra những câu trả lời quá đơn giản đến độ ngây ngô dựa trên những tiền đề chưa hề được minh chứng, được gọi là “đức tin”.
Kết luận
Tôi tự cho mình là một “Phật tử vô thần”. “Phật tử” vì cách suy nghĩ của tôi chịu nhiều ảnh hưởng bởi một vài trường phái trong Phật giáo, và “vô thần” vì tôi không tin ở một Thượng đế có nhân tính.
Tôi tin rằng tất cả mọi vật đều có liên hệ tương quan lẫn nhau. Tôi tin rằng không có gì có thể tồn tại hay hiện hữu mà không chịu ảnh hưởng hay liên hệ cách nầy hay cách khác với những sự vật khác. Mỗi diễn biến, mỗi vật thể đều ảnh hưởng đến sự hiện hữu và tiến hóa của các diễn biến và vật thể khác. Mối liên hệ tương quan nầy tuân theo những định luật vũ trụ, và chi tiết về đặc tính của những định luật nầy thật ra quá phức tạp để khả năng kiến thức hiện tại của loài người có thể hiểu được.
Tôi tin ở sự “luân hồi” trong vạn vật. Nghĩa là mỗi diễn biến, mỗi vật thể đều thành hình, phát triển, hoại diệt hoặc là thành một thể dạng khác (mà thể dạng mới nầy cũng phát triển, hoại diệt một cách tương tự), hoặc là thành tạo trở lại dưới cùng thể dạng cũ và bắt đầu lại lần nữa. Trong mỗi chu kỳ nầy, sự vật luôn luôn thay đổi không ngừng từ giây phút thành hình cho đến giây phút tan rã. Chúng ta có thể thấy điều nầy xảy ra trong sự sống của một con người từ sinh đến tử. Chúng ta có thể thấy được điều nầy ở vạn vật trên trái đất trong khoảng thời gian 24 giờ của một ngày. Chúng ta có thể thấy được điều nầy ở những nền văn minh, những đế quốc từ lúc lập thành cho đến khi sụp đổ. Tôi tin rằng ngay cả tình cảm và mối liên hệ giữa con người với nhau cũng tuân theo định luật nầy.
Tôi lớn lên trong một gia đình đạo Phật “bình thường”. Trong gia đình tôi, Phật Thích-ca được tôn thờ như là một vị Thượng đế có nhân tính, thấu hiểu mọi điều, bảo vệ, ban bố lợi lộc cho tín đồ thành tâm cúng bái, thắp nhang, tụng kinh. Đây là cách tôn thờ Phật Thích-ca phổ biến rất rộng rãi ở Châu Á xưa và nay. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đây không gì khác hơn là một sự kết hợp giữa những ngộ nhận về lời dạy của Thích-ca Mâu-ni và những hình thái mê tín dị đoan. Tôi đã trải qua một thời gian dài trước khi tự giải thoát ra khỏi loại Phật giáo nầy. Đây là một quá trình diễn tiến chậm chạp qua nhiều giai đoạn. Tôi nghĩ tôi thật sự cắt đứt mình hẳn ra khỏi lối tín ngưỡng nầy khi tôi tình cờ gặp một tăng sĩ người Anh. Nguyên tắc tu hành của ông là “hãy tự kiểm nghiệm cho chính mình chớ đừng bao giờ tin lời của ai khác hết”. Từ đó tôi ứng dụng nguyên tắc nầy vào mọi phương diện sống của tôi. Cái sức mạnh trong niềm tin rằng vận mạng của mỗi người hầu hết nằm trong tay người đó đem đến nguồn giải thoát tâm linh lẫn mầm hy vọng đối trị được nỗi sợ hãi của sự chết.
Sự kiện tôi tin vào luật Nhân quả không làm cho tôi luôn luôn chọn con đường nhiều thiện tính nhất trong đời sống của mình. Tuy thế, mỗi khi tôi quyết định một việc gì thì tôi biết rằng chính tôi và chỉ có tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm tâm linh về quyết định đó. Niềm tin nầy an ủi tôi khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đem đến sức mạnh khi tôi biết rằng vận mạng của tôi hầu hết tùy thuộc ở chính mình. Tôi không thể tin rằng một người dù đang ở trong một trạng thái tâm linh bần cùng cách mấy, nếu đem lòng yêu thương và tôn thờ một vị thần linh nào đó thì sẽ có thể được ban bố phước lành lập tức. Nếu thật sự là có một đấng Chí tôn muốn nhân loại cần phải “bán thân” trong phương diện tâm linh như thế, thì tôi thà xin làm một con thú hoang đứng tách rời ra càng xa khỏi đàn cừu của ông ta càng tốt.
Theo tôi, khăng khăng bảo thủ và nhất định không tìm hiểu về những quan điểm khác là dấu hiệu của sự ngạo mạn và ngu dốt. Tôi chủ trương cởi mở trong con đường tìm hiểu để đi đến một câu trả lời có thể chấp nhận được về ý nghĩa của sự sống. Tôn giáo như chúng ta biết chỉ là một cách giải thích gượng ép để cố gắng trả lời những câu hỏi hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của nền văn minh con người. Nếu sự sống trên hành tinh nầy không gì khác hơn là một dĩa cấy vi khuẩn mà một vài siêu thể nào đó đang làm thí nghiệm thì sao? Nếu, bất kể các điều gì tôi vừa nói ở trên, sự sống của tất cả chúng ta chỉ là sự ngẫu nhiên trong vũ trụ và chúng ta chỉ được tạo thành một cách vô tình và rồi sẽ từ từ tiêu tan đi vĩnh viễn thì sao?
Cho đến ngày chúng ta biết rõ ràng về Sự thật, tôi nghĩ là một chút kính trọng và yêu thương lẫn nhau giữa mọi sinh vật, con người cũng như tất cả động vật thực vật khác, sẽ có nhiều ý nghĩa hơn bất cứ lễ nghi tôn giáo hay niềm tín ngưỡng nhiệt tình nào.
Talawas http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10645&rb=0306
Chú Thích:
Đây là một trong những bài tôi viết đầu tiên của tôi về tôn giáo tín ngưỡng (khoảng năm 2000). Một vài ý tưởng trong bài nầy có thể hơi khác một chút (tuy vẫn không mâu thuẩn) với cái nhìn hiện nay của tôi (2015)
Email Spoofing Là Gì? Có Phải Thư Lừa Đảo, Giả Mạo?
Email Spoofing là gì?
1. Email Spoofing là gì?
Email Spoofing hiểu nôm na là các email lừa đảo, giả mạo thông tin người dùng. Kẻ lừa đảo sử dụng hình thức này để phát tán, lây lan virus và phần mềm độc hại trên các thiết bị người dùng.
Đôi khi trong một số trường hợp bạn có thể nhận được email được gửi từ chính địa chỉ email của mình.
Trong trường hợp này nhiều khả năng có kẻ đang giả mạo địa chỉ email của bạn. Kẻ lừa đảo có thể tìm kiếm địa chỉ email của bạn thông qua nhiều phương thức khác nhau, bao gồm thông qua các tài khoản mạng xã hội và các liên hệ chung. Hoặc cũng có thể là do địa chỉ email của bạn nằm trong miền công cộng và được công khai.
2. Giả mạo địa chỉ email như thế nào?
Để giả mạo email người dùng, tất cả những gì mà kẻ lừa đảo cần là một máy chủ Simple Mail Transfer Protocol (SMTP), hiểu nôm na nó là máy chủ gửi email. Máy chủ SMTP này có thể là Microsoft Office Outlook.
Ngoài ra kẻ lừa đảo cũng cần phải cung cấp tên hiển thị, địa chỉ email và các thông tin đăng nhập bao gồm tên người dùng và mật khẩu. Trong đó các thông tin đăng nhập được sử dụng để đăng nhập tài khoản email người dùng, sau đó họ có thể giả mạo tên người dùng và địa chỉ email bằng tên bất kỳ.
Các thư viện code như PHPMailer sẽ sắp xếp quy trình hợp lý, kẻ lừa đảo chỉ việc điền thông tin vào khung From, soạn thư và thêm địa chỉ người nhận.
Tuy nhiên hầu hết các máy chủ mail đều yêu cầu người dùng xác thực để đăng nhập. Để bỏ qua quá trình này và tiếp tục đăng nhập địa chỉ email của nạn nhân để giả mạo email, kẻ lừa đảo sẽ sử dụng các “botnet” làm máy chủ mail.
Botnet là hệ thống các máy tính bị nhiễm được thiết kế để phân tán, lây lan virus, spam và worm (sâu máy tính) cho các thiết bị khác.
3. Tại sao người lạ lại nhận được email từ bạn?
Trong trường hợp nếu máy chủ bị xâm nhập trái phép, phần mềm độc hại sẽ quét các địa chỉ liên hệ và gửi các phần mềm độc hại đến địa chỉ đó thông qua ứng dụng email. Bất kỳ ai có tên trong danh sách liên hệ của bạn cũng sẽ nhận được email này.
Về cách thức hoạt động của virus, virus càng được phát tán và lây lan sang nhiều máy chủ càng thu thập và đánh cắp được nhiều thông tin cá nhân của người dùng. Một trong những cách thức lây lan virus đáng sợ nhất là thông qua phần mềm độc hại được cài đặt trên thiết bị nhưng được “ngụy trang” dưới dạng các phần mềm lành tính, giống như Trojan .
Hoặc nếu không chắc chắn, bạn có thể hỏi trực tiếp từ người gửi email.
Nếu không nhớ email đó có phải là bạn tự gửi cho mình hay không, bạn có thể kiểm tra trong thư mục đã gửi. Ngoài ra nếu nghi ngờ có người truy cập trái phép tài khoản của mình, chỉ cần đăng nhập Gmail và kiểm tra các thông tin đăng nhập cuối cùng trong phần Last Account Activity và thực hiện thay đổi mật khẩu ngay lập tức.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Sự Thật Về Thuyết Tiến Hóa: Hình Vẽ Phôi Thai Giả Của Haeckel, Vụ Lừa Đảo Xuyên Thế Kỷ trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!