Top 6 # Xem Nhiều Nhất Khái Niệm Giá Trị Vốn Hóa Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Khái Niệm “Vốn Văn Hóa” Của Pierre Bourdieu

2. Khái niệm vốn văn hóa được Bourdieu sử dụng từ những năm 1960 trong quá trình nghiên cứu về xã hội học giáo dục. Đến năm 1986, trong một công trình tổng kết lại về các hình thức của vốn, Bourdieu đã trình bày có hệ thống hơn về hai khái niệm vốn văn hóa và vốn xã hội. Trong đó, ông xem vốn văn hóa là hệ thống các thành tố văn hóa có thể luân chuyển và tạo ra những giá trị trao đổi trong quá trình phát triển, là một hình thức “tư bản văn hóa”. Theo đó, vốn văn hóa tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu là: i – Trạng thái thể hiện ( Embodied state), là các yếu tố văn hóa được thể hiện qua chủ thể của nó, tức là con người, là những yếu tô tồn tại hiện hữu và lâu dài trong tâm trí và cơ thể của con người chủ thể văn hóa. Nói cách khác thì vốn văn hóa ở trạng thái thể hiện chính là tiềm lực văn hóa của con người và năng lực vận dụng các yếu tố văn hóa để tạo ra giá trị trong quá trình phát triển. Vốn văn hóa ở tráng thái biểu hiện là hệ thống yếu tố văn hóa biểu hiện qua yếu tố con người. ii – Trạng thái khách quan ( Objectified state), là hệ thống các yếu tố văn hóa ở dạng tồn tại hiện hữu khách quan ngoài con người, là những hình thức vật chất của vốn văn hóa như sách vở, công cụ, nhà cửa, trang thiết bị, máy móc… hay cả những sản phẩm trí tuệ, tinh thần như các dấu tích (trace), việc thực hành các lý thuyết (realization of theories) hay phê bình các lý thuyết (critiques of theories)… cũng là vốn văn hóa ở trạng thái khách quan. Vốn văn hóa ở trạng thái khách quan có thể là sản phẩm của cá nhân hay cộng đồng được hiện hữu và có thể sử dụng để trao đổi, luân chuyển nhằm tạo ra giá trị. iii – Trạng thái thể chế ( Institutionalized state), là những yếu tố văn hóa tổ chức thành các khuôn mẫu, định hình cho sự tồn tại và hoạt động của các yếu tố văn hóa dựa trên những khuôn mẫu đó (Bourdieu, 1986). Trong ba trạng thái này, Bourdieu nhấn mạnh vai trò của vốn văn hóa ở trạng thái thể hiện, tuy nhiên, ông cũng xác định rõ: “hầu hết các thuộc tính của vốn văn hóa có thể được rút ra từ thực tế, ở trạng thái cơ bản của nó, nó được liên kết với chủ thể văn hóa và phỏng đoán hiện thân” (Bourdieu, 1986, p. 244). Mở rộng ra, vốn văn hóa ở trạng thái thể chế là hệ thống các nguyên tắc, thể chế quy định tổ chức và hoạt động của các yếu tố văn hóa khác. Đó cũng là những giá trị chuẩn mực được xã hội, cộng đồng chấp nhận và tuân thủ.

Khái niệm vốn văn hóa trong nghiên cứu của Bourdieu là một khái niệm trìu tượng, rất khó để đặt một nội hàm cụ thể vào cho khái niệm này. Nhưng dựa trên ba hình thức tồn tại của vốn văn hóa-như Bourdieu phân tích, có thể nhìn nhận vốn văn hóa là một hệ thống các yếu tố văn hóa tồn tại khách quan hoặc thể hiện qua con người và những thể chế, khuôn mẫu quy định hay tác động đến sự tồn tại và vận động của các yếu tố văn hóa đó, và có khả năng luân chuyển, trao đổi để tạo ra những giá trị trong quá trình phát triển. Vì khái niệm này quá trìu tượng nên nhiều khi dễ hiểu nhầm và đồng nhất với khái niệm văn hóa/nền văn hóa. Nhưng cần chú ý hơn đến những khái niệm vốn của Bourdieu, ở đây đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị luân chuyển, trao đổi của vốn với tư cách là “tư bản” (capital) chứ không đơn giản là “nguồn” (source). Vốn văn hóa không chỉ tất cả các yếu tố văn hóa mà đề cập đến những yếu tố văn hóa có khả năng luân chuyển, có giá trị trao đổi và tạo ra lợi ích trong quá trình luân chuyển, trao đổi đó.

3. Khái niệm vốn văn hóa xuất hiện đầu tiên trong các nghiên cứu về xã hội học giáo dục của Bourdieu. Trong quá trình đi tìm một khái niệm lý thuyết để tiếp cận về sự phân tầng và sự bất bình đẳng trong giáo dục, Bourdieu đã xây dựng nên khái niệm này. Ông đã sử dụng khái niệm vốn văn hóa để giải thích cho tình trạng thành tích học tập không đồng đều giữa các học sinh có nguồn gốc xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Vốn văn hóa trở thành cầu nối cho mối liên hệ giữa thành tích học tập và chi phí đầu tư cho giáo dục của các gia đình. Từ vốn văn hóa được đầu tư vào quá trình giáo dục đã ảnh hưởng đến thành tích học tập của học sinh. Theo đó, thành tích học tập hay tài năng bản thân học sinh là kết quả của quá trình đầu tư thời gian và vốn văn hóa (Bourdieu, 1986). Như vậy, vốn văn hóa có vai trò quan trọng trong giáo dục và đầu tư vốn văn hóa là quá trình quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến thành tích học tập của học sinh.

Nguồn cảm hứng để Bourdieu xây dựng khái niệm vốn văn hóa và vận dụng vốn văn hóa trong nghiên cứu xã hội học là những nghiên cứu về giáo dục của Gary S. Becker[2]. Chính những phân tích về chiến lược đầu tư giáo dục và mối quan hệ giữa đầu tư kinh tế với đầu tư giáo dục (chủ yếu tạp trung vào chi phí tài chính đầu tư giáo dục và lợi nhuận thu được từ chiến lược đầu tư giáo dục) của Becker đã ảnh hưởng đến nghiên cứu vốn văn hóa trong phát triển giáo dục của Bourdieu (Bourdieu, 1986). Nhưng nếu Becker đi vào phân tích mối liên hệ trong đầu tư giáo dục với cái nhìn kinh tế nên coi nặng mục tiêu lợi nhuận của giáo dục, từ đó đi vào quan hệ trực tiếp tài chính và thành tích giáo dục; thì tiếp cận vốn văn hóa của Bourdieu có chiều sâu hơn, đi vào nguồn gốc của vấn đề và xem vốn văn hóa là một nền tảng của giáo dục và cũng từ đó ông xem sự khác biệt về vốn văn hóa tạo nên sự bất bình đẳng trong giáo dục. Ông xem vốn văn hóa là một cơ sở sản sinh xã hội và sản sinh văn hóa trong quá trình nghiên cứu các trường, quyên lực và tư tưởng giáo dục (Bourdieu, 1977).

5. Vốn văn hóa là một khái niệm trìu tượng, khó hiểu và khó vận dụng thành khung phân tích để khảo sát đối tượng nghiên cứu. Khái niệm vốn xã hội chú trọng đến mạng lưới xã hội và các mối liên hệ xã hội thì khái niệm vốn văn hóa tập trung vào trạng thái thể hiện của vốn văn hóa qua tâm trí và cơ thể của chủ thể văn hóa, vào năng lực luân chuyển, trao đổi của các yếu tố văn hóa để tạo ra giá trị cho chủ thể văn hóa. Ba trạng thái của vốn văn hóa được đưa ra trong khái niệm của Bourdieu có tính bao quát cao, nhưng không đồng nhất với các giá trị của nguồn tài nguyên văn hóa (Bourdieu, 1986). Tính trìu tượng của khái niệm vốn văn hóa một mặt mở ra khả năng vận dụng rộng lớn trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, mặt khác nó cũng tạo cho các nhà nghiên cứu tâm lý mơ hồ, khó nắm bắt để vận dụng cụ thể hay dễ bị ghép vào các yếu tố, khái niệm khác[3]. Trong bối cảnh các nền văn hóa ngày càng giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nhân loại thì những nghiên cứu về vốn văn hóa càng có vai trò quan trọng. Tiếp cận vốn văn hóa mở ra những con đường để nhận thức về việc khai thác, phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa của các cộng đồng, tộc người khác nhau.

Bennett, T. (2006): Distinction on the Box: Cultural Capital and the Social Space of Broadcasting. Cultural Trends 15, 2, 193-212.

Bourdieu, P. (1977): Cultural Reproduction and Social Reproduction, in J. Karabel and A. H. Halsey (eds) Power and Ideology in Education. New York, NY: Oxford University Press. Pp. 487-511.

Bourdieu, P. (1986): The Forms of Capital, in J. G. Richardson (ed.) Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education. New York: Greenwood Press. Pp. 241-258.

David Throsby (1999): Cultural Capital. Journal of Cultural Economics 23: 3-12, 1999.

DiMaggio, P. (1982): Cultural Capital and School Success: The Impact of Status Culture Participation on the Grades of US High School Students. American Sociological Review 47, 2, 189-201.

DiMaggio, P. and Mohr, J. (1985): Cultural Capital, Educational Attainment and Marital Selection. American Journal of Sociology 90, 6, 1231-1261.

Driessen, G. W. J. M. (2001): Ethnicity, Forms of Capital and EducationalAchievement. International Review of Education47, 6, 513-538.

Goldthorpe, J. H. (2007): ” Cultural Capital”: Some Critical Observations. Acta Sociologica 50, 3, 211-229.

Gordon Fyfe (2004): Reproductions, cultural capital and museums: aspects of the culture of copies. Museum and society, Mar 2004. 2 (1) 47-67, 2004, Gordon Fyfe. ISSN 1479-8360.

Kalmijn, M. and Kraaykamp, G. (1996): Race, Cultural Capital and Schooling: An Analysis of Trends in the United States. Sociology and Education 69, 1, 22-34.

Katsillis, J. and Rubinson, R. (1990): Cultural Capital, Student Achievement, and Educational Reproduction: The Case of Greece. American Sociological Review 55, 2, 270-279.

Lareau, A. and Weininger, E. B. (2003): Cultural Capital in Educational Research: A Critical Assessment. Theory and Society 32, 5-6, 567-606.

Michael Tzanakis (2011): Bourdieu’s Social Reproduction Thesis and The Role of Cultural Capital in Educational Attainment: A Critical Review of Key Empirical Studies. Educate, Vol. 11, No. 1, 2011, pp. 76-90.

Sullivan, A. (2001): Cultural Capital and Educational Attainment. Sociology 35, 4, 893-912.

Sullivan, A. (2007): Cultural Capital, Cultural Knowledge and Ability. Sociological Research Online 12, 6, 1.

Nguyễn Văn Sửu (2015): Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo. In trong “Nhân học phát triển: lich sử, lý thuyết và công cụ thực hành”. Nxb Tri thức, Hà Nội, trang 15-33.

Giá Trị Vốn Hóa Thị Trường Vốn (Equity Market Capitalization) Là Gì? Đặc Điểm

Giá trị vốn hóa thị trường vốn

Giá trị vốn hóa thị trường vốn trong tiếng Anh là Equity Market Capitalization.

Giá trị vốn hóa thị trường vốn là đại lượng đo lường tổng giá trị thị trường của một thị trường vốn.

Giá trị vốn hóa thị trường vốn được tính bằng cách lấy vốn hóa thị trường của tất cả các công ty trên thị trường vốn cổ phần, cộng chúng lại với nhau để đạt được mức tổng vốn hóa thị trường vốn.

Đặc điểm Giá trị vốn hóa thị trường vốn

Giá trị vốn hóa thị trường vốn được sử dụng để so sánh sự mở rộng hoặc thu hẹp qui mô của một thị trường nói chung. Biện pháp này cũng được sử dụng để so sánh giá trị thị trường vốn cổ phần với các phân khúc khác của nền kinh tế, chẳng hạn như giá trị thị trường bất động sản.

Giá trị vốn hóa thị trường đề cập đến tổng giá trị thị trường của cổ phiếu của một công ty đang lưu hành trên thị trường.

Thường được gọi là vốn hóa thị trường, được tính bằng cách nhân số cổ phiếu của một công ty đang lưu hành với giá thị trường hiện tại của một cổ phiếu. Giới đầu tư sử dụng đại lượng này để xác định qui mô của công ty.

Sử dụng vốn hóa thị trường làm cơ sở để xác định qui mô của một công ty và toàn bộ thị trường rất quan trọng, vì qui mô công ty hoặc thị trường là yếu tố cơ bản quyết định các đặc điểm khác nhau mà các nhà đầu tư quan tâm, tính cả rủi ro.

Giá trị vốn hóa thị trường vốn cũng tương đối dễ tính toán. Ví dụ, một công ty có 20 triệu cổ phiếu bán với giá 100 USD/cổ phiếu sẽ có mức vốn hóa thị trường là 2 tỉ USD.

Hạn chế của Giá trị vốn hóa thị trường vốn

Mặc dù giá trị vốn hóa thị trường được sử dụng thường xuyên để mô tả qui mô một công ty, nó không đo lường giá trị vốn chủ sở hữu của công ty đó.

Giá thị trường không đủ để định giá một công ty vì nó không nhất thiết phản ánh giá trị thực sự của một phần hoạt động kinh doanh của công ty. Các cổ phiếu thường được định giá quá cao hoặc quá thấp trên thị trường, có nghĩa là giá thị trường chỉ xác định mức giá thị trường sẵn sàng trả cho cổ phiếu của công ty đó.

Một nhà đầu tư thực hiện một số lượng lớn các chứng quyền cũng có thể làm tăng lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến các cổ đông, quá trình này còn được gọi là pha loãng cổ phiếu.

Do các yếu tố này, giá trị vốn hóa thị trường vốn, hay tổng hợp của tất cả các giá trị vốn hóa thị trường các cổ phiếu trong một thị trường, không phải là một biện pháp tốt để xác định giá trị của thị trường vốn, mà chỉ là chỉ số tốt để xác định qui mô thị trường.

(Theo Investopedia)

Lê Thảo

Khái Niệm Vốn Đầu Tư

– Khái niệm vốn đầu tư : Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi quan điểm đều có cách tiếp cận riêng. Nhưng có thể nói với thực chất chính là biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn (C) là biểu hiện bàng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động và tất cả các tài sản vật chất khác. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu trong các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là yếu tố không thể thiếu của hoạt động sản xuất kinh doanh, là điều kiện đầu tiên để tiến đến hoạt động kinh doanh.

– Khái niệm nguồn vốn : Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.

– Khái niệm nguồn vốn của doanh nghiệp: Nguồn vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.

– Phân loại vốn đầu tư

Tài sản của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:

+ Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: tài sản dài hạn

+ Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: tài sản ngắn hạn Vì vậy vốn của doanh nghiệp cũng được chia thành vốn cố định (VCĐ) và vốn lưu động (VLĐ):

Admin Mr.Luân

Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍

Định Nghĩa Tái Cấp Vốn Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Tái Cấp Vốn

Tái cấp vốn là một thuật ngữ không có trong từ điển của Học viện Hoàng gia Tây Ban Nha ( RAE ). Khái niệm này xuất phát từ , đó là hành động và kết quả của tài chính (giải quyết một khoản chi phí, cấp vốn cần thiết cho một cái gì đó). Đến lượt, động từ đó, chúng ta có thể thiết lập nguồn gốc từ “nhà tài chính” người Pháp, có thể được dịch là “trả nợ” và bắt nguồn từ tiếng Latin, cụ thể là “finis”, đồng nghĩa với “kết thúc”.

Thông thường, việc tái cấp vốn bao gồm giảm phí phải trả và cắt giảm lãi suất, cho phép con nợ trả nợ trong thời gian dài hơn. Mục tiêu là điều chỉnh việc trả lại tín dụng với thu nhập thực tế của người phải trả nợ để không phải trả.

Do đó, con nợ yêu cầu tái cấp vốn khi anh ta cần trả ít hơn trong mỗi đợt hoặc khi anh ta muốn cắt lãi mà anh ta sẽ trả khi kết thúc khoản vay . Đối với chủ nợ, chấp nhận tái cấp vốn là một cách để tạo thuận lợi cho việc thanh toán khoản vay cho con nợ, giảm rủi ro vỡ nợ . Nói cách khác: chủ nợ đồng ý nhận ít tiền hơn so với thỏa thuận trong tài chính ban đầu vì anh ta thích bảo đảm thu nhập đó và không phải là con nợ ngừng thanh toán.

Trong một số trường hợp, việc tái cấp vốn thậm chí dự tính một giai đoạn ân hạn mà con nợ không có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ, để anh ta có thể đặt hàng tài chính của mình hoặc tạo ra các nguồn lực.

Trong lĩnh vực thế chấp là nơi, thường xuyên hơn, tái cấp vốn được nói. Cụ thể, nó nói rằng những người có thế chấp phải nghiêm túc suy nghĩ về việc tái cấp vốn cho nó vì một số lý do quan trọng: -Để điều chỉnh thời hạn của thế chấp đã nói ở trên, để tăng hoặc giảm. -Để giảm lãi suất. -Để thay đổi từ một biến thành lãi suất cố định. -Để có được những gì sẽ có hiệu quả từ vốn chủ sở hữu được xây dựng trong chính ngôi nhà. -Để đạt được tỷ lệ biến tốt hơn, với các điều khoản và điều khoản đầy đủ và thuận lợi hơn nhiều.

Tuy nhiên, các chuyên gia đồng ý rằng, trước khi yêu cầu tái cấp vốn, cần phải phân tích tình huống tốt. Do đó, chúng ta phải nghiên cứu thời điểm, tín dụng của thế chấp mà chúng ta có, thời điểm thị trường hiện đang sống và tất nhiên, nó phải được thực hiện bởi các chuyên gia và cố vấn được đào tạo và có trình độ về vấn đề này.

Nó cũng xác định rằng khi bạn muốn đến ngân hàng để yêu cầu tái cấp vốn tín dụng nói trên, bạn phải làm như vậy bằng cách cung cấp cả lý do để yêu cầu và kế hoạch cụ thể, trong đó rõ ràng bạn dự định đáp ứng thanh toán và mục tiêu như thế nào đã được thiết lập về nó.