Cập nhật nội dung chi tiết về Tăng Cường Năng Lực Hội Nhập Quốc Tế Lĩnh Vực Môi Trường mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thách thức từ hội nhập quốc tế lĩnh vực môi trường
Chỉ rõ những thách thức của Việt Nam trong hội nhập quốc tế lĩnh vực môi trường, ông Hoàng Văn Thức – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cho rằng, về phía các cơ quan quản lý Nhà nước, năng lực đội ngũ cán bộ tham gia công tác hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về môi trường nói riêng chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế của quá trình hội nhập; làm ảnh hưởng đến việc thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã tham gia là thành viên; đồng thời làm giảm tính tích cực, chủ động của Việt Nam khi tham gia, đóng góp trong các hoạt động và sự kiện quốc tế. Bên cạnh đó, hạn chế về nguồn lực đầu tư cho các hoạt động hội nhập quốc tế; xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ công tác quản lý, thực thi các cam kết và nghĩa vụ về môi trường…
“Khối doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải khó khăn và rủi ro nhất định trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao về môi trường ở các thị trường quốc tế trong quá trình xuất khẩu hàng hóa” – ông Thức chia sẻ về các khó khăn của các doanh nghiệp tư nhân; đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải tháo gỡ các khó khăn, tăng cường năng lực hội nhập quốc tế về môi trường.
Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực môi trường
Theo đề xuất của Tổng cục Môi trường, Đề án “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực môi trường” được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay và xu thế hội nhập quốc tế trong tương lai, đóng góp cho bảo vệ môi trường và hội nhập về kinh tế, hướng tới phát triển bền vững đất nước.
Với ý nghĩa tích cực đó, Đề án “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế lĩnh vực môi trường” được xây dựng trên cơ sở quán triệt chủ trương, đường lối và định hướng về hội nhập quốc tế và bảo vệ môi trường của Đảng và Nhà nước. Đề án sẽ đưa ra những giải pháp có tính toàn diện nhằm tăng cường năng lực hội nhập quốc tế về môi trường cho cơ quan quản lý các cấp, doanh nghiệp và người dân; đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nghĩa vụ về môi trường đã cam kết trong các khuôn khổ quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nhất trí cao với vai trò và tầm quan trọng của Đề án, phát biểu hoàn thiện nội dung Đề án, các đơn vị tham dự đề nghị chú trọng vào việc tăng cường năng lực thể chế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực môi trường; có cơ chế khuyến khích các chuyên gia trong và ngoài nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; quan tâm thu hút khối tư nhân tham gia chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực môi trường…
Phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp, Thứ trưởng Lê Công Thành cho rằng, trong thời gian qua, hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường nói riêng đã góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam với vai trò là một thành viên tích cực, có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế; đồng thời mang lại những lợi ích về nhiều mặt cho đất nước.
Ngày nay, việc hội nhập này tiếp tục diễn biến theo theo xu thế sâu hơn về nội dung và mức độ, rộng hơn về phạm vi và hình thức. Thứ trưởng cho rằng, đây cũng vừa là cơ hội, tiềm năng; nhưng cũng vừa là thách thức đối với nước ta, do vậy việc chủ động xây dựng và triển khai một chương trình tổng thể, toàn diện nâng cao năng lực hội nhập quốc tế đối với các lĩnh vực tài nguyên và môi trường, trong đó có lĩnh vực môi trường có vai trò rất quan trọng; không chỉ nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước, mà còn giúp các doanh nghiệp phát triển và hội nhập quốc tế.
Bàn Về Hội Nhập Quốc Tế
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới do sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, cũng như các mối liên kết ngày càng chặt chẽ và trao đổi ngày càng mở rộng giữa các quốc gia, các tổ chức và cá nhân trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trước hết và chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế, đặc biệt về thương mại do trong thương mại, tác động qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia diễn ra thường xuyên và rõ nét nhất.
Tuy còn nhiều tranh cãi về nhận thức, song nhiều học giả đã nhất trí cho rằng tính đến nay toàn cầu hóa đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu vào Thế kỷ XV; Giai đoạn thứ hai bắt đầu khoảng 400 năm trước. Chúng ta đang sống trong Giai đoạn thứ ba manh nha từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và phát triển đậm nét từ những năm 1970 với những đặc điểm sau: 1) cách mạng khoa học – công nghệ bùng nổ với những thành tựu kỳ diệu, đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh và mạnh; 2) từ những năm cuối thế kỷ XX xuất hiện nhiều vấn đề lớn toàn cầu, trở thành những vấn đề an ninh phi truyền thống – như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, suy thoái môi trường… mà bất cứ một nước đơn lẻ nào, dù mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết được nếu không có sự gắn kết, hợp tác giữa các quốc gia.
Do đó, toàn cầu hóa là một hiện tượng khách quan, một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển cũng như quan hệ quốc tế của các quốc gia, mang lại cả cơ hội lẫn thách thức, cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực. Chính sự phát triển của toàn cầu hóa đã đặt các quốc gia, bất kể giàu hay nghèo, lớn hay nhỏ trước yêu cầu phải hội nhập quốc tế để tranh thủ điều kiện cho phát triển. Vì vậy, có thể nói toàn cầu hóa là căn cứ của hội nhập, và hội nhập là phương tiện để các quốc gia giành cơ hội cho sự phát triển của chính mình và góp phần vào sự phát triển của cộng đồng. Có lẽ vì thế đầu năm 1999, Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos đã khẳng định toàn cầu hóa không chỉ là “xu thế” mà đã là một “thực tế” trong đời sống quốc tế.
Không mấy ai hiểu đầy đủ khái niệm hội nhập quốc tế. Tranh luận vẫn tiếp diễn với ba cách tiếp cận khác nhau: cách thứ nhất theo chủ nghĩa liên bang, tức là xem hội nhập là sản phẩm cuối cùng chứ không phải là một quá trình, với quan tâm chủ yếu dành cho thể chế; cách tiếp cận thứ hai thể hiện ở sự liên kết giữa các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, thư tín, thông tin, du lịch, đào tạo… trong một cộng đồng an ninh hợp nhất như Hoa Kỳ, hay cộng đồng an ninh đa nguyên như Liên minh châu Âu (EU); và cách tiếp cận thứ ba xem hội nhập dưới góc độ là hành vi mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác giữa các chủ thể với nhau.
Hội nhập quốc tế – cơ hội, đi kèm thách thức
Hội nhập quốc tế diễn ra không chỉ trên cấp độ toàn cầu, mà còn ở nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao dưới danh nghĩa “liên kết” hoặc “nhất thể hóa” như liên kết tiểu khu vực, liên kết khu vực, liên kết liên khu vực, liên kết liên châu lục, liên kết trên bình diện song phương hoặc đa phương. Hội nhập quốc tế thực chất là hợp tác nhưng ở trình độ cao hơn, đáp ứng những đòi hỏi chặt chẽ hơn như gắn kết với nhau, chia sẻ với nhau lợi ích, nguồn lực, quyền lực; tuân thủ các quy tắc chung, luật chơi và chuẩn mực chung theo một quá trình phát triển liên tục từ thấp đến cao, với những hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực hoặc từng cơ chế hội nhập. Hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ đó mở rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Cũng có một số trường hợp hội nhập không bắt đầu từ kinh tế, mà bắt đầu từ chính trị hay văn hóa như trường hợp gia nhập LHQ, hay trường hợp Việt Nam gia nhập ASEAN, nhưng trong quá trình phát triển, kinh tế vẫn chiếm vị trí trọng tâm.
Theo những quy tắc nêu trên, thời gian sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện một loạt các tổ chức mang tính liên kết khu vực như: Cộng đồng kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribe và Thị trường chung CARICOM, Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), tổ chức ASEAN… Thực tế cho thấy ngày nay không một quốc gia nào có thể “đơn thương độc mã” trên con đường phát triển. Dù phải chấp hành những quy tắc chung, thậm chí có lúc phải hy sinh một số quyền lợi dân tộc nào đó…, nhưng khu vực nào, quốc gia nào biết tranh thủ những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, tận dụng cơ hội, dám đương đầu kiên quyết với thách thức, phát huy thế mạnh của mình trong tiến trình hội nhập thì sẽ phát triển vượt bậc. Những bước phát triển thần kỳ của “bốn con hổ châu Á” (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hong Kong) là minh chứng cụ thể cho thế giới thấy rằng, chẳng có quốc gia nào trên hành tinh này là không có triển vọng nếu biết khai thác tiến trình hội nhập. Cựu Tổng thư ký LHQ Kofi Annan cũng nhận xét chính xác là, những nước kém phát triển không thực thi hội nhập là “kẻ thua cuộc”, “bị bỏ rơi” trong thế giới bất bình đẳng hôm nay.
Qua thực tiễn diễn ra trên thế giới hội nhập, cũng như toàn cầu hóa vừa có cơ hội, vừa có thách thức, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực nên hội nhập quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa tranh thủ, vừa cạnh tranh, vừa bác bỏ, vừa đề xuất. Tác động tích cực hay cơ hội của hội nhập có thể tóm gọn trong những điểm sau: tạo điều kiện mở rộng thị trường, phát triển thương mại và các quan hệ kinh tế khác, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiến bộ hơn; cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh, trên cơ sở đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và của doanh nghiệp; tăng cường nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ-kỹ thuật; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp từng nước tiếp cận thị trường quốc tế; các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và kinh nghiệm phát triển của thế giới; tiếp thu giá trị văn hóa tiên tiến và các ưu việt của văn minh nhân loại; duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế…
Thách thức diễn ra khá gay gắt: cạnh tranh gia tăng, nếu không có cách khắc phục thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, thậm chí phá sản, nền kinh tế không phát triển được, thậm chí giảm sút; sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài tăng lên, do đó nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của tình hình quốc tế; khoảng cách giàu nghèo mở rộng nếu phân phối không công bằng; đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển, quyền lực nhà nước có thể bị thách thức, bản sắc văn hóa có thể bị xói mòn; chuyển dịch cơ cấu khó khăn ở những nơi tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại…
Các mặt tiêu cực hay bất lợi không tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống của mỗi quốc gia, nhưng gây thiệt hại nhiều hay ít cho chủ thể hội nhập tùy thuộc vào tiềm năng và khả năng đối phó của mỗi nước và suy cho cùng, lợi ích thu được vẫn lớn hơn cái giá phải trả. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế lại là sự lựa chọn của hầu hết các quốc gia. Các chuyên gia cho biết, chỉ tính đến năm 2011 đã có hơn 500 hiệp định về mậu dịch khu vực (RTA) được ký kết, hơn 100 liên minh thuế quan được thiết lập. Đặc biệt từ những năm cuối 1990 đến nay, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch tự do song phương và đa phương (BFTA) phát triển mạnh do bế tắc của vòng đàm phán Doha. BFTA có ưu thế là đàm phán không phức tạp lắm, nhanh chóng đạt được kết quả và thực hiện cũng thuận lợi hơn. Xu thế này hiện đang chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi lớn cấu trúc của hệ thống thế giới hiện nay.
Thực tiễn cho thấy hội nhập quốc tế diễn ra chủ yếu trên bốn lĩnh vực chính: hội nhập kinh tế là trọng tâm, là đòn bẩy thúc đẩy các lĩnh vực khác hội nhập; hội nhập trên các lĩnh vực khác lại tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hội nhập kinh tế phát triển và thành công; hội nhập chính trị bằng cách tham gia các tổ chức chính trị sẵn có như việc gia nhập LHQ, hay Việt Nam tham gia ASEAN để hoạt động vì nghĩa vụ quốc tế và nhằm nâng cao vai trò vị thế của quốc gia ở khu vực và trên thế giới; hội nhập an ninh-quốc phòng nhằm góp phần củng cố hòa bình, ổn định cho nước mình và cho khu vực; góp phần bảo vệ Tổ quốc… với nhiều hình thức đa dạng; và hội nhập văn hóa-xã hội là hợp tác để chia sẻ giá trị, giới thiệu bản sắc của đất nước và dân tộc mình, tranh thủ những ưu việt của văn hóa và văn minh nhân loại để làm giàu thêm nền văn hóa của nước mình.
Việt Nam với hội nhập quốc tế
Với tư cách là một thành viên của cộng đồng các quốc gia, Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình phát triển này, không thể không hòa mình vào xu thế chung của thế giới. Tư tưởng hội nhập đến với Việt Nam từ rất sớm. Trong lời kêu gọi LHQ (12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), trong đó khẳng định “đối với các nước dân chủ, VNDCCH sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”, cụ thể là “dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của LHQ”. Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay. Sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn, đất nước thống nhất, vượt qua một số năm khó khăn do khủng hoảng kinh tế – xã hội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta tuy lúc đó chưa đề cập đến khái niệm “hội nhập”. Đại hội đã nhận định, “Cách mạng khoa học – kỹ thuật là đặc điểm nổi bật của thời đại”, có vai trò ngày càng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong cục diện mới của thế giới, và khẳng định, nếu “đóng cửa hay khép kín nền kinh tế nội địa sẽ là nguy cơ tụt hậu”. Từ đó, Đại hội chủ trương “tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới hợp tác kinh tế và khoa học-kỹ thuật”, tham gia rộng rãi vào sự phân công hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.
Có thể nói với nhận thức của Đảng ta về tình hình mới và việc để ra chủ trương này, tư duy hội nhập quốc tế đã bắt đầu hình thành. Tư duy này được củng cố thêm bằng quyết định của Đại hội Đảng lần thứ VII “thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, (sau này trong quá trình phát triển chuyển thành “sẵn sàng là bạn” và cuối cùng khẳng định “là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới”). Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, khái niệm “hội nhập” được chính thức đề cập cùng với chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới” hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực. Tăng cường hoạt động ở LHQ, trong Cộng đồng các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác”.
Từ sau Đại hội VII, thực hiện các chủ trương nêu trên song song với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt nước, ta đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, mở đầu bằng hội nhập khu vực: gia nhập ASEAN và ngay sau đó tham gia AFTA (Liên minh kinh tế ASEAN) năm 1995, tiếp đó hội nhập liên khu vực, liên châu lục thông qua việc tham gia ASEM năm 1996 với tư cách là một thành viên sáng lập và tham gia APEC năm 1998. Đồng thời từ đầu năm 1996, ta đã bắt đầu đàm phán với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và sau 10 năm đàm phán căng thẳng, ngày 01/01/2007 ta trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức kinh tế toàn cầu này.
Sau khi đã hội nhập ở hai cấp độ (khu vực và liên khu vực), Đại hội IX (2001) đề ra chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” và tháng 11/2011 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Với những thành công đạt được trong việc triển khai Nghị quyết 07-NQ/TW của BCT (khóa IX), Đại hội khóa X tiếp tục khẳng định “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, đồng thời “mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”, nhấn mạnh chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, còn đối với các lĩnh vực khác chỉ mới chủ trương mở rộng hợp tác.
Trong thời gian này trên lĩnh vực đối ngoại, ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với một số nước, đến nay quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã được thiết lập với 14 nước bao gồm tất cả 5 nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ.
Đến Đại hội XI (2011) khi quan hệ của nước ta với cộng đồng thế giới đã ngày càng mở rộng, ta đã có quan hệ ngoại giao với 181 nước trên thế giới, quan hệ kinh tế thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những thành tựu nổi bật. Ta đã hội nhập kinh tế ở cấp độ toàn cầu, hợp tác văn hóa – xã hội đã được tăng cường, hợp tác an ninh quốc phòng đã được xác lập và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, ta đã là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng, trên cơ sở đó vị thế quốc tế của nước ta đã được nâng cao trên trường quốc tế, các nước đã thừa nhận ta là một đối tác tin cậy, Đại hội đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Tháng 4/2013, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22 về vấn đề này.
Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã được ghi trong Cương lĩnh sửa đổi năm 2011 và trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013.
Như vậy là qua 18 năm kể từ khi gia nhập ASEAN (1995) đến nay (2013), đi từ hợp tác đến liên kết, hội nhập, từ hội nhập khu vực, liên khu vực đến hội nhập kinh tế toàn cầu, tiến hành từng bước vững chắc cả trong việc đề ra chủ trương lẫn trong thực tiễn hành động, Đảng ta mới đi đến quyết định chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đưa hội nhập của Việt Nam sang một giai đoạn mới – hội nhập toàn diện, hội nhập trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế sâu hơn, hiệu quả hơn, góp phần tích cực và có hiệu quả phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điều này cho thấy tinh thần vừa sáng tạo, vừa cân nhắc thận trọng, đi từng bước vững chắc trong đề xuất chủ trương cũng như trong hành động thực tiễn thắm đượm bản sắc Việt Nam, đồng thời thể hiện ý chí và quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong chủ trương hội nhập quốc tế. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, hội nhập là một quá trình phấn đấu kiên trì để nước ta trở thành một bộ phận cấu thành có vị trí, có vai trò xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trong các mối quan hệ đa diện, đa dạng và đa tầng nấc với nhiều loại chủ thể khác nhau, vừa quan tâm đúng mức đến lợi ích cộng đồng. Đó cũng là sự vận dụng sáng tạo và thành công bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, bài học đã từng đưa dân tộc ta đến những chiến thắng huy hoàng.
Hội nhập quốc tế trong tình hình thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tuy thành tựu đạt được là rất quan trọng, nhưng ta còn nhiều mặt yếu kém cần khắc phục, nhất là tư duy hội nhập chưa được quán triệt đầy đủ, khả năng cạnh tranh tuy có ít nhiều tiến bộ nhưng còn yếu kém.
Để phát huy thành tựu, khắc phục những tồn tại yếu kém, thực hiện hội nhập có kết quả, khác với thời kỳ trước đây khi ta hội nhập kinh tế quốc tế là chính, nay chuyển sang hội nhập quốc tế toàn diện bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng… với sự tham gia của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, cần có một chiến lược tổng thể, dài hạn trên cơ sở tổng hợp khả năng và yêu cầu của các ngành và các địa phương, xác định lộ trình và cấp độ hội nhập bởi vì trong quá trình triển khai hội nhập, có ngành, có lĩnh vực hay địa phương mới tham gia liên kết khu vực, có ngành, có lĩnh vực đã đi ngay vào hội nhập ở cấp độ toàn cầu. Trên cơ sở có chiến lược dài hơi, có lộ trình thích hợp, ta mới thực hiện được phương châm chủ động và tích cực như yêu cầu của Nghị quyết 22-NQ/TW của BCT.
Hội nhập quốc tế là con đường hai chiều, giống như trong công nghệ thông tin cần có sự tương thích giữa đầu trong và đầu ngoài. Hội nhập không phải là mục tiêu cuối cùng, nó chỉ là phương tiện góp phần quan trọng vào việc bảo đảm mục tiêu tối hậu là lợi ích quốc gia, phát triển và bảo vệ đất nước. Do đó phải thực hiện đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là “hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực”. Do đó trong hội nhập không phải chỉ nghĩ đến việc ta hợp tác cái gì, với ai cho có lợi (tất nhiên trong hội nhập phải tìm những điểm giao thoa về lợi ích giữa ta và đối tác- đối tác có thể ít, có thể nhiều- thì mới thỏa đáng và mới có hiệu quả) mà điều rất quan trọng là phải khắc phục những điểm yếu của ta, làm cho ta mạnh lên. Để củng cố và phát huy tối đa nội lực, ta phải ra sức thực hiện ba khâu đột phá chiến lược đã được nêu tại Đại hội lần thứ XI của Đảng, tức là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển nhanh nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ. Đây cũng chính là một phần quan trọng trong đổi mới tư duy, hình thành tư duy hội nhập.
Ta hội nhập quốc tế trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một vấn đề chưa có tiền lệ và khác với nhiều nước. Nhưng đã hội nhập, ta phải thực hiện các cam kết quốc tế, phải chấp hành các quy tắc đã định, phải hoạt động trên một sân chơi chung, do đó quá trình hội nhập là một quá trình điều chỉnh luật pháp trên cơ sở thỏa hiệp, có trường hợp phải đấu tranh, để có thể vừa theo quy tắc chung, vừa giữ được nguyên tắc của ta mà không gây thiệt hại cho ta; cũng có trường hợp không có cách nào thỏa hiệp được khi quy tắc chung đi ngược lại nguyên tắc và lợi ích của ta, gây thiệt hại cho ta thì phải tính toán kỹ, cân nhắc, so sánh nếu cái lợi thu hoạch được ở các mặt khác lớn hơn thiệt hại ta phải chịu thì ta có thể chấp nhận. Hội nhập là một xu thế lớn (theo Diễn đàn Davos là một thực tế) khó có ai được lợi 100%, không bị thiệt hại gì, chung cuộc làm sao cái lợi nhiều hơn cái thiệt, lợi càng nhiều càng tốt vì hội nhập là một quá trình như trên đã nói vừa hợp tác, vừa đấu tranh để kiên định lợi ích quốc gia dân tộc. Trong quá trình hội nhập, ta không thể bị động, mà cần phải phát huy sáng kiến, chủ động đề xuất ý kiến để điều chỉnh một số quy tắc đã định trên cơ sở vừa bảo đảm lợi ích của ta, vừa quan tâm, chiếu cố đến lợi ích của Cộng đồng, của các đối tác, các chủ thể hội nhập khác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, hội nhập quốc tế là hoạt động chứa đựng tất cả những yếu tố chủ yếu của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ độc lập, tự chủ đến rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, từ hòa bình, hữu nghị đến hợp tác và phát triển. Do đó các chủ thể tham gia hội nhập phải nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, vận dụng kiên định đường lối đó trong quá trình hội nhập. Đồng thời cần nắm vững xu thế lớn, xu thế chủ đạo của thời đại là “hòa bình, hợp tác và phát triển” để yên tâm hội nhập, vì hội nhập quốc tế phù hợp với xu thế đó của thời đại.
Vài gợi ý về ngành Ngoại giao trong hội nhập quốc tế
Trong các văn kiện cơ bản của Đảng và Nhà nước như Cương lĩnh (sửa đổi năm 2011), Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013), Nghị quyết của Đại hội Đảng, các văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, BCT, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ… khi đề cập đến đường lối đối ngoại hay nhiệm vụ đối ngoại đều nhấn mạnh “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, là một bộ phận cấu thành quan trọng của đường lối và nhiệm vụ đối ngoại nói chung.
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (giữa) trò chuyện với các Đại biểu dự Hội nghị Ngoại giao 26.
Do tính chất quan trọng của Hội nhập quốc tế (toàn diện) nên BCT đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng đứng đầu nhằm chỉ đạo, phối hợp hoạt động hội nhập quốc tế từ trung ương đến địa phương.
Từ trước tới nay, Bộ Ngoại giao là cơ quan chính thực hiện đường lối đối ngoại về mặt nhà nước với hai chức năng chủ yếu: Thứ nhất, làm tham mưu cho Đảng và Chính phủ, nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách đối ngoại; Thứ hai, thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại của các Bộ, ngành và các địa phương (thực chất là một số địa phương có ít nhiều hoạt động đối ngoại) trong sự kết hợp chặt chẽ với Ban đối ngoại TW Đảng và cơ quan chịu trách nhiệm về ngoại giao nhân dân; phối hợp và điều hòa, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động đối ngoại của các Bộ, ngành và các địa phương cho phù hợp với đường lối đối ngoại chung. Do hoạt động đối ngoại bao gồm cả đối ngoại chính trị, đối ngoại kinh tế và đối ngoại văn hóa trong khi phân công chưa thật rõ ràng, nên thời gian qua không ít trường hợp Bộ Ngoại giao phải làm thay, nhất là về văn hóa – xã hội.
Nay theo Quyết đinh 22-QĐ/TW của BCT phải đẩy mạnh hội nhập quốc tế (toàn diện), Ngoại giao cần tập trung vào vấn đề Hội nhập quốc tế với hai chức năng nêu trên. Cụ thể là về: Một là tham mưu về chủ trương, phương hướng, lộ trình hội nhập quốc tế để Ban chỉ đạo quốc gia hướng dẫn các Bộ, ngành và các địa phương; Hai là giúp Ban chỉ đạo theo dõi, thống nhất quản lý, điều hòa và phối hợp hoạt động hội nhập của các Bộ, ngành và các địa phương. Chức năng này so với trước đây mở rộng hơn, nhiều hơn và phức tạp hơn.
Ngoài ra, Bộ Ngoại giao có điều kiện theo dõi và nắm bắt tình hình quốc tế kịp thời nên có thể cung cấp thông tin cần thiết, nhất là về biến động trong tình hình quốc tế cho Ban Chỉ đạo và các chủ thể hội nhập.
Nguyễn Mạnh CầmNguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
Tăng Cường Sinh Lực, Tráng Dương
Mô tả sản phẩm
Giới thiệu về rượu:
Hoa Anh Túc
Rượu hoa anh túc được dân nhậu dùng ngay tên của Kế hoạch 138 mà lãnh đạo tỉnh Yên Bái giao cho hai cơ quan ban ngành là: Sở Nông nghiệp và Công an tỉnh cùng với các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải kiểm soát, xử phạt những người trồng cây thuốc phiện. Bởi vậy “Rượu 138” hay còn gọi là rượu ngâm anh túc – rượu thuốc phiện đều là một
Tác dụng của rượu:
Rượu Hoa Anh Túc
Đối với hệ hô hấp: Morphin là một chất ức chế mạnh và cao đối với hệ hô hấp. Liều có tác dụng đối với hệ hô hấp nhỏ hơn là liều giảm đau. Cơ chế của hậu qủa này là do sự cảm nhận thấp của hệ thần kinh hô hấp đối với mức độ của Carbon Dioxid. Dấu hiệu ức chế hô hấp bao gồm thở nhanh và thở dốc. Nếu dùng qúa liều hô hấp có thể trở nên khó khăn và có thể ngưng hô hấp. Tác dụng của Codein đối với hệ hô hấp yếu hơn là Morphin. Morphin cũng ức chế cơn ho với lều nhỏ hơn liều dùng để giảm đau. Codein có tác dụng long đờm yếu hơn nhưng thường được dùng nhiều hơn vì ít tác dụng phụ.
Đối với hệ tuần hoàn: Morphin gây ra gĩan mạch ngoại vi và giải phóng Histamin có thể dẫn đến huyết áp thấp. Vì thế phải dùng rất cẩn thận đối với bệnh nhân mệt lả do thiếu máu.
Đối với vết vị trường: Morphin dùng với liều rất thấp gây ra bón do nó làm tăng trương lực và giảm sự thúc đẩy co cơ trong thành ruột đồng thời làm giảm dịch nội tiết tiêu hóa. Ngoài ra, nó gia tăng sức ép trong ống mật. Những hậu qủa này gây ra ói mửa, bụng đau cơn đau mật. Codein tác dụng yếu hơn đối với vết vị trường.
Đối với hệ sinh dục niệu: Morphin gia tăng trương lực nơi đường tiểu và cơ bàng quang.
Rượu Hoa Anh Túc
Thành phần rượu thuốc phiện:
Nhựa thuốc phiện, alcaloid (morphin, codein, papaverin…).
Công dụng:
Hỗ trợ điều trị chứng bất lực, liệt dương và yếu sinh lý.
Kéo dài cuộc yêu và đạt được thăng hoa.
Giúp tăng cường sinh lý ở nam giới.
Quy cách đóng gói:
Tất cả sản phẩm thuốc của chúng tôi đều được hút chân không, dán nhãn chúng tôi phân phối tại Việt Nam và có tem chống hàng giả, hàng nháy.
Liều lượng và cách sử dụng:
Thuốc được sắc hoặc ngâm rượu. Cách sắc như sau: 01 thang thuốc sắc từ 2 – 3 lần, mỗi lần sắc đổ 03 chén nước(bát nước) vào nồi sắc cô đặc lấy 01 chén nước để uống.
Mỗi lần điều trị ít nhất 10 thang thuốc (20 ngày). Sau 20 ngày khách hàng có thể đến các cơ sở y tết để kiểm tra hoặc theo dõi phản ứng của cơ thể để xem bệnh tình đã thuyên giảm hay khỏi hẳn chưa để có kế hoạch điều trị.
Thuốc không có tác dụng phụ, có thế uống duy trì lâu dài và uống kết hợp vài loại thuốc khác.
Cam kết và liên hệ:
Chúng tôi cam kêt 100% thuốc được nhập khẩu
Bệnh không thuyên giảm xin hoàn lại tiền.
Lưu ý:
Tùy theo độ tuổi, cơ địa, tình trạng bệnh của mỗi người, thuốc sẽ có tác dụng khác nhau. Ví dụ: vài người có tuổi, chức năng cơ thể suy giảm thì phải sử dụng thuốc kiên trì, thậm chí duy trì lâu dài
Giá tiền: 900.000 vnđ / lít. Cam kết rượu nguyên chất nước nhất, rượu khoai, rượu sắn, nồng độ 45 độ
Giao thuốc và thu tiền tại nhà: Liên hệ nhân viên kinh doanh Mrs Nụ 0979.272.888
Tham khảo các loại thuốc khác có tại thuocyhocdantoc.com:
CAM KẾT HOÀN LẠI TIỀN NẾU BỆNH KHÔNG THUYÊN GIẢM SAU QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Khuyến cáo
– Thuốc dân tộc cổ truyền được làm từ các loại cây cỏ, thảo dược. Có thể uống kết hợp với các loại thuốc khác mà không gây tác dụng phụ hay phản ứng hóa học. và do đó cũng gần như không phải kiêng khem trong quá trình sử dụng thuốc.
– Việc điều trị dứt điểm bệnh phụ thuộc vào cơ địa của từng người, tình trạng bệnh lý và quan trọng nhất vẫn là xác định đúng bệnh, uống đúng loại thuốc. Thông thường một thang thuốc được kết hợp từ nhiều loại thảo dược khác nhau, vậy nên ngoài đặc trị bệnh cần chữa thì thuốc còn có lợi cho các cơ quan chức năng khác trong cơ thể. Có thể nói nếu thuốc không có tác dụng cho chức năng này thì vẫn sẽ có tác dụng cho chức năng khác trong cơ thể, vì vậy người dùng có thể hoàn toàn yên tâm khi sử dụng thuốc. – Đối với các bệnh mãn tính, bệnh nặng, người bệnh cần đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế. Trong quá trình điều trị Tây y cần theo dõi, kiểm tra tình trạng bệnh thường xuyên. Không nên để bệnh tình chuyển biến nặng, ngoài gây khó khăn cho việc điều trị, gây nguy hiểm đến tính mạng thì nó còn dễ gây biến chứng khác cho cơ thể. – Điều trị Tây y có tác dụng ngay tức thời và được khuyến cáo cho những trường hợp bệnh nặng. Tuy nhiên nếu dùng thuốc Tây trong một thời gian dài ngoài việc tốn kém thì thuốc sẽ gây ra các tác dụng phụ không mong muốn như nhờn thuốc, suy nhược cơ thể, ảnh hưởng đến các chức năng khác trong cơ thể như dạ dày, thần kinh… Phương pháp điều trị cổ truyền chỉ có tác dụng về lâu dài, nó tương tự như một liều thuốc bổ cho các chức năng trong cơ thể. Nếu như thuốc Tây thường chỉ có thành phần hóa học nhất định để tập trung vào việc chữa chức năng cơ thể nhất định bị tổn thương thì thuốc thảo dược thường được kết hợp từ nhiều vị thuốc khác nhau. Trong một số trường hợp nếu duy trì uống thuốc trong một thời gian dài, thuốc y học cổ truyền vẫn có thể chữa được một số bệnh mà thuốc Tây y không chữa được dứt điểm.
Nguồn Nhân Lực Du Lịch Trong Hội Nhập Quốc Tế Sâu Và Toàn Diện
YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày một sâu và toàn diện, để đẩy mạnh phát triển du lịch trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, cần nhận thức một cách đầy đủ hơn những giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người trong hoạt động du lịch. Phải thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động về nguồn nhân lực du lịch và coi việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong hoạt động du lịch như một cuộc cách mạng.
Nói đến nguồn nhân lực du lịch là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình phát triển du lịch và kinh tế – xã hội. Nguồn nhân lực ấy không phải là chủ thể biệt lập riêng rẽ một cá nhân hay một tập thể, mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất cả về tư tưởng và hành động. Nguồn lực này là tổng hợp những chủ thể trong từng lĩnh vực du lịch, nhưng không phải là tập hợp giản đơn số lượng các cá nhân hoặc tập thể mà là sự tổng hợp của chỉnh thể nhân lực trong hành động, tạo thành một sức mạnh chung. Sức mạnh đó bắt nguồn trước hết là những phẩm chất văn hóa vốn có bên trong của mỗi chủ thể và được nhân lên gấp bội trong thực tiễn hoạt động du lịch. Vì vậy khi nói nguồn nhân lực du lịch với vai trò động lực của quá trình phát triển du lịch là nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trình đó và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển; đồng thời hạn chế tối đa mặt tiêu cực và hạn chế của nguồn nhân lực du lịch.
Vai trò của nguồn nhân lực du lịch trong việc biến nguồn lực phát triển du lịch ở dạng tiềm năng thành hiện thực ngày càng được khẳng định. Đội ngũ nhân lực du lịch có trách nhiệm dự báo, sáng tạo, dẫn dắt và hướng dẫn cộng đồng trở thành lực lượng sáng tạo các giá trị du lịch mới, chứ không chỉ là đối tượng khai thác, hưởng thụ. Đội ngũ nhân lực du lịch phải là lực lượng xung kích, giúp đỡ, hướng dẫn nhân dân nắm được và ứng dụng khoa học và công nghệ vào công việc; bám sát đời sống thực tiễn, tích cực tham gia xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao trí tuệ và thể chất cho nhân dân, làm cho dân giàu, tạo điều kiện hội nhập, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò tiên phong trong sáng tạo các giá trị du lịch của chuỗi phân công lao động quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện. Bản thân các cá nhân và đội ngũ nhân lực du lịch vừa là chủ thể có khả năng tích hợp và phát huy toàn bộ sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa là khách thể tiếp nhận và phát huy những tinh hoa và kinh nghiệm tiên tiến trong phát triển du lịch của thế giới để phát triển du lịch bền vững.
55 năm qua, cùng với sự lớn mạnh không ngừng của Ngành, nhân lực du lịch Việt Nam cũng tăng về quy mô, nâng cao về chất lượng và hợp lý hóa dần về cơ cấu. Số lượng nhân lực du lịch khi thành lập Ngành chỉ khoảng vài chục nghìn người, sau 55 năm đã lên tới 620.000 lao động trực tiếp; nếu tính cả nhân lực gián tiếp thì tổng nhân lực du lịch là 1.984.000 người. Điều này phản ánh vai trò ngày càng tăng của ngành Du lịch và tính hiệu quả của xã hội hóa hoạt động du lịch. Nhân lực du lịch có trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng chiếm 47,3% nhân lực được đào tạo, dạy nghề, bằng 19,8% nhân lực toàn Ngành; có trình độ đào tạo đại học và sau đại học về du lịch chiếm 7,4% nhân lực có chuyên môn du lịch, bằng 3,2% tổng nhân lực; có trình độ qua truyền nghề chiếm 45,3% nhân lực có chuyên môn, bằng 19,4% tổng nhân lực du lịch. Như vậy, nhân lực được đào tạo, dạy nghề đạt khoảng 42,3% tổng nhân lực du lịch, có tay nghề và ngoại ngữ và tin học đáp ứng yêu cầu phục vụ du khách. Nhân lực du lịch nữ có tỷ trọng cao hơn so với nam, chiếm 55,6% và dần có xu hướng tăng lên. Nhân lực kế cận và nhân lực đang làm việc của ngành Du lịch đang ở độ “vàng”, đủ đảm bảo gánh vác nhiệm vụ phát triển Ngành; cơ cấu theo độ tuổi hợp lý, đủ khả năng chuyển giao giữa các thế hệ.
Nguồn nhân lực du lịch đã đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển Ngành trong 55 năm qua; bước đầu xây dựng được thương hiệu Du lịch Việt Nam và những sản phẩm du lịch mang lại giá trị mới cho đất nước. Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý nhà nước, nghiên cứu, đào tạo, quản trị kinh doanh ngày một nâng cao. Bên cạnh những cán bộ công tác lâu năm, có nhiều cống hiến và những nhà khoa học, chuyên gia, nghệ nhân tuy tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo và cống hiến, đã xuất hiện những lao động trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, tự tin, dám nghĩ, dám làm, trình độ nhiều mặt và năng lực, cống hiến ngày một nâng cao, cố gắng tìm tòi cái mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH TRONG THỜI KỲ MỚI
Trong thời đại hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày một sâu và toàn diện, đặc biệt là cuối năm 2015 với sự ra đời của Cộng đồng ASEAN trên cả ba trụ cột kinh tế, an ninh và văn hóa – xã hội, ngành Du lịch Việt Nam vừa có cơ hội, vừa gặp thách thức trong quá trình phát triển với cơ chế hợp tác gắn liền với cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, vốn nhân lực có tri thức cao, tay nghề giỏi và lương tâm nghề nghiệp tốt, tức là đủ năng lực thực hiện, đã trở thành nhân tố quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của ngành Du lịch. Muốn vậy, phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực du lịch hơn nữa và bản thân nguồn nhân lực du lịch cũng phải tự đổi mới, theo 4 quan điểm chính sau đây:
Một là, xuất phát từ công cuộc đổi mới và đáp ứng mục tiêu Chiến lược phát triển ngành Du lịch; ưu tiên đặc biệt nhằm tạo sự phát triển vượt bậc của nhân lực du lịch, để phát huy vai trò là yếu tố quyết định sự phát triển du lịch; biến thành lợi thế quốc gia và năng lực cạnh tranh để hội nhập quốc tế vững chắc, có hiệu quả và gắn kết với thị trường lao động du lịch khu vực và thế giới.
Hai là, hình thành đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng; đảm bảo về chất lượng đa tầng, đa cấp, có năng lực nhanh chóng thích ứng với nhu cầu phát triển du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tình hình thế giới không ngừng thay đổi; hợp lý, cân đối về cơ cấu ngành nghề, vùng, miền, dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch gắn với phát triển kinh tế, xã hội và đặc điểm vùng, miền.
Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong phát triển nguồn nhân lực; kết hợp hài hòa giữa đảm bảo phúc lợi xã hội với sử dụng tính tích cực của cơ chế thị trường và hiệu quả kinh tế – xã hội, đảm bảo bình đẳng về cơ hội phát triển nhân lực du lịch cho tất cả các dân tộc và nhóm xã hội. Coi trọng đào tạo nghề; quan tâm hơn đến truyền nghề, đào tạo tại chỗ; ưu tiên phát triển nhân lực bậc cao và nhân lực du lịch ở các vùng chưa phát triển, vùng dân tộc thiểu số.
Bốn là, xã hội hóa, phát huy trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó ngành Du lịch là nòng cốt. Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô, định hướng, thực hiện các chương trình giáo dục hướng nghiệp và giáo dục toàn dân về du lịch, hỗ trợ bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực hiện công bằng xã hội trong phát triển nhân lực du lịch. Đào tạo, dạy nghề du lịch do người lao động và người sử dụng lao động thực hiện là chính.
Đến năm 2020 phải cơ bản giải quyết đủ về số lượng, đảm bảo được chất lượng và hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền để đáp ứng nhu cầu nhân lực du lịch trong nước và tham gia xuất khẩu lao động làm du lịch; phấn đấu đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và một số mặt tiếp cận trình độ các nước tiến tiến trên thế giới; khẳng định nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững ngành Du lịch, góp phần đưa nước ta trở thành một trong những trung tâm du lịch hàng đầu trong khu vực.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, trong 10 năm tới cần tập trung thực hiện 7 nhiệm vụ chính như sau: 1) Tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch; 2) Xây dựng tiêu chuẩn (tập trung vào tiêu chuẩn nghề) và thực hiện chuẩn hóa một bước nhân lực du lịch, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện cho hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch; 3) Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề và bồi dưỡng về du lịch đảm bảo liên kết chặt chẽ và cân đối giữa các bậc đào tạo, dạy nghề, giữa các ngành, nghề và phân bố vùng, miền hợp lý phù hợp với Chiến lược phát triển Du lịch quốc gia; 4) Xây dựng, công bố và thực hiện chuẩn trường để nâng cao năng lực đào tạo, dạy nghề, bồi dưỡng du lịch và giáo dục du lịch toàn dân; 5) Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến vào công tác nghiên cứu, thống kê phục vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch; 6) Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực (tài chính, công nghệ, công sức và kinh nghiệm) trong và ngoài nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch; và 7) Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch. Trong đó khâu đột phá là xây dựng và thực hiện chuẩn hóa một bước nguồn nhân lực du lịch, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện cho hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch là quan trọng.
Thực hiện tốt 7 nhiệm vụ chính thông qua 29 giải pháp sẽ tạo được nguồn nhân lực du lịch không chỉ đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp phát triển du lịch với vai trò một ngành kinh tế mũi nhọn mà còn vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện.
TS. Nguyễn Văn Lưu
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tăng Cường Năng Lực Hội Nhập Quốc Tế Lĩnh Vực Môi Trường trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!