Top 7 # Xem Nhiều Nhất Khái Niệm Giáo Dục Hội Nhập Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Giáo Dục Hội Nhập Cho Trẻ Tự Kỷ

Vừa qua, tại TP Hồ Chí Minh đã xảy ra vụ xâm hại trẻ em tại một cơ sở chăm sóc trẻ nhỏ mắc chứng tự kỷ. Sự việc trên không chỉ một lần nữa gióng lên hồi chuông về tình trạng ngược đãi trẻ em mà còn phản ánh một thực tế buồn, đó là trẻ em tự kỷ gần như không được quan tâm, đặc biệt trong vấn đề giáo dục hòa nhập.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ giáo dục trẻ đặc biệt, Trường Cao đẳng Sư phạm trung ương: Trong 3 mô hình giáo dục hiện nay là giáo dục trong trường chuyên biệt, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục hòa nhập thì hòa nhập là mô hình tốt nhất cho trẻ tự kỷ. Bởi lẽ trẻ tự kỷ có rất nhiều cấp độ, trong đó chỉ có 10-15% thuộc thể nặng có thể chuyển sang khuyết tật trí tuệ, còn lại đa số các em chỉ bị ở thể nhẹ và hoàn toàn có thể trở thành người bình thường, có ích cho xã hội với điều kiện được hòa nhập từ nhỏ và không bị định kiến của xã hội.

Hướng dẫn trẻ tự kỷ hòa nhập – Ảnh Minh Đức

Thiếu cả nhân lực lẫn vật lực Hội chứng tự kỷ mới được phát hiện ở Việt Nam từ 10 năm nay nhưng đã phát triển rất nhanh. Hiện trên cả nước có khoảng 240.000 người tự kỷ, chủ yếu là trẻ em. Hiện nay, hiểu biết chung của mọi người về hội chứng này còn rất hạn chế, do đó, trẻ tự kỷ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, đặc biệt là việc học. Thạc sĩ về can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập Nguyễn Thị Nha Trang, quản lý dự án “Cha mẹ dạy kỹ năng giao tiếp xã hội cho trẻ tự kỷ” (Trung tâm Kinh tế và phát triển cộng đồng) cho biết, rất nhiều trường muốn nhận học sinh là trẻ tự kỷ nhưng không có điều kiện. “Giáo dục hòa nhập theo quan điểm đúng nhất là nơi trẻ được phát triển toàn diện. Giáo dục hòa nhập không phải là chỉ đặt trẻ vào môi trường với trẻ em bình thường khác. Trẻ tự kỷ cũng giống như cái cây, nó cần một liều lượng dinh dưỡng, nước, ánh sáng nhất định. Thế nhưng, hiện nay hầu hết giáo viên không được đào tạo về giáo dục chuyên biệt dành cho trẻ tự kỷ”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Nha Trang chia sẻ. Thực tế có một tỷ lệ phần trăm nhất định trẻ tự kỷ bị chậm phát triển trí tuệ, vì vậy cần có bộ chương trình để dạy riêng. Điều đáng buồn là chương trình cho các cháu hiện nay gần như không có.

Bắt đầu từ chính sách Việt Nam đã có chính sách hỗ trợ trẻ khuyết tật đi học và khuyến khích các trường nhận trẻ tự kỷ. Tuy nhiên, kết quả chưa khả quan. Ở một số nước tiên tiến, như ở Mỹ thì có riêng luật cho vấn đề này. Luật pháp Mỹ quy định, trường nào nhận trẻ tự kỷ sẽ được nhà nước hỗ trợ về cơ sở vật chất, chương trình dạy, nhân lực. Chính vì vậy, theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Nha Trang, nếu Việt Nam có luật để thực thi thì sẽ tốt hơn là chỉ khuyến khích vì khi đã có chính sách thì không lý do gì các trường lại không nhận các cháu tự kỷ.

Hiện chưa có thống kê đầy đủ về trẻ tự kỷ cần hòa nhập trong trường tiểu học ở Việt Nam, tuy nhiên, chỉ tính riêng ở Hà Nội, theo ông Phạm Xuân Tiến, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội, con số này đã lên tới 1.000 người. Chính vì vậy, nếu làm tốt công tác giáo dục hòa nhập chúng ta không chỉ giúp cho hàng nghìn trẻ có cuộc sống bình thường mà còn giải quyết được gánh nặng cho gia đình và xã hội trong tương lai.

Comments

Khái Niệm Giáo Dục – Kipkis

2. Giáo dục

Giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sông xã hội, lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hộiinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người. Giáo dục được hiểu dưới hai góc độ:

(1) Giáo dục được xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối tượng đơn nhất;

(2) Giáo dục được như là một hoạt động xã hội, dạng tái sản xuất ra lực lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế hệ trẽ, là tập hợp các đối tượng đơn nhất. Giáo dục là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động;

Khi nói đến giáo dục theo nghĩa rộng, là ta thường liên tưởng ngay đến cụm từ “giáo dục theo nghĩa hẹp và đào tạo”.

Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) – gọi là giáo viên – nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát triển trí thông minh, phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan, và làm phát triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có những phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra.

Giáo dục theo nghĩa hẹp là nuôi dưỡng, làm cho phát triển hoặc triệt tiêu, giảm cái có sẵn. Ví dụ như trí thông minh căn bản là cái có sẵn, tính thiện là cái có sẵn,… Giáo dục làm tăng trưởng trí thông minh căn bản, và tính thiện lên.

Ðào tạo là một quá trình truyền thụ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) – gọi là giáo viên – vào người đó, nhằm tạo ra một số sự nhận thức, một số kỹ năng hoạt động phù hợp với yêu cầu của công việc, và phát triển chúng nó lên bằng cách rèn luyện. Công việc này có thể là hoạt động trí não, hay hoạt động chân tay.

Đào tạo là tạo ra cái mới hoàn toàn, chứ không phải là cái có sẵn. Ví dụ chữ viết, những kiến thức về toán học, các kỹ năng về tay nghề, các thế võ,… Ban đầu chúng hoàn toàn chưa có nơi một con người. Chỉ sau khi được huấn luyện, đào tạo thì chúng mới có ở nơi ta.Ví dụ: học sinh được dạy học môn toán, để có kỹ năng tính toán. Một nhà khoa học được đào tạo, để có các kỹ năng nghiên cứu khoa học. Một vị Tu sĩ được dạy cách ngồi thiền, để có thể ngồi thiền tu tập sau này. Một người công nhân, được đào tạo tay nghề, để có thể làm việc sau này…

Tuy rằng, không phải là đào tạo, nhưng muốn giáo dục thành công thì cần phải thông qua công tác đào tạo. Vì vậy chúng có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Cho nên khái niệm giáo dục trong bộ môn này được hiểu bao gồm cả giáo dục và đào tạo.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007

Tác giả: Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

“Like” us to know more!

Knowledge is power

Khái Niệm Khoa Học Giáo Dục

Khoa học giáo dục (khoa học giáo dục) là một bộ phân của hệ thống các khoa học nghiên cứu về con người, bao gồm: giáo dục học, tâm lý học sư phạm, lý luận dạy học, phương pháp giảng day bộ môn… khoa học giáo dục có mối quan hệ với các khoa học khác như triết học, xã hội học, dân số học, kinh tế học, quản lý học…So với các khoa học khác, khoa học giáo dục có đặc điểm nội bật đó là: tính phức tạp và tính tương đối. Tính phức tạp hể hiện ở mối quan hệ giao thoa với các khoa học khác, không có sự phân hóa triệt để, mà cần có sự phối hợp bởi vì con người vốn là thế giới phức tạp. Cuối cùng các qui luật của khoa học giáo dục là mang tính số đông, có tính chất tương đối, không chính xác như toán học, hóa học…

khoa học giáo dục nghiên cứu những qui luật của quá trình truyền đạt (người giáo viên) và quá trình lĩnh hội (người học) tức là qui luật giữa người với người, nên thuộc phạm trù khoa học xã hội. Phương pháp của khoa học giáo dục nói riêng và khoa họcXH nói chung là quan sát, điều tra, trắc nghiệm, phỏng vấn, tổng kết kinh nghiệm, thực nghiệm…

Khi xem giáo dục là tập hợp các tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối tượng đơn nhất, thì khoa học giáo dục nghiên cứu mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học, phương tiện dạy học và các mối quan hệ hài hòa giữa các yếu tố đó. Nó như là một hệ khép kín ổn định.

Khi xem giáo dục như là một hoạt động xã hội, đào tạo ra lực lượng lao động mới, khoa học giáo dục nghiên cứu mối quan hệ giữa sản xuất xã hội và đội ngũ người lao động cần giáo dục đào tạo:

các yêu cầu của sản xuất xã hội đối với đội ngũ lao động về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất;

qui hoạch phát triễn giáo dục;

logíc tác động qua lại giữa nền sản xuất và đào tạo.

Như vậy chúng ta có thể nhận thấy là khi xem xét một vấn đề về khoa học giáo dục phải đặt trong nhiều mối quan hệ và tiếp cận hệ thống như:

Hệ thống giáo dục quốc dân gồm nhiều bộ phận hay hệ thống con có sự tác động qua lại với môi trường hay phân hệ khác như kinh tế, chính trị, văn hóa

Hệ thống quá trình đào tạo (giáo viên, học sinh, tài liệu, trang thiết bị, lớp học và các tác động của môi trường học ở địa phương

Hệ thống chương trình các môn học

Hệ thống tác động sư phạm đến từng cá thể và đặc điểm nhân cách, tâm lý lứa tuổi

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007

Tác giả: Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Định Nghĩa Lại Khái Niệm Giáo Dục

(GDVN) – Định nghĩa này quy định cách hành xử của Giáo dục là làm công việc tổ chức sự HỌC của con người, chứ không phải là làm công việc DẠY con người.

LTS: Ngày 1/1/2017, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng bài Trò chuyện cùng nhóm Cánh Buồm: Cải cách nhà cải cách – ưu tiên của mọi ưu tiên, được nhiều bạn đọc quan tâm theo dõi và mong muốn tìm hiểu để biết thêm về cách làm sách, cách làm giáo dục, cách “cải cách nhà cải cách” của Cánh Buồm. Nhà giáo Phạm Toàn đã vui vẻ hưởng ứng: “Giữ được quan hệ với đông đảo bạn đọc là điều chúng tôi rất mong muốn. Đó là những người dùng tiềm năng của bộ sách Cánh Buồm, nhất thiết phải giữ liên hệ. Khi chuẩn bị đủ điều kiện, Cánh Buồm sẽ mở lớp học trực tuyến. Những lớp học trực tuyến đó sẽ thử thách những việc mình làm. Đạt dần tới cái ĐÚNG thì sẽ đẩy lên thành cái ĐÚNG HƠN…” Nhà giáo Phạm Toàn đã gửi ngay bài đầu tiên, tác giả coi là bài gốc, nói những điều căn bản chỉ đạo mọi việc làm. Tác giả mong muốn bài viết đầu tiên này sẽ được bàn luận. Và cũng theo tác giả, “nếu được 60 phần trăm bạn đọc đồng tình, Cánh Buồm sẽ trình bày nốt các nội dung tiếp theo tới đông đảo bạn đọc”. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng ông viết loạt bài này như những “báo cáo công tác” trước toàn xã hội, chứ không là những bài “phản biện”. Nhà giáo Phạm Toàn giải thích thêm: nhóm Cánh Buồm tự nguyện thực hiện những việc cần phải làm để thực hiện ước vọng về một nền Giáo dục xứng đáng với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, trong loạt bài này quý bạn đọc sẽ gặp cả những ý tưởng và những biện pháp – nhất là những biện pháp – trong đó bộ sách Cánh Buồm là một biện pháp trung tâm. Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc Bài mở đầu của tác giả Phạm Toàn và hy vọng bạn đọc sẽ hào hứng đón đọc những bài tiếp theo. Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan điểm của nhà giáo Phạm Toàn và tập thể Cánh Buồm. Khởi hành

Trong công việc tổ chức biên soạn bộ sách giáo khoa, nhóm Cánh Buồm có hai loại “người hành động” – loại trẻ và loại già.

Loại đầu tiên, là những bạn trẻ hăm hở muốn cùng nhau tìm một lối thoát cho công cuộc giáo dục, một sự nghiệp bản thân các bạn được hưởng thụ với đầy ưu ái, nhưng đều thấy không thỏa mãn. Nhà giáo Phạm Toàn trong niềm vui bên những học sinh bé nhỏ, lớp 1 trường Gateway, Hà Nội, tháng 1/2017. Ảnh do cô giáo Nguyễn Thu Hằng chụp, nhà giáo Phạm Toàn cung cấp. Tiếp đến là những soạn giả chững chạc, nhiều vị là những tác giả có tên tuổi, nhiều “bác” trẻ hơn nhưng cũng đã có công trình, nhiều vị là thày của lớp bạn trẻ Cánh Buồm.

Tâm trạng ban đầu của những “bạn” cao niên thể hiện thành những câu hỏi như nhau. “Làm sách à? Lại làm sách à? Tại sao làm sách, mà không phải là làm cái khác? Nếu làm sách, thì làm kiểu gì đây?”, vân vân…

Các bạn trẻ có tâm sự đơn giản hơn. Sau 18 năm “đèn sách”, họ bị cuốn vào dòng chảy kiếm việc làm để có một chỗ đứng và kiếm sống.

Các vị cao niên đã có cuộc sống ổn định thì cần đến một lý tưởng và những lý lẽ để yên tâm vào việc. Lớp bạn trẻ này sẵn lòng lao vào việc, song nếu công việc không hấp dẫn, họ cũng dễ dàng để gió cuốn đi…

Dù trẻ dù già, vào buổi khởi hành, những con người hành động của nhóm Cánh Buồm đều cần đến một hành trang đầu tiên: một lý lẽ cốt lõi và một hệ thống lý lẽ vây quanh.

Lý lẽ cốt lõi

Ngay từ khi “rủ nhau chào đời” vào cuối năm 2009, nhóm Cánh Buồm đã đạt được đồng thuận đối với nhiều khái niệm.

Ngay cụm từ vừa dùng ở cuối đoạn viết bên trên, “lý lẽ cốt lõi”, cũng là một cách để diễn đạt cái từ vẫn quen dùng: lý luận.

Đối với khái niệm lý luận, Cánh Buồm không tách rời “lý luận” với “thực tiễn”. Lý luận bắt buộc phải gắn bó với cuộc sống thực. Nói “gắn bó” vẫn còn xa xôi cách biệt: lý luận phải là chính cuộc sống thực.

Ăn để sống không thể dựa trên “lý luận” không cần ăn vẫn sống. Một bữa ăn gia đình đạm bạc nhưng ấm cúng là một thực tiễn mang trong nó cái “lý” của nó.

Một khi đã gắn bó với cuộc sống thực, công việc của những con người hành động là làm cho những điều tốt đẹp của cuộc sống được nảy nở. Lý lẽ cốt lõi của ta sẽ chỉ ra đâu là điều tốt đẹp phải được nảy nở và cách làm cho chúng nảy nở.

Đây là một thí dụ. Nhóm Cánh Buồm đã tìm ra cách học của trẻ em để các em không phải nghe giảng mà vẫn có những sản phẩm cảm động như “bài thơ” ngô nghê nhưng cảm xúc thì không thua “em bé” Trần Đăng Khoa xưa. Xin trân trọng giới thiệu:

Ở TRONG HẦM Ở trong hầm Chật chội lắm Em bé khóc Vì sợ hãi Tiếng bom nổ Đùng đùng đùng Ở trong hầm Chả nhìn thấy Mọi sự vật Ôi sợ quá!

(Vũ Như Anh – Lớp 3B – Năm học 2016-2017 trường Gateway, Hà Nội. Bài thu hoạch sau khi học thao tác liên tưởng qua tác phẩm “Tuổi thơ của con” của Xuân Quỳnh).

Em Khôi Nguyên, học sinh lớp 2C cũng của trường Gateway, Hà Nội năm học 2016-2017, trong bài tập viết lại đoạn kết truyện Tấm Cám đã viết như sau:

“Sau khi thấy Tấm sống lại, mẹ con Cám đã thay đổi tính cách, hiền hậu hơn xưa. Tấm trở về nhà, mẹ con Cám đã nói lời xin lỗi, và Tấm đã đồng ý. Họ đã cùng nhau ăn một bữa cơm quây quần. Từ đó ba mẹ con sống yêu thương đùm bọc và hạnh phúc”.

Ít nhất ở đây có thể thấy sự tồn tại hữu cơ của lý lẽ cốt lõi trong cuộc đời thực thể hiện ở việc dám trả lời và biết cách trả lời những câu hỏi như:

Vì sao trẻ em học Văn lại phải học thao tác tưởng tượng và liên tưởng? Trẻ em từ lớp 1 đã học Văn được chưa? Năng lực văn của con người là gì? Làm cách gì để con người hình thành năng lực văn? vân vân …

Và ít nhất ở đây, khi Cánh Buồm trả lời CÓ cho các câu hỏi trên, thì có thể thấy lý luận nằm ngay trong thực tiễn cuộc sống của các em học sinh nhỏ tuổi.

Việc đầu tiên trong chuỗi công việc phải làm đó của nhóm Cánh Buồm là định nghĩa lại khái niệm GIÁO DỤC.

Với những bậc cao niên trong nhóm Cánh Buồm, chấp nhận một định nghĩa mới càng khó khăn nhiều lần.

Nhưng đồng thuận là một quá trình cùng lao động, cùng tôn trọng giá trị tinh thần của nhau, và cùng tháo ngòi xung đột – cũng là một định nghĩa nữa của Cánh Buồm – nên các “thê đội” cũng đến được với định nghĩa mới.

Đó chính là nội dung của việc Cải cách nhà cải cách đã được nhắc đến trong bài ra mắt đã đăng trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.

Và đây là định nghĩa đã được tập thể Cánh Buồm đồng thuận chọn và theo: Giáo dục là tổ chức sự trưởng thành của thanh thiếu niên cả dân tộc.

Theo định nghĩa này, giáo dục sẽ tôn trọng người học. Giáo dục không làm công việc “dạy dỗ dân” theo quan điểm Khổng Tử. Giáo dục dù cao quý đối với dân với nước, nhưng không có quyền tự coi mình đứng trên mọi con người mà về bản chất “sinh ra đã là tự do”.

Định nghĩa này quy định cách hành xử của Giáo dục là làm công việc tổ chức sự HỌC của con người, chứ không phải là làm công việc DẠY con người.

Để tổ chức việc học của con em thì sẽ phải đi tìm và phải tìm ra cơ chế tâm lý của việc học, cụ thể hóa thành nhiều cách học, để cuối cùng, người học đạt tới khả năng tự học.

Khi đó, “tự học” không phải là một lời khuyên mà là một phương pháp, một lối sống, một thói quen, một thành phần của năng lực người.

Tổ chức được công việc tự học cũng đồng thời là làm công việc tổ chức cái nền của con người đủ năng lực tự lập và có lối sống tự lập. Cuộc Hội thảo khoa học lần thứ ba khi Cánh Buồm ở tuổi lên ba (năm 2011) mang tên Tự học – Tự giáo dục là có ý nghĩa đó.

Cuối cùng, định nghĩa lại Giáo dục là nhằm vào mục đích tổ chức sự trưởng thành của người học, và những người học đó chỉ giới hạn trong lớp thanh thiếu niên cả dân tộc.

Sự trưởng thành của thanh thiếu niên không được đo bằng những kỳ thi, những khối lượng kiến thức, cả những “kỹ năng” đủ loại. Sự trưởng thành của một trang thanh niên nằm ở tư duy – một cái đầu biết học, biết làm, biết sống. Sự trưởng thành của một trang thanh niên không nhất thành bất biến. Nếu đã là trưởng thành, thì con người đó sẽ tiếp tục phát triển, “gừng càng già càng cay”.

Sự trưởng thành của con người cũng không bất biến theo dòng lịch sử. Người trưởng thành của năm 2016 hoặc 2017 sẽ khác với người trưởng thành sau đây một chục hoặc vài chục năm.

Đó là cái lý thúc đẩy nghề sư phạm không thể đời đời vững như bàn thạch với những giáo lý và cách làm việc giáo điều, xơ cứng, những giáo trình chép đi chép lại.

Đó cũng là cái lý thúc đẩy nghề sư phạm không thể hành động cẩu thả. Không thể nhặt nhạnh kinh nghiệm dù tốt đẹp ở đâu đâu về áp dụng ở quê ta sau vài ba chỉ thị hoặc mệnh lệnh áp đặt.

Đó nhất thiết phải là cái lý thúc đẩy nghề sư phạm nghiên cứu sâu vào con em Việt Nam để xây dựng nền giáo dục Việt Nam của nền văn hóa Việt Nam, ở đây, và ngay lúc này.

Đó là những điều của thực tiễn Việt Nam, một thực tiễn cần có một lý lẽ cốt lõi để diễn biến lành mạnh. Mục tiêu thực tiễn của người thanh thiếu niên trưởng thành sẽ là những con người tự lập, tự học, tự giáo dục.

Con đường đi đến trưởng thành là thông qua phương thức nhà trường, hoặc nói cách khác là thông qua cách học bắt đầu với những thiết chế sẵn có và qua các nội dung môn học.

Điều căn bản rút ra từ định nghĩa mới về Giáo dục chung quy là việc xây dựng một kiểu nhà trường khác với cách học khác, những chuẩn mực đánh giá khác, mà theo đường lối thể hiện trong bộ sách Cánh Buồm là tự đánh giá thay vì bị đánh giá.

Cần phải có cách học khiến con người tôn trọng sự tự do của mình. Đó là cách học để người học bị cuốn hút tự nhiên vào con đường học cho mình và xây dựng dần dần được tinh thần học vì Tôi – học vì Chúng Ta.

Một định nghĩa lại cho khái niệm giáo dục đủ mở ra một lối thoát đúng đắn và giúp cho nhà giáo dục yêu nghề hơn.

Vì nhà giáo dục sẽ có một thực tiễn để vun bón – cái thực tiễn không đối lập với lý lẽ cốt lõi của mình.

Nhà giáo dục sẽ có một tư duy khác trong việc làm mỗi ngày, và niềm vui càng được củng cố khi thấy rõ con em học giỏi một cách tự nhiên.

Những nhân vật Nam Cao suốt đời phải “sống mòn” trong cảnh “đời thừa” mà nguyên nhân đơn giản là do không định nghĩa lại được các khái niệm.

Vả chăng, những nhân vật của Nam Cao cũng chỉ đi dạy học kiếm sống, chứ không cốt thực hiện một sự nghiệp giáo dục.

Nên họ không thể có lý lẽ cốt lõi (hoặc lý luận) về Giáo dục để bám víu vào mà tổ chức lại cuộc sống thực, là sự nghiệp Giáo dục của dân tộc.

Nhà giáo Phạm Toàn (Theo Giaoduc.net.vn)