Top 5 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Của Entropy Là Gì Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Định Nghĩa Entropy Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Entropy

Entropy là một khái niệm xuất phát từ một từ Hy Lạp có thể được dịch là “trở lại” hoặc “chuyển đổi” (được sử dụng theo nghĩa bóng).

Vào thế kỷ XIX, Clausius đã đưa ra khái niệm trong lĩnh vực Vật lý để chỉ một biện pháp rối loạn có thể nhìn thấy trong các phân tử của chất khí. Từ đó trở đi, khái niệm này sẽ được sử dụng với các ý nghĩa khác nhau trong nhiều ngành khoa học, như vật lý, hóa học, khoa học máy tính, toán học và ngôn ngữ học .

Một số định nghĩa là:

Entropy có thể là đại lượng vật lý nhiệt động lực học cho phép chúng ta đo phần không thể sử dụng của năng lượng có trong một hệ thống . Điều này có nghĩa là phần năng lượng này không thể được sử dụng để tạo ra một công việc.

Entropy cũng được hiểu là thước đo sự rối loạn của một hệ thống . Theo nghĩa này, nó được liên kết với một mức độ đồng nhất.

Entropy của sự hình thành một hợp chất hóa học được thiết lập bằng cách đo một hợp chất phù hợp với từng yếu tố cấu thành của nó. Entropy của sự hình thành càng lớn, sự hình thành của nó sẽ càng thuận lợi.

Trong lý thuyết thông tin, entropy là thước đo của sự không chắc chắn tồn tại trước một tập hợp các thông điệp (trong đó chỉ có một tin nhắn sẽ được nhận). Đó là thước đo thông tin cần thiết để giảm hoặc loại bỏ sự không chắc chắn.

Trong trường hợp giao tiếp bằng văn bản, vấn đề rất đơn giản để phân tích (các đơn vị cơ bản, các chữ cái, được xác định rõ); Nếu bạn muốn hiểu thông điệp một cách kỹ lưỡng, bạn có thể giải mã nó một cách chính xác và hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng . Nhưng trong ngôn ngữ nói, mọi thứ thay đổi một chút, trình bày một số biến chứng.

Không dễ để xác định trong diễn ngôn bằng miệng các yếu tố cơ bản của mã ; các từ nghe có vẻ khác nhau tùy theo người nói chúng và tương tự, chúng có thể có nghĩa khác nhau. Do đó, việc phân loại chúng theo các âm vị và phụ âm là chưa đủ vì điều này sẽ không cho phép chúng ta hiểu cách tổ chức thông tin bởi vì, ví dụ, nếu các âm vị phát âm bị triệt tiêu, thì không thể hiểu được thông điệp.

Theo một nghiên cứu được thực hiện tại Đại học Wisconsin-Madison, một cách tốt để cô lập và hiểu mã miệng là thông qua sự phân hủy phổ của tín hiệu âm thanh. Nhờ kỹ thuật này, chúng tôi cố gắng hiểu cách thức ốc tai lọc và phân tích những gì đến với nó. Ốc tai là một phần của tai chúng ta có chức năng biến đổi âm thanh thành tín hiệu điện và gửi chúng trực tiếp đến não.

Để thực hiện thí nghiệm này, một đơn vị đo lường được gọi là “entropy phổ trên thang đo ốc tai” (CSE) đã được sử dụng, nó cho phép thiết lập các kết nối giữa tín hiệu và tín hiệu đi trước nó ; quyết định những khả năng nào có thể dự đoán tín hiệu bắt đầu từ tín hiệu trước.

Kết quả trả về rằng hai tín hiệu càng giống nhau thì càng dễ dự đoán thứ hai ; Điều này có nghĩa là thông tin chúng tôi lấy từ lần thứ hai gần như không. Tương tự như vậy, chúng càng khác nhau, thông tin được cung cấp bởi tín hiệu thứ hai càng lớn, do đó, nếu nó bị loại bỏ, nó sẽ gây ra hậu quả đáng kể trong việc hiểu diễn ngôn.

Định Nghĩa Khoa Học Máy Tính Của Entropy Là Gì?

Thật dễ dàng để thực hiện một thỏa thuận lớn từ entropy. Theo tôi đó là một khái niệm khá đơn giản và hữu ích .

Về cơ bản, nó định lượng những gì, trung bình, bạn sẽ học được từ một sự kiện, như lật một đồng xu, thực hiện một hướng dẫn chi nhánh hoặc lập chỉ mục một mảng.

Giống như một phép toán so sánh ở giữa thuật toán tìm kiếm có xác suất P nhất định lấy một nhánh và 1-P lấy nhánh kia.

Giả sử P là 1/2, vì nó nằm trong tìm kiếm nhị phân. Sau đó, nếu bạn lấy nhánh đó, bạn biết nhiều hơn 1 bit so với trước đây, bởi vì log (2/1), cơ sở 2, là 1. Mặt khác, nếu bạn lấy nhánh khác, bạn cũng học được 1 bit.

Để có được lượng thông tin trung bình bạn sẽ học, hãy nhân số lượng bạn học được ở nhánh đầu tiên nhân với xác suất bạn lấy nhánh đó, cộng với những gì bạn học được ở nhánh thứ hai nhân với xác suất của nhánh đó.

1/2 lần 1 bit, cộng với 1/2 lần 1 bit, là 1/2 bit cộng với 1/2 bit, hoặc tổng 1 bit entropy. Đó là những gì bạn có thể mong đợi để học trung bình từ quyết định đó.

Mặt khác, giả sử bạn đang thực hiện tìm kiếm tuyến tính trong một bảng gồm 1024 mục.

Trong lần kiểm tra == đầu tiên, xác suất CÓ là 1/1024, vì vậy, entropy của CÓ tại quyết định đó là

1/1024 times log(1024/1)

hoặc 1/1024 * 10 = khoảng 1/100 bit.

Vì vậy, nếu câu trả lời là CÓ, bạn học được 10 bit, nhưng cơ hội đó là khoảng 1 trên một nghìn.

Mặt khác, KHÔNG có nhiều khả năng. Đó là entropy là

1023/1024 * log(1024/1023)

hoặc khoảng 1 lần khoảng 0 = khoảng không.

Cộng hai thứ lại với nhau, và trung bình bạn sẽ tìm hiểu khoảng 1/100 một chút về quyết định đó.

Đó là lý do tại sao tìm kiếm tuyến tính chậm. Entropy (bạn có thể mong đợi học được bao nhiêu) ở mỗi quyết định là quá nhỏ, vì bạn sẽ phải học 10 bit để tìm mục trong bảng.

Từ Entropy Đến Đạo / From Entropy To The Tao

Rất nhiều người thường nghĩ rằng Nguyên lý Bất định của Cơ học Lượng tử là lý thuyết đầu tiên đề cập đến bản chất BẤT ĐỊNH và NGẪU NHIÊN của Tự Nhiên. Điều đó không đúng. Lý thuyết đầu tiên là ENTROPY. Hãy quay ngược cuốn phim lịch sử của tư tưởng bất định trong khoa học để thấy rõ điều này. Năm 1927, Nguyên lý Bất định của Cơ học Lượng tử ra đời, gây nên một cú sốc lớn nhất thế kỷ 20, làm mọi người giật mình nhận ra rằng Tự Nhiên hóa ra bất định hơn ta tưởng! Thuật ngữ “bất định” (uncertainty) lan truyền từ đó, như một tiếng chuông cảnh báo nhân loại hãy chỉnh đốn lại cách nhận thức. Thế giới không phải Chiếc đồng hồ Newton!Nhưng Nguyên lý Bất định không phải là lý thuyết đầu tiên đưa ra cảnh báo đó. Nếu cho cuốn phim chạy ngược về năm 1890, ta sẽ thấy lời giải Bài toán Ba Vật thể của Henri Poincaré trên tạp chí Acta Mathematica, trong đó khẳng định các hệ động lực học phức tạp có thể rơi vào tình trạng hỗn độn, không thể tiên đoán được. Nhưng nhân loại không hiểu những tư tưởng lạ lùng đó. Mãi đến năm 1963, khi Edward Lorenz công bố Hiệu ứng Con Bướm, người ta mới giật mình nhận ra rằng bản chất hỗn độn thực ra đã được Poincaré khám phá ra từ năm 1890 rồi. Hỗn độn thực ra là một biểu hiện của bất định nói chung.Nhưng năm 1890 cũng không phải là lần đầu tiên khoa học đề cập đến bản chất bất định và ngẫu nhiên. Hãy cho cuốn phim tiếp tục chạy ngược về khoảng giữa thế kỷ 19, khi các nhà khoa học quan tâm đến chuyển động Brown. Đó chính là lúc khoa học bắt đầu tiếp xúc trực tiếp với các quá trình bất định, hỗn độn, bởi chuyển động Brown là chuyển động của các phân tử bên trong chất lỏng và chất khí – những chuyển động tự do, hỗn loạn, ngẫu nhiên, bất định.

Vật chất càng loãng, các phân tử càng tự do hơn, hỗn loạn vô trật tự hơn, tức là phân tử chất khí chuyển động tự do và hỗn loạn hơn phân tử chất lỏng. Trái lại, phân tử của chất rắn không chuyển động tự do, mà dao động quanh những vị trí cân bằng, chúng liên kết với nhau theo một trật tự xác định, làm cho vật chất trở nên rắn chắc, có hình thù rõ ràng. Hình dạng của vật chất được xác định bởi mức độ tự do của các phân tử. Mức độ tự do càng cao thì hình dạng càng không rõ ràng. Một khối sắt hình lập phương bị nung chảy sẽ không còn hình dạng xác định nữa. Nếu tiếp tục nấu, nó sẽ bay hơi và hình thù hoàn toàn biến mất. Quá trình biến dạng ấy cũng là quá trình biến đổi trạng thái.Vật chất có thể chuyển đổi từ trạng thái rắn sang trạng thái lỏng, rồi từ trạng thái lỏng sang trạng thái khí, và ngược lại. Động lực thúc đẩy sự chuyển đổi là NHIỆT. Nhiệt là nguyên nhân thúc đẩy các phân tử chuyển động. Nhiệt càng lớn, chuyển động càng mạnh. Quá trình nấu chảy kim loại thực chất là quá trình thúc đẩy các phân tử kim loại chuyển động mạnh đến nỗi nó phá tung sợi xích liên kết giữa các phân tử, đẩy các phân tử vào tình trạng tự do, chuyển động hỗn loạn, vô trật tự. Nếu quá trình này được thúc đẩy tiếp tục, mức độ hỗn loạn vô trật tự tiếp tục tăng lên, đến một lúc nào đó kim loại lỏng sẽ biến thành khí, và về lý thuyết, khí kim loại có thể tan loãng dần đến mức gần như hư không. Đảo ngược quá trình này, nếu liên tục giảm nhiệt, các phân tử sẽ dao động yếu dần, đến một lúc nào đó, dao động sẽ ngừng lại, ngừng tuyệt đối, vật chất trở nên “cứng tuyệt đối”, nhiệt độ xuống tới mức thấp nhất, đó là độ 0 tuyệt đối.Tóm lại, mức độ hỗn loạn của các phân tử có thể thay đổi tùy theo trạng thái của vật chất, và chính xác hơn, tùy theo nhiệt độ của vật chất. Đại lượng đo mức độ hỗn loạn vô trật tự của các phân tử được gọi là entropy. Nếu coi tập hợp các phân tử cấu tạo nên một lượng vật chất cụ thể là một hệ vật lý thì entropi là đại lượng đo mức độ vô trật tự của hệ vật lý đó. Khái niệm hệ vật lý có thể mở rộng cho một tập hợp nhiều vật thể. Hệ vật lý vĩ đại nhất là toàn vũ trụ.Có thể can thiệp từ bên ngoài vào một hệ vật lý để làm tăng hoặc giảm entropi của hệ đó. Chẳng hạn, đun nước sôi là một sự can thiệp từ bên ngoài làm tăng entropi của nước. Băng ở Bắc Cực hay Nam Cực tan chảy thành nước là một quá trình tăng entropi của nước, nhờ sự “can thiệp” của Mặt Trời. Ngược lại, tủ lạnh là một chiếc máy làm giảm entropi của nước trong ngăn đá.Một hệ không có sự trao đổi năng lượng với bên ngoài được gọi là một hệ kín. Điều lạ lùng là mọi hệ kín có xu hướng tăng entropy một cách tự phát. Nói cách khác, mọi hệ vật lý đóng kín có xu hướng biến đổi từ trật tự đến vô trật tự và ngày càng vô trật tự hơn. Chiều biến thiên ấy là đặc trưng cố hữu của tự nhiên, không thể đảo ngược. Đó chính là định luật thứ hai của nhiệt động lực học.

Có nhiều cách phát biểu định luật nói trên. Cách phát biểu của Stephen Hawking trong cuốn Lược sử Thời gian (A Brief History of Time) có lẽ là ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu nhất đối với tất cả mọi người. Ông nói: “Định luật đó nói rằng trong một hệ thống kín thì vô trật tự hay entropi, luôn tăng với thời gian. Nói cách khác, đó là một dạng của Định luật Murphy: mọi vật luôn tiến triển theo chiều xấu đi” [2*]Vũ trụ xét trên toàn thể là một hệ thống kín (vũ trụ không trao đổi năng lượng với bất kỳ một hệ thống nào khác bên ngoài vũ trụ). Vì thế entropi của toàn vũ trụ luôn tăng với thời gian. Nói cách khác, vũ trụ ngày càng vô trật tự. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết vũ trụ giãn nở. Theo lý thuyết này, vũ trụ giãn nở với gia tốc, có nghĩa là giãn nở ngày càng nhanh, và đến một lúc nào đó sẽ tan loãng thành hư không. Quá trình này không thể đảo ngược. Hawking cho rằng chiều giãn nở của vũ trụ trùng với chiều tăng của entropy, và cũng là chiều của thời gian. Cả ba chiều này đều có tính không thể đảo ngược. Có thể lấy chiều này để xác định các chiều kia. Theo tôi, hiện tượng vũ trụ giãn nở chính là biểu hiện của tính vô trật tự ngày càng tăng của vũ trụ. Đó là biểu hiện của định luật thứ hai của nhiệt động học trên phạm vi toàn vũ trụ.Định luật ấy không chỉ đúng với toàn vũ trụ, mà đúng với tất cả các hệ thống kín bên trong vũ trụ. Mọi đồ vật xung quanh ta đều là những hệ thống kín của các phân tử cấu tạo nên chúng. Nếu để mặc chúng với thời gian, tức là không có sự can thiệp từ bên ngoài, tất cả các đồ vật rồi sẽ hư hỏng, cũ nát, hoen rỉ rồi tan biến. Sự sống cũng không nằm ngoài quy luật này – sinh vật già đi, rồi chết, thối rữa, tan hủy. Và quy luật ấy dường như cũng đúng trong các quá trình biến đổi xã hội và tinh thần của con người. Tại sao có rất nhiều nền văn minh từng rực rỡ một thời, nay đều biến mất, chỉ còn để lại những di tích hoang phế? Chẳng hạn văn minh Angkor, văn minh Ai-cập, văn minh Maya, văn minh Atlantic, và cả nền văn minh gần với chúng ta nhất, đó là văn minh Nho giáo,…Những ai đã đọc cuốn “Nho Giáo” của cụ Trần Trọng Kim, có lẽ đều khó cầm lòng khi đọc những dòng buồn da diết sau đây: “Một cái nhà rất đẹp, lâu ngày không ai sửa sang, để đến nỗi bị cơn gió bão đánh đổ bẹp xuống… Không gì nữa, thì ta cũng vẽ lấy cái bản đồ để người đời sau biết rằng cái nhà ấy khi xưa đẹp đẽ là thế” [3*]. Cái nhà ấy là văn hóa Nho giáo đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam đang lụi tàn trước sự xâm lấn của văn minh vật chất Tây phương.Đó cũng chính là nỗi buồn của bài thơ “Ông Đồ” của cụ Vũ Đình Liên [4*] mà hầu hết chúng ta đều đã được học từ thủa nhỏ: “Mỗi năm hoa đào nở, Lại thấy ông đồ già, Bày mực Tàu giấy đỏ, Bên phố đông người qua…”. Lúc nhỏ tôi chỉ thấy vần điệu hay hay, chẳng hiểu bài thơ muốn nói gì. Vài chục tuổi đầu mới vỡ nhẽ ra rằng đó là nỗi đau lòng của cha ông mình khi phải chứng kiến sự suy tàn của những giá trị nhân bản từng được trân trọng, vun đắp, gìn giữ trong hàng ngàn năm trước đó.Rồi đến lượt thế hệ tôi. Khi bắt đầu ngộ ra nghĩa lý của đời sống, tôi giật mình nhận ra sự dốt nát của thế hệ mình, một chữ của cha ông bẻ làm đôi không hề biết. Thế hệ trẻ bây giờ càng không biết. Đau nhất là họ thản nhiên không cần biết. Điều đó chứng tỏ di sản văn hóa của cha ông đã tan loãng thành hư không rồi. Nói cách khác, nền văn hóa của chúng ta đã bị gián đoạn, gãy đứt giữa đường rồi. Thậm chí ảnh hưởng tinh túy của văn hóa Pháp ở Việt Nam một thời nở rộ (1930 – 1945) nay cũng trở nên mờ nhạt gần như không còn nữa, nói gì đến văn hóa truyền thống xa xưa.Nhìn sự suy tàn ấy bằng con mắt của nhà văn, nhà sử học, hay nhà xã hội học, thì đơn giản đó chỉ là chuyện thời thế đổi thay, xưa nay vẫn thế. Nhưng nhìn bằng con mắt của triết học thì đó là những biểu hiện của hiện tượng tăng “entropi xã hội”. Thật vậy, nền văn minh Tây phương xa xưa vốn tập trung ở Âu Châu, đến thế kỷ 17, 18, 19 nó phát tán mạnh ra toàn thế giới, lấn át và tiêu diệt nhiều nền văn minh bản địa khác. Đó là dấu hiệu của sự chuyển đổi từ trật tự sang vô trật tự trong các nền văn hóa. Sự suy tàn của các nền văn hóa từng rực rỡ một thời cũng đồng thời là sự suy tàn của các giá trị tinh thần và đạo đức. Điều đó trực tiếp gợi ý cho chúng ta suy ngẫm để đặt câu hỏi: Liệu định luật thứ hai của nhiệt động học, tức quy luật đi từ trật tự tới vô trật tự và ngày càng vô trật tự hơn có đúng với thế giới tinh thần của con người không? Tôi đã dằn vặt với câu hỏi đó từ những năm đầu của thập kỷ 2000.Stephen Hawking đã gián tiếp trả lời rằng ĐÚNG là như vậy, khi ông coi định luật thứ hai của nhiệt động học như một dạng của Định luật Murphy – định luật cho rằng mọi thứ ngày càng xấu đi.Trong lúc băn khoăn tiếp tục suy nghĩ về câu hỏi trên, tôi bất ngờ tìm thấy câu trả lời rất thú vị trong cuốn “Dưới Ánh Sáng của Thiền” (In the Light of Meditation) của Mike George, do GS Minh Chi dịch, NXB Hồng Đức xuất bản tại Việt Nam năm 2012. Trong cuốn sách này, Định luật Entropy (The Law of Entropy), tức định luật thứ hai của nhiệt động học, đã được diễn giải một cách tài tình là “Quy luật Tàn lụi”, một cách diễn giải rất sáng tạo, lột tả được bản chất của định luật thứ hai của nhiệt động lực học dưới con mắt xã hội học.

Mike George nhắc lại định luật thứ hai của nhiệt động lực học bằng một thứ ngôn ngữ rất trong sáng của ông: “Quy luật Tàn lụi mô tả sự vận động đi từ trật tự đến hỗn loạn khi năng lượng trong một hệ thống khép kín bị cạn kiệt và không được bổ sung từ một nguồn năng lượng mới nằm ngoài hệ thống”.Ngay lập tức, ông khẳng định rằng Quy luật Tàn lụi không chỉ chi phối thế giới tự nhiên, mà còn chi phối xã hội loài người.Được biết cuốn sách này ra mắt lần đầu tiên tại Mỹ ngày 17/05/2004, gần như đồng thời với khái niệm “entropy xã hội” mà tôi đã đề cập đến trên báo chí Vietnam năm 2003. Sự chênh lệch về thời gian không đáng kể, nhưng tôi phải thừa nhận rằng Mike George đã đào xới vấn đề sâu sắc hơn nhiều. Đọc sách của ông, tôi học được rất nhiều điều mới mẻ. Tôi thích cách nói rất sáng sủa, mạch lạc và “rõ như ban ngày” của ông. Đây, ông nhận định:Quy luật Tàn lụi “cho thấy sự xuống cấp ngày một trầm trọng ở những giá trị đạo đức, ở nhận thức và thái độ của con người”. Dấu hiệu rõ rệt của sự tàn lụi là trong xã hội ngày nay, nhiều người còn trẻ mà đã thấy “suy kiệt, mệt mỏi và già cỗi về tinh thần”. Đáng thất vọng nhất là sự đảo lộn về thang bậc giá trị. Cái gì là có giá trị nhất, có ý nghĩa nhất trong cuộc sống? Đây là thước đo, là tiêu chuẩn để đánh giá xu hướng tư tưởng của mỗi cá nhân và của một xã hội. Hãy nói cho tôi biết bạn thích cái gì, tôi sẽ biết bạn là ai. Hãy nói cho tôi biết bạn thích cuốn phim nào, tôi sẽ biết bộ não của bạn hướng về cái gì. Hãy trả lời câu hỏi con người là gì, tôi sẽ đoán được cách sống của bạn, cách ứng xử của bạn. Chẳng hạn nếu bạn quan niệm con người đơn giản là hậu duệ của chimpanzee như Học thuyết Darwin nói, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bạn coi vật chất là mục đích cuộc sống. Nếu bạn trả lời như Pascal, rằng con người là một cây sậy có tư tưởng, thì tôi đoán là bạn không thể không dằn vặt khi chứng kiến “entropy xã hội” tăng lên, tư tưởng con người ngày càng nghèo nàn đi, con người ngày càng xa lánh các giá trị tinh thần, tôn giáo, đạo đức hơn xưa. Vì thế Mike George chỉ ra rằng Quy luật Tàn lụi lộ rõ trong xã hội loài người thông qua sự đảo lộn về thang bậc giá trị . Thật vậy, nếu hỏi “cái gì được coi là có giá trị nhất và có ý nghĩa nhất trong đời sống loài người?” thì Mike George trả lời: “… … ta hiểu được vì sao những giá trị vật chất có sức ảnh hưởng mạnh mẽ hơn những giá trị tinh thần, và vì sao thái độ tiêu cực lại chiếm ưu thế hơn thái độ tích cực. Trên thực tế, giá trị con người cũng bị cuốn theo sự tàn lụi của môi trường thế giới. Các giá trị hoàn toàn trở nên nông cạn, giả tạo, do dựa trên nền tảng vật chất, chứ không còn dựa trên nền tảng tinh thần…”.Cái gì dẫn tới sự đảo lộn thang bậc giá trị đó? Câu trả lời của Mike George rất bất ngờ: “Nhìn lại vài trăm năm trước, chúng ta thấy hầu hết mọi cái được gọi là “nền văn minh” thường là bước khởi điểm cho sự suy thoái đạo đức”.Viết như thế dường như chưa đủ. Mike George nói rõ hơn: “Ở các kỷ nguyên trước, có những giai đoạn cách mạng trong tư duy của con người. Có vẻ những cuộc cách mạng này đã cải thiện phần nào cuộc sống trên trái đất. Những triết lý sống sâu sắc, những khám phá khoa học vĩ đại, hàng ngàn phát minh thiết thực hay sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu, tất cả đều góp phần tạo ra ảo tưởng về sự tiến bộ…”Các bạn trẻ có thể cảm thấy ý kiến của Mike George quá bi quan, và thậm chí vô lý, vì tại sao lại gán cho khoa học và công nghệ cái tội tạo ra ảo tưởng về sự tiến bộ. Hàng ngày chúng ta chứng kiến sự tôn vinh của xã hội đối với các thành tựu khoa học. Vậy chẳng phải khoa học và công nghệ là biểu hiện rõ ràng nhất của sự tiến bộ đó ư? Nào là Giải Nobel, nào là Giải Field, tất cả đều gây nên om sòm dư luận, các nhà khoa học đoạt Giải đều được cả thế giới kính trọng đó sao? Lẽ nào những người đó mắc tội tạo ra ảo tưởng về sự tiến bộ?Quả là nói cho một bạn trẻ hiểu được ý kiến của Mike George thật là khó, bởi những bạn trẻ ấy, chủ yếu do tuổi tác và niềm hy vọng vào tương lai ở phía trước, chỉ mới được nhìn thấy mặt ngửa của “đồng xu khoa học”, chưa nhìn thấy mặt sấp của nó. Mặt ngửa là vinh quang của các giải thưởng. Mặt sấp là gì? Là bom hạt nhân chăng? Là những vũ khí ghê sợ đang và sẽ ra đời trong thế kỷ 21 này chăng? Đúng thế đấy, nhưng chưa đủ. Mặt sấp tối tăm nhất của “đồng xu khoa học”, hay “đồng xu trí tuệ”, là THÓI TỰ PHỤ của con người! Càng nhiều thành tựu, con người càng tự phụ. Tự phụ là tấm màn che mắt con người. Nó làm cho người nhầm lẫn trong việc định giá các giá trị. Cái có giá trị bị hạ xuống. Cái kém giá trị hoặc vô giá trị được tôn vinh. Nếu Giải Field, Giải Nobel,… được con người coi là vinh quang tột đỉnh thì nhà toán học Grigori Perelman đã dạy cho chúng ta biết cái gì là giá trị đích thực khi ông từ chối mọi vinh quang dành cho ông sau khi chứng minh được Giả thuyết Poincaré (2006). Ông cười vào mặt những kẻ khốn khổ vì tiền bạc và vinh quang bằng một cử chỉ làm cả thế giới phải ngạc nhiên: ông quay về sống cuộc sống đơn sơ đạm bạc với bà mẹ già trong một căn hộ nghèo hèn, không thèm tiếp lũ báo chí săn đuổi ông. Tôi ngờ rằng đằng sau bộ râu rậm và ánh mắt sảo như nhìn thấu mọi sự thật, bộ não của Perelman không chỉ có toán học, mà còn chứa đựng những suy tư sâu sắc về tâm linh và tôn giáo, về ĐẠO. Chỉ với một tinh thần như vậy ông mới có đủ sức mạnh để KHINH tiền bạc và danh vọng như thế. Kẻ tầm thường làm sao hiểu được những nghĩa cử của ông.

Trở về với Mike George, tôi không rõ hiện nay ông bao nhiêu tuổi. Nhìn trong ảnh thì thấy ông vẫn còn trẻ (so với thế hệ tôi). Nhưng tôi khâm phục một người còn trẻ như ông mà đã nhìn thấu những căn bệnh trầm kha của xã hội hiện đại. Tôi càng khâm phục hơn khi thấy ông muốn đánh động cho mọi người biết vấn nạn trầm kha đó, để tìm con đường giải thoát cho bản thân và cho cộng đồng. Con đường ông vạch ra là Thiền, đi vào nội tâm, tìm lại những giá trị đích thực vốn sẵn có trong mỗi con người, nhằm đạt tới một mục tiêu nhân bản: tìm thấy HẠNH PHÚC THẬT, GIÁ TRỊ THẬT ngay trong cái thế giới ngày càng vô trật tự này! Đôi khi tôi cũng tâm sự với một số bạn trẻ về sự hỗn loạn, xuống cấp về đạo đức và văn hóa trong xã hội ngày nay, tôi gặp những phản ứng đại loại như: “Chao ôi, mỗi thời một khác, ông không thể đòi hỏi thời đại bây giờ giống như ngày xưa được. Mỗi thời có cái đặc trưng của nó, làm sao giống nhau được”.Ý kiến của bạn trẻ này thể hiện rất rõ lối sống của một tầng lớp rất đông đảo con người trong xã hội hiện đại – lối sống tưởng mình là khôn ngoan nhưng thực ra chỉ là hành động theo bản năng vô thức. Lối sống ấy đưa con người trôi nổi một cách hoàn toàn vô thức theo dòng chảy của thời đại, không biết và không cần biết nó sẽ đưa mình đến đâu. Viết đến đây, tôi bỗng nhớ tới một tên bố già trong cuốn phim “Bạch tuộc” của Ý. Khi bị chất vấn “tại sao mày có thể hành động bất lương đến thế?”, hắn thản nhiên trả lời: “Vì trước hết ta phải làm vua đã!”. Rất nhiều người ngày nay không tuyên bố, nhưng cũng thầm nghĩ: “Trước hết ta phải có tiền đã, ta phải ăn no, phải có nhà cao cửa rộng, có xe cộ láng bóng, phải lấy vợ, đẻ con, con ta phải hơn con thiên hạ… đó là tất cả, là mục đích cuộc sống của ta! Mọi thứ triết lý không phục vụ mục tiêu ấy đều vô nghĩa. Xã hội xuống cấp ư? Đó là việc của xã hội, đâu phải việc của ta!”.Tôi thông cảm với những người như thế, vì những người ấy có thể đã không có điều kiện chứng kiến những cái tốt đẹp hơn để so sánh. Trong khi những người từng chứng kiến những giai đoạn xã hội êm đềm hơn, đạo đức hơn, giá trị tinh thần và văn hóa được đề cao hơn, cuộc sống có ý nghĩa hơn, xã hội giầu tình người hơn,… thì làm sao tránh khỏi sự so sánh luyến tiếc. Như cụ Trần Trọng Kim chẳng hạn. Trong khi cụ thể hiện một nỗi buồn da diết vì căn nhà đẹp bị hoang phế, đổ nát thì có những người trong thời đại ngày nay, trí thức chữ nghĩa hẳn hoi, phê phán Khổng tử là đã tạo ra một thứ Đạo kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vậy chân lý ở đâu? Thật là buồn. Tại sao Nho giáo ngày xưa được tổ tiên ta trân trọng, bây giờ lại bị vứt bỏ? Tổ tiên chúng ta sai, hay chúng ta sai? Phải chăng chân lý là Quy luật Tàn lụi, vậy ta chấp nhận nó, sống theo quy luật tàn lụi, tự làm cho cuộc sống của mình ngày càng tàn lụi về các giá trị tinh thần và đạo đức, ngày càng vô nghĩa hơn? Đó là một cách lựa chọn.Cách lựa chọn thứ hai là tự giải thoát ra khỏi quy luật đó, tự tìm cho mình một cuộc sống thanh bạch hơn, có ý nghĩa hơn, nhân bản hơn. Các bậc Thánh Nhân thời xưa đã chỉ cho chúng ta thấy rất nhiều con đường giải thoát. Lão tử chỉ ra con đường ĐẠO. Ngài nói: “Thất Đạo nhi hậu Đức; Thất Đức nhi hậu Nhân; Thất Nhân nhi hậu Nghĩa; Thất Nghĩa nhi hậu Lễ” (mất Đạo rồi mới có Đức; mất Đức rồi mới có Nhân; mất Nhân rồi mới có Nghĩa; mất Nghĩa rồi mới có Lễ). Vậy Đạo là cái gốc của Trời Đất. Con người muốn sống cùng Trời Đất thì phải sống theo ĐẠO. Thời đại ngày nay đang đánh mất cả Lễ, vậy còn nói gì đến Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa? ĐẠO của Lão cao quá, khó quá, nhưng phải biết rằng Trời Đất có ĐẠO và đã là con người thì phải sống theo ĐẠO của Trời Đất.Tại sao Lễ càng ngày càng mất? Hãy đọc cuốn “Nho Giáo” của cụ Trần Trọng Kim để tìm câu trả lời. Tôi chỉ xin nói vắn tắt: Nho giáo rất coi trọng Lễ. Nhưng Nho giáo suy tàn rồi ắt Lễ cũng mất theo. Trong khi tiếp thu nền văn minh vật chất Tây Phương, nhiều dân tộc Á Châu đã vứt bỏ những giá trị truyền thống quý giá của mình, bao gồm Nho giáo. Đó là căn nguyên của sự suy giảm về Lễ. Quốc gia nào biết kết hợp văn minh kỹ thuật Tây Phương với văn minh ĐẠO của Á Châu, quốc gia ấy sẽ phát triển một cách hài hòa, ổn định, cân bằng, ít nhất ở mức tương đối so với các quốc gia khác. Trong thực tế hiện nay, phải chăng đó là Singapore và Hàn Quốc?Cùng thời với Lão tử và Khổng tử, Châu Á còn sản sinh ra một Thánh Nhân vĩ đại khác, đó là Đức Phật. Ngài đã từ bỏ vinh hoa phú quý để sống cuộc đời của ĐẠO, răn dạy người đời làm theo Ngài, ngõ hầu đạt tới sự giác ngộ, nhận ra đâu là con người thật của mình. Ngài chỉ cho chúng ta biết rằng những giá trị chúng ta đang tôn vinh chỉ là những giá trị ảo. Hãy học hỏi và suy niệm để tìm ra lẽ thật. Ngài từng dạy rằng sự hỗn loạn nằm ở ngay trong tâm thức của chúng ta, hãy cố gắng đấu tranh với nó, dẹp bỏ nó ra khỏi chính bản thân ta.500 năm sau, Chúa Jesus ra đời trong nghèo hèn, nhưng mang một sứ mệnh vĩ đại là hy sinh mạng sống của mình để cứu chuộc nhân loại. Những người không hiểu hoặc không tin Thiên Chúa giáo sẽ không hiểu tại sao con người cần phải được cứu chuộc. Nhưng những người hiểu và tin thì biết rõ điều đó. Đơn giản vì con người vốn tội lỗi. Con người phải được thanh tẩy và phải được cứu chuộc. Trước khi chịu khổ hình, Chúa Jesus đã đi rao giảng để dạy con người phải biết kính sợ Thiên Chúa mà sống theo lẽ Đạo. Đạo cao nhất của Ngài là yêu thương, đối lập tuyệt đối với sự thù oán, đố kị, ghen ghét, sát hại lẫn nhau.Nhưng con người, bị choáng váng lóa mắt bởi những thành tựu vật chất, càng ngày càng trở nên tối tăm trước các giá trị tinh thần, và do đó càng ngày càng xa lánh những lời dạy của cha ông, tổ tiên. Trong xã hội hiện đại, lời của Thánh Nhân không tác động mạnh đến tuổi trẻ bằng một kiểu Iphone hay Samsung mới ra đời. Triết học không có giá trị bằng một chiếc xe đời mới,… Những lý thuyết khoa học như Bất định, Bất toàn, Hỗn độn, Entropy,… không lay chuyển nổi cách tư duy tự phụ, thiển cận của đám đông, trong đó có cả những trí thức khoa bảng bậc nhất.Trước chiều hướng xấu đi về đạo đức xã hội, ngay từ cuối thế kỷ 19, nhà triết học Friedrich Nietzsche đã lên tiếng báo động “Thượng đế đã chết”, để cảnh báo nhân loại hãy tỉnh thức, vì những giá trị kinh điển mà loài người hằng tôn thờ trong hàng ngàn năm trước đã sụp đổ, để lộ ra một khoảng trống tinh thần không có gì bù khuyết, đưa nhân loại đến tình trạng bơ vơ giữa ngã ba đường,… Nhưng nhân loại tiếp tục sống trong những giấc mơ vô thức, đinh ninh rằng Thương Đế đã chết thật rồi, vậy cứ việc ăn no ngủ kỹ, không cần bận tâm tới Thượng Đế nữa. Đó chính là quang cảnh của xã hội hiện đại!Không có Thượng Đế thì gian trá một chút có sao đâu, miễn là che mắt được pháp luật. Mà pháp luật cũng do con người tạo ra. Có gì đảm bảo nó là một khuôn mẫu chắc chắn để giữ cho xã hội nằm trong thế quân bình trật tự đâu. Tóm lại, lương tri của con người trong xã hội hiện đại bị mất điểm tựa. Entropy xã hội tăng vọt! Tình trạng xã hội loài người hiện nay, theo Mike George, đang ở giai đoạn tồi tệ nhất. Mike nhận định: “Giờ đây con người có thể giao tiếp với nhau từ khoảng cách rất xa vào bất cứ lúc nào, nguồn thông tin cũng dồi dào và đa dạng hơn, xe cộ chạy nhanh hơn; tuy nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau lại lâm vào khủng hoảng”.Khủng hoảng tội ác, khủng hoảng chiến tranh, khủng hoảng ý thức hệ, khủng hoảng giáo dục, khủng hoảng môi trường, khủng hoảng bệnh tật, khủng hoảng đói nghèo, … Nếu nền văn minh thực sự tiến bộ thì tại sao loài người lại lâm vào nhiều khủng hoảng như thế?Mike kết luận: “Con người ngày càng thụ hưởng nhiều thành tựu từ sự tiến bộ công nghệ, nhưng không còn những mối quan hệ lành mạnh, yêu thương hài hòa với chính mình, với người khác, và với hành tinh…”.Nhưng trớ trêu thay, Quy luật Tàn lụi không thể đảo ngược. Đó là một NGHỊCH LÝ, một thách thức vĩ đại của Tự Nhiên đối với con người. Làm thế nào để sống một cuộc sống nhân bản, có ý nghĩa, trong khi không thể chống lại Quy luật Tàn lụi? Phải chăng đó chính là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, rằng hoa sen phải nở trên bùn, và con người càng phải học hỏi nhiều hơn, tu dưỡng nhiều hơn để trở thành con người đúng nghĩa hơn khi cạm bẫy vật chất và sự tha hóa bủa vây quanh mình dầy đặc hơn? Nếu đúng như thế thì Quy luật Tàn lụi bản thân nó không xấu. Nó là cái lò tôi luyện để cho ra khỏi lò những sản phẩm khác nhau, hoặc vàng, hoặc bạc, hoặc đồng, hoặc sắt,… Làm thế nào để con người trở thành những sản phẩm quý giá của Tự Nhiên, bất chấp Quy luật Tàn lụi? Hoặc đặt câu hỏi chính xác hơn, làm thế nào để tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong giai đoạn hiện nay, khi “entropy xã hội” đã đạt tới chỉ số dường như cực đại? Theo tôi, đó là sự lựa chọn cách sống, hay nói một cách tổng quát: lựa cọn con đường giải thoát.

Khi đặt câu hỏi “Nhân loại hiện nay đang ở đâu?”, Mike George trả lời: “Xét trong bối cảnh lịch sử toàn bộ nhân loại, loài người chúng ta đang ở vào thời kỳ đen tối nhất trong mối quan hệ với nhau”. Thật vậy, theo dõi tin tức hàng ngày, chúng ta thấy những tin “hot” nhất thường là những cuộc đối đầu căng thẳng và nguy hiểm trên chính trường quốc tế. Các họng súng đều sẵn sàng nhả đạn. Bom hạt nhân lúc nào cũng như những bóng ma rập rình ngoài cửa sổ. Tổ chức khoa học hạt nhân thế giới phải cảnh báo nhân loại bằng hình ảnh chiếc đồng hồ chỉ vào lúc 7 phút trước “Midnight” – 12 giờ đêm được ví như đêm tối của thảm họa hạt nhân. Còn hàng trăm nguy cơ khác: chiến tranh khủng bố, khủng hoảng tội ác, khủng hoàng bất công, khủng hoàng đói nghèo, khủng hoảng dối trá,… Ôi, không thể kể hết những nỗi lo sợ do con người tạo ra. Con người thật đáng sợ. Rất nhiều lời cảnh báo đã xuất hiện. Nhưng cảnh báo sâu sắc nhất có lẽ là câu chuyện “Cuộc đời của Pi” (Life of Pi) của Yann Martel [5*].

Truyện kể rằng ở trong vườn thú Pondicherry ở Ấn Độ, có một câu hỏi lớn được sơn bằng chữ đỏ trên một bức tường: “DO YOU KNOW WHICH IS THE MOST DANGEROUS ANIMAL IN THE ZOO? (Bạn có biết con thú nào nguy hiểm nhất trong vườn thú không?). Một mũi tên chỉ vào một bức rèm cửa nhỏ. Rất nhiều kẻ tò mò háo hức vội vén bức rèm ấy lên để nhìn vào trong. Chẳng thấy con thú nào ở đó, chỉ thấy một chiếc gương, và hình mình trong chiếc gương!Yann Martel vẽ ra một khung cảnh nhân loại thu nhỏ thành đám hành khách trên chiếc tầu thủy Tsimtsum đi từ Ấn Độ sang Canada. Trên đó toàn những kẻ vô thần chỉ biết sống theo những bản năng tầm thường, không bận tâm tới cái gì khác ngoài những nhu cầu trực tiếp như miếng ăn miếng uống và những mối lợi làm ăn. Độc nhất chỉ có một mình Pi là tin vào Thượng Đế, một niềm tin trong sáng ngây thơ của cậu bé có tâm hồn trong trắng. Cậu sinh ra là để tôn thờ những cái thiêng liêng. Đối với cậu, Đấng Tối Cao có nhiều tên gọi khác nhau. Dù gọi thế nào cậu cũng tin rằng Đấng ấy là trên hết, có quyền năng vô biên.Con tầu Tsimtsum gặp nạn trên biển Philipines, chìm nghỉm giữa đêm khi mọi người còn đang ngủ say, không kịp thoát. Pi thoát chết nhờ những cái ngẫu nhiên không thể nào tin nổi. Tất nhiên nhờ cả khả năng dày dạn với mặt nước của cậu – tài bơi lội cậu được huấn luyện từ nhỏ bởi ông chú. Nhưng đó chỉ là cái cớ tối thiểu để cậu được sống tiếp tục trên biển, rồi trải qua những thử thách khủng khiếp nhất, những tai họa rùng rợn nhất mà một đời người có thể trải qua. Chỗ không thể tin trong câu chuyện chính là chỗ khác nhau giữa người có đức tin tôn giáo với người vô thần. Người vô thần chỉ tin vào những gì họ trông thấy, sờ thấy, những gì họ có thể chứng minh hoặc thực chứng. Điển hình là những người theo chủ nghĩa duy khoa học (scientism). Điều đáng sợ nhất ở những người này là thói tự phụ, không biết sợ Trời, sợ Đất. Họ tin rằng con người có thể trở thành siêu nhân, thống trị thiên nhiên. Vì thế họ sẵn sàng áp đặt ý chí của họ lên thế giới.Người có đức tin tôn giáo thì khiêm tốn, nhưng tin tưởng tuyệt đối vào Thượng Đế của họ. Họ biết rằng con người thật bé nhỏ, tầm thường, nhưng Thượng Đế thì vĩ đại, quyền năng. “With man this is impossible, with God everything is possible” (Có những việc con người không thể làm được, nhưng Chúa có thể làm được mọi điều”.Cuộc đời của Pi mang dáng dấp của một biến tấu tích truyện ông Noah trong Kinh Thánh: con người từ xa xưa đã hư đốn hỗn hào đến nỗi bị Chúa trừng phạt bằng nạn Đại Hồng Thủy, chỉ có ông Noah là người công chính biết kính sợ Chúa thì được cứu sống, từ đó lại sinh sôi nẩy nở thành nhân loại ngày nay. Cậu bé Pi chính là ông Noah trong thời đại ngày nay. Còn nhân loại ngày nay được Yann Martel ví như những hành khách trên con tầu Tsimtsum. Cha mẹ và anh ruột của Pi là những người tốt, cũng bị chìm trên tầu. Thật là bi đát! Họ chỉ khác Pi ở chỗ hoàn toàn vô thần. Phải chăng Yann Martel không thể chấp nhận con người không có đức tin tôn giáo? Dù là tôn giáo hay không tôn giáo, điều quan trọng là con người phải biết sợ Trời, sợ Đất. Nếu biết sợ Trời, sợ Đất thì đó chính là ý thức tôn giáo bẩm sinh rồi đó. Và đó chính là cánh cửa hé mở để tìm thấy con đường giải thoát.Tôn giáo là một vấn đề rất tế nhị. Nhiều người không bao giờ tìm hiểu kỹ về tôn giáo hay thậm chí chẳng hiểu gì về tôn giáo nhưng phán xét tôn giáo rất khắt khe. Vì thế để tránh mọi hiểu lầm, tôi không nói đến con đường giải thoát bằng tôn giáo, nhưng bằng con đường ĐẠO (The TAO). Đó là Đạo của Trời Đất, hay đạo đức của con người, hay Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa,… hiểu thế nào cũng đúng.Tùy theo vị trí và lập trường tư tưởng, mỗi người hãy lựa chọn cho mình một khái niệm ĐẠO thích hợp với mình, nhưng không thể không có. Xã hội loài người phải có ĐẠO làm chỗ dựa. ĐẠO là cái giúp cho chúng ta sống an nhiên tự tại ngay cả khi Quy luật Tàn lụi tạo nên những cơn giông bão khủng khiếp nhất như trong câu chuyện Cuộc đời của Pi. ĐẠO sẽ giúp cho chúng ta về tới đất liền bình an, hạnh phúc.

Có một sự thật “trớ trêu” là những người may mắn về tiền bạc, công danh sự nghiệp trí tuệ hơn người, nhiều khi lại khó tìm thấy ĐẠO hơn những người kém may mắn và đau khổ, như Chúa Jesus mô tả: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào được Nước Trời. Có lẽ các ông Bill Gates hay Warren Buffett hiểu rõ điều đó nên các ông đem gần hết của cải đóng góp cho từ thiện. Phải có tâm hồn thánh thiện mới có thể làm được những việc nhân đức to lớn như thế. Ngược lại với người đau khổ thì ĐẠO là cái phao cứu sinh của họ. Chỉ trong đau khổ con người mới tìm ra lẽ thật. Trước đây tôi từng day dứt với câu hỏi “tại sao con người phải sinh ra đời để chịu nhiều đau khổ đến thế?”. Mãi gần đây tôi mới gặp được một lời giải thích tuyệt vời: “God sends the storm to show He is the only shelter” (Chúa gửi bão tố xuống để chứng tỏ Ngài là chỗ trú ẩn duy nhất).

Thì ra Yann Martel đã thấm nhuần giáo huấn đó để sáng tạo nên tác phẩm bất hủ của ông, Cuộc đời của Pi. Trong tủ sách của tôi, Cuộc đời của Pi nằm trong ngăn trên cùng, nơi chứa những cuốn sách giúp tôi giải thoát.

Ý Nghĩa Của Cuộc Sống Là Gì?

Câu hỏi

Ý nghĩa của cuộc sống là gì?

Trả lời

Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Làm sao tôi có thể tìm được mục đích và sự thỏa mãn hoàn toàn cho cuộc sống? Làm sao để đạt được điều gì đó có ý nghĩa lâu dài? Nhiều người không bao giờ ngừng xem xét những câu hỏi quan trọng đó. Họ nhìn lại và tự hỏi tại sao những mối quan hệ dần tan vỡ và tại sao họ cảm thấy trống vắng mặc dầu họ đã đạt được những thành công do họ đặt ra. Một cầu thủ nổi tiếng trong làng thể thao đã được hỏi rằng anh muốn người ta nói với anh điều gì lúc anh mới bắt đầu chơi bóng. Anh đã trả lời: “Tôi ước rằng ai đó sẽ nói với tôi rằng ở trên đỉnh vinh quang chẳng có gì.” Nhiều mục tiêu đã cho thấy sự trống rỗng của nó sau những năm tháng theo đuổi lãng phí.

Trong xã hội lấy con người làm trọng tâm, con người theo đuổi nhiều thứ vì họ nghĩ sẽ tìm thấy ý nghĩa. Những mục tiêu họ theo đuổi gồm có: Sự thành công trên thương trường, sự giàu có, nhiều mối liên hệ tốt, tình dục, giải trí, làm điều lành cho người khác. Nhiều người đã chứng nhận rằng ngay cả khi họ đạt được sự giàu có, các mối quan hệ, và vui thú, thì vẫn có những khoảng sâu trống mà dường như không thể lấp đầy được.

Tác giả của sách Truyền đạo đã nói về cảm giác này khi ông nói: “Hư không! Hư không! Hư không của sự hư không thảy đều hư không” (Truyền Đạo 1:2).Tác giả của sách Truyền Đạo, là vua Sô-lô-môn, là người giàu có không thể đo lường được, khôn ngoan hơn bất kỳ ai trong thời ấy cũng như thời nay, có hàng trăm bà vợ, những lâu đài và vườn tược khiến cho nhiều vương quốc khác ghen tỵ, thức ăn và rượu uống ngon nhất và có rất nhiều hình thức vui chơi giải trí. Ông từng nói là ông theo đuổi mọi điều ông muốn, tuy nhiên ông đã kết luận, “cuộc sống dưới mặt trời” (là quan điểm cho rằng cuộc sống chỉ là những gì mình thấy bằng mắt và trải nghiệm bằng các giác quan là tất cả) là hư không. Tại sao cuộc sống như vậy lại trống rỗng? Bởi vì Đức Chúa Trời tạo nên chúng ta cho những điều vượt trên những kinh nghiệm chúng ta có hiện hôm nay. Sa-lô-môn đã nói về Đức Chúa Trời: “Ngài cũng đã đặt sự trường tồn bất diệt trong những tấm lòng con người.” (Truyền Đạo 3:11). Trong lòng chúng ta nhận thức được là những gì hôm nay-ở không phải là tất cả.

Trong sách Khải Huyền, sách cuối cùng của Kinh Thánh, Đức Chúa Trời mặc khải rằng Ngài sẽ hủy diệt trời và đất này và khởi đầu kỉ nguyên đời đời khi Ngài tạo dựng nên trời và đất mới. Vào thời điểm đó, Ngài sẽ phục hồi hoàn toàn mối tương giao với những người đã được cứu rỗi, trong khi đó, những người không nhận sự cứu chuộc sẽ bị phán xét là không xứng đáng bị quăng vào hồ lửa (Khải Huyền 20:11-15). và sự rủa sả tội lỗi sẽ chấm dứt, tại nơi đó không còn có tội lỗi, buồn rầu, bệnh tật, sự chết hay đau đớn (Khải Huyền 21: 4). Đức Chúa Trời sẽ ở với họ, và họ sẽ làm con của Ngài (Khải Huyền 21:7). Giống như một vòng tuần hoàn, bắt đầu bằng việc Đức Chúa Trời tạo dựng chúng ta để tương giao với Ngài; con người phạm tội, phá vỡ mối tương giao đó; Đức Chúa Trời phục hồi mối tương giao trọn vẹn trong tình trạng vĩnh cửu. Nếu chúng ta chỉ sống và đạt được mọi thứ nhưng đến cuối cùng chỉ là sự chết và đời đời phân rẽ với Đức Chúa Trời thì còn tệ hơn cả hư không. Nhưng Đức Chúa Trời đã mở một con đường không chỉ mang đến phước hạnh đời đời (Lu-ca 23:43) nhưng cũng làm cho cuộc sống này thỏa vui và đầy ý nghĩa. Làm sao để nhận đuôc phước hạnh trường tồn và “Thiên đàng trên đất”?

Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG ĐƯỢC PHỤC HỒI BỞI CHÚA GIÊ-XU CHRIST:

Ý nghĩa thực của cuộc sống, bây giờ và cõi vĩnh hằng được tìm thấy qua sự phục hồi mối liên hệ của con người với Đức Chúa Trời mà đã bị mất khi A-đam và Ê-va sa ngã vào tội lỗi. Mối tương giao đó với Đức Chúa Trời chỉ có thể phục hồi qua con của Ngài, Chúa Giê-xu Christ (Công 4:12; Giăng 14:6; Giăng 1:12). Khi một người ăn năn tội lỗi thì sẽ nhận được sự sống đời đời (Nghĩa là người không muốn tiếp tục trong tội lỗi) và Chúa Giê-xu sẽ thay đổi chúng ta và khiến chúng ta trở nên mới, và chúng ta tin cậy Chúa Giê-xu như là Cứu Chúa của chính mình.

Ý nghĩa thực sự của cuộc sống không chỉ là tin nhận Chúa Giê-xu như là Cứu Chúa, dù đó là điều kỳ diệu. Nhưng ý nghĩa thực của cuộc sống là khi một người bước theo Chúa như một môn đồ của Ngài, học hỏi về Chúa, dành thời giờ trong với Chúa qua Lời Ngài, trò chuyện thân mật với Ngài trong giờ cầu nguyện, và đồng đi với Chúa trong việc vâng theo những mạng lệnh của Ngài. Nếu bạn chưa tin Chúa (hay là người mới tin) bạn đang tự nói với chính mình “Điều đó có gì làm cho tôi thích thú hay được thỏa nguyện”. Nhưng Chúa Giê-xu đã đưa ra những lời kêu gọi:

“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng! Hãy đến cùng Ta! Ta sẽ cho các con được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì và khiêm nhường, hãy gánh lấy ách của Ta và học theo Ta thì linh hồn các con sẽ được yên nghỉ vì ách của Ta dễ chịu và gánh của Ta nhẹ nhàng.” (Ma-thi-ơ 11:28-30). “Còn Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật.” (Giăng 10:10b). “Nếu ai muốn theo Ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ Ta mà mất sự sống thì sẽ được lại” (Ma-thi-ơ 16:24-25). “Hãy khoái lạc nơi Đức Giê-hô-va, thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao ước” (Thi Thiên 37:4).

Những câu Kinh Thánh trên cho chúng ta thấy mình có sự lựa chọn. Chúng ta có thể tự tìm kiếm sự hướng dẫn cho cuộc sống mình, để dẫn đến một cuộc sống trống rỗng, hay chúng ta chọn lựa theo đuổi Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài dành cuộc sống chúng ta với cả tấm lòng, để dẫn đến một cuộc sống trọn vẹn, được thỏa nguyện những điều mà lòng chúng ta ao ước, và tìm thấy sự thỏa mãn và thỏa lòng. Điều đó là khả dĩ vì Đấng sáng tạo yêu thương chúng ta và mong muốn điều tốt nhất cho chúng ta (không nhất thiết là cuộc sống dễ dàng nhất nhưng là cuộc sống trọn vẹn nhất).

Đời sống của một Cơ Đốc nhân có thể ví như lựa chọn giữa việc mua một chỗ ngồi đắt tiền trong một trận đấu để có thể theo dõi từ khoảng cách gần , hoặc là mua một chỗ ngồi rẻ tiền và phải theo dõi trận đấu từ xa. Theo dõi Đức Chúa Trời làm việc “ở hàng ghế đầu tiên” là điều mà chúng ta nên chọn lựa. Chứng kiến Đức Chúa Trời hành động ngay trước mắt mình là dành cho những môn đồ hết lòng của Đấng Christ, là những người đã thực sự từ bỏ việc theo đuổi những ham muốn riêng của mình để theo đuổi mục đích của Đức Chúa Trời. Họ đã phải trả giá cho điều đó (hoàn toàn quy phục Đấng Christ và ý muốn của Ngài); thì họ sẽ kinh nghiệm được cuộc sống trọn vẹn; họ có thể đối mặt với chính họ, bằng hữu của họ, và Đấng sáng tạo mà không phải hối tiếc! Bạn muốn trả giá cho điều đó không? Bạn có sẵn lòng không? Nếu đồng ý bạn sẽ không còn đói khát ý nghĩa hay mục đích cuộc sống nữa.

English

Trở lại trang chủ tiếng Việt

Ý nghĩa của cuộc sống là gì?