Top 3 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Phục Hưng Là Gì Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Mỹ Thuật Phục Hưng Là Gì?

Vài nét khái quát về Phục Hưng

Thời kỳ Phục Hưng có gốc từ tiếng Pháp – Renaissance (nghĩa là sự tái sinh), còn gọi là Rinascimento (tiếng Ý), là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ thời kỳ Trung cổ sang thời kỳ Cận đại, cũng như từ thời kỳ phong kiến sang thời kỳ tư bản.

Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,…và hơn cả đó là hội hoạ). Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật – “thời kì của hội hoạ”.

Nét độc đáo trong hội họa Phục hưng

Các tác phẩm Phục Hưng mang tư tưởng nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người. Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang khái quát hóa hình thức hoành tráng. Tìm chỗ dựa ở nghệ thuật cổ đại Hy lạp – La mã. Tranh thời kì Phục Hưng là tranh của sự mẫu mực. Tả chất vô cùng độc đáo với làn da mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp chắc khỏe của người đàn ông… Tạo hình khốc liệt, có sức mạnh về chiều sâu không gian. Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần…

Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt của nền mĩ thuật thế giới, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nhiều lĩnh vực như: tìm ra chất liệu sơn dầu, phát triển bộ môn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối cảnh, hình hoạ, nhiếp ảnh… Là nơi sản sinh ra rất nhiều nhân tài nghệ thuật, nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới. Phục hưng có nghĩa là “làm sống lại”. Đã vậy, chỉ nhìn vào những tác phẩm hội hoạ của thời Phục Hưng chúng ta có thể nhận ra về mặt tôn giáo và lịch sử mà không cần phải qua sách vở. Đó là những tác phấm sống mãi với thời gian.những hoạ sĩ bậc thầy lớn để các ngòi bút không ngừng tranh cãi mặc dù đã cách xa hàng trăm năm.

Một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu của thời kì Phục Hưng

Giotto di Bondone (1267 – 1337)

Giotto là một thiên tài đã phá vỡ vòng kim tỏa của nghệ thuật Byzantine và thoát ra, mạo hiểm dấn thân vào một thế giới mới, đã chuyển dịch những hình tượng sống động của nghệ thuật Gothic vào trong hội họa. Người Ý tin rằng một kỉ nguyên nghệ thuật hoàn toàn mới đã bắt đầu mới sự xuất hiện của họa sĩ vĩ đại ấy. Ông nổi tiếng với các bức bích họa trong Nhà Nguyện Arena (Arena Chapel), hoàn thành khoảng năm 1305, mô tả cuộc đời Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa Jesu. Đây được coi là một trong những kiệt tác của thời kì đầu Phục Hưng.

Các bức bích họa bên trong Nhà Nguyện Arena Nụ hôn của Dudas Vào thành Jerusalem ( Entry into Jerusalem) Phán xét cuối cùng Trích đoạn bức bích họa Phán xét cuối cùng Leona Da Vinci (1452 – 1519)

Leonar da Vinci là một họa sĩ, đồng thời cũng là nhà bác học am hiểu nhiều bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên: điêu khắc, kiến trúc, toán học, cơ khí học, sinh học,… Sự hiểu biết của ông mang dấu vết liên tục trong lịch sử khoa học và nghệ thuật Châu Âu qua nhiều thế kỉ. Ông được xem là một trong những nhà nghiên cứu và sáng tạo cái mới xuất sắc. Trong suốt quá trình hoạt động nghệ thuật của mình, ông chỉ để lại khoảng 30 tác phẩm. Song mỗi tác phẩm của ông lại là một cuộc tìm tòi để tạo ra cái mới cho nhiều thế hệ sau học tập. Những tác phẩm của ông còn giữ tới ngày nay là những mẫu mực về nhiều mặt cho nền hội họa thế giới.

Trong thời gian ở Milan giữa những năm 1495- 1498, Leonar vẽ bức tranh tường cho nhà thờ Thánh Maria denhla – Hraxi ( gần Milan ) “Buổi họp kín” hay còn gọi là bữa tiệc cuối cùng (1495 – 1498) – Tranh tường. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt thẩm mỹ mà còn có giá trị to lớn về tính khoa học trong nghệ thuật. Điều mà Leonar vẫn tâm đắc và tự hào.

Bữa tiệc cuối cùng (1495 – 1498)

Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc tới Leonar mà không nhắc tới tác phẩm Monalisa hay còn gọi là La giocongdo. Bức tranh nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của họa sĩ.

Nàng Monalisa

Đây là bức chân dung miêu tả tâm lý rất thành công. Nhân vật trong tranh được tác giả chăm chút cả về vẻ đẹp ngoại hình lẫn nội tâm. Điểm đặc biệt trong bức tranh là nụ cười bí hiểm của nàng Monalisa, nụ cười vừa phảng phất niềm vui và nỗi buồn khiến người xem cứ vương vấn mãi. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp lý tưởng không chỉ của thế kỉ XVI mà còn là vẻ đẹp lý tưởng của mọi thời đại.

Không chỉ thành công ở thể loại chân dung, đề tài về Chúa và thần thoại cũng được Leonar thể hiện rất thành công với những tác phẩm nổi tiếng như: Đức Mẹ Litta, Leda… Từ năm 1500 – 1516 Leonard dành nhiều thời gian để nghiên cứu khoa học. Ông muốn sáng tác một bộ Bách khoa toàn thư về “sự vật trong thiên nhiên”. Ngoài ra ông vẫn sáng tác cho đến cuối đời.

Lady and an ermine Đức mẹ Madona trong hang đá Bella Principessa Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa hài đồng Đức mẹ Litta Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (1475 – 1564)

Michelangelo không chỉ là nhà điêu khắc nổi tiếng của thời kỳ phục hưng mà còn là một kiến trúc sư, một hoạ sĩ và là một nhà thơ. Ở bất kì lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm tiêu biểu được lưu giữ mãi tới mai sau.

Ông là một hoạ sĩ kỳ tài với tác phẩm nổi tiếng nhất là quần thể tranh trong nhà thờ Sistine. Tuy vậy niềm đam mê thật sự của ông lại là tạc nên những pho tượng và tác phẩm đầu tiên đưa tên tuổi và uy tín của ông đến với mọi người là: Pietta (theo tiếng Pháp có nghĩa là “tình thương”). Tác phẩm được ông hoàn thành trong 5 năm. Với tác phẩm này ông đã rất thành công khi miêu tả nỗi xót thương, đau đớn của đức mẹ trước đứa con đã mất trên tay. Chân dung chúa Jesu cũng được tác giả miêu tả vô cùng sống động. Ở đó ta nhìn thấy rõ nỗi đau đớn mà chúa phải chịu đựng trước khi mất nhưng ta cũng nhìn thấy ở chân dung đó niềm kiêu hãnh của một vị anh hùng, một đấng cứu thế. Ngoài ra tác phẩm còn thành công trong việc thể hiện những nét gấp trang phục, chất da thịt mền mại. Bằng thủ pháp đối lập giữa nét mền mại của các nếp áo váy phong phú và đa dạng với mảng phẳng nhẵn của cơ thể chúa Jesu. Sự đối lập đó tạo nên sự nổi bật khác nhau của nhân vật, của sự sống và cái chết.

Từ năm 1501 – 1504, Michelangelo dành thời gian để tạo nên kiệt tác cho nhân loại, đó là bức tượng người anh hùng David của người dân Hebreuca đã chiến thắng người khổng lồ Goliat. Bức tượng được xem là một sự hoàn thiện mẫu mực về vẻ đẹp thể chất và vẻ đẹp tinh thần của con người. Pho tượng cao 5,5m này được đặt ở trước trụ sở hành chính của thành Phlorangxo. Đây là niềm tự hào của người dân thành phố, họ coi David là một “người khổng lồ” là biểu tượng sức mạnh của con người.

Tượng David

Những năm cuối đời là những năm sáng tác đẹp đẽ của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất là bức “Sự phán xét cuối cùng” và cảnh Chúa giáng thế trên trần nhà Nguyện Sistine.

Các bức bích họa trong nhà nguyện Sistine Bức bích họa trên trần nhà nguyện Phán xét cuối cùng Sự sáng tạo ra con người Raphael Santi (1483 – 1520)

Khác với Leonar, Raphael không phải là nhà sáng tạo ra cái mới. Vì nghệ thuật của ông có ý nghĩa không phải ở chỗ khám phá ra con đường mới mà là ở chỗ đã tổng hợp thành tựu của những người đi trước. Ông cùng với Leonar, Michelangelo tạo nên chuẩn mực, định hình cho sự phát triển phong cách nghệ thuật phuc hưng.

Thành phố Phlorangxo đã khiến Raphael thành công và được nhiều nhà bảo trợ hào phóng giúp đỡ. Đây cũng là thời kì ông vẽ nhiều tranh về đề tài Đức Mẹ. Trong đó nổi tiếng là tác phẩm ” Đức mẹ của Đại công tước” được ông vẽ theo yêu cầu của Đại công tước. Vị này coi tác phẩm là vô giá và luôn giữ bên mình. Ở bức tranh này ta vẫn còn thấy phảng phất nét của Peruganh, nhưng nó đã đạt đến sự mẫu mực, hoàn hảo về đề tài dạng này. Raphael đã tạo được một Madona có thực trên đời, một Madona thơ mộng, dịu dàng như trăm nghìn phụ nữ Ý khác.

Madonna of the Pinks Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa hài đồng – Nhà nguyện Sistine The virgin of the rose Nàng La Donna Velata Madonna della seggiola

Năm 1508, Raphael từ dã Phlorangxo đến Roma. Suốt từ đấy đến lúc mất ông sống ở đó và được sự bảo trợ của hai đời Giáo hoàng là Duyn II và Leon X. Nhiều tác phẩm danh tiếng của ông đã vẽ trong thời kí này. Trong đó có một bứ vẽ treo trong phòng “Chữ kí” – phòng quan trọng nhất trong tòa thánh Vatican vô cùng thành công là bức “Trường học Aten”. Nội dung tác phẩm ca ngợi triết học Hy Lạp cổ đại. Nhân vật chính của bức tranh là Praton và Arixtot. Hai người đang tranh luận về quan điểm triết học của mình, Praton chỉ tay lên trời chị Arixtot chỉ tay xuống đất. Điều này thể hiện tư tưởng triết học duy tâm khách quan của Praton và sự dung hợp giữa triết học duy vật và duy tâm của Arixtot. Bức tranh có khoảng 50 nhân vật bao gồm những nhà tiết học, các học giả…

Trường học Athen

Cuộc tranh luận của các vị Thánh

Hoạ sĩ Bô-ti-ce-li (Botticelli 1445-1510)

Bôticeli là hoạ sĩ kết thúc thời kì Phục Hưng. Trong sự nghiệp sáng tác của Bôticeli có nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó có tác phẩm: Mùa xuân, Ngày sinh của thần vệ nữ, Lễ truyền tin,…

Ông là hoạ sĩ kì tài, tranh ông nổi tiếng về mặt dụng công ,đề tài tôn giáo truyên ngụ ngôn và tương huyền nhiệm. Hoạ phẩm của ông còn dễ nhận thấy ở đường nét “trong ngọc, trắng ngà” rất uyển chuyển hoà điệu. Ông tài hoa ở chỗ tinh tế lạ thường, pha thêm không khí sầu tư hóm hỉnh. Vào tuổi già tranh ông vẽ như chìm vào sự lo buồn, nét mặt người trong tranh hốc hác, có lúc lộ vẻ nhăn nhó. Có lẽ ông chịu tác động của tôn giáo và xã hội đương thời.

Bức tranh Mùa xuân Sự ra đời của Thần Vệ nữ Đức mẹ và Chúa hài đồng Đức mẹ và tám thiên thần

Năm 1498, Bôticeli nhận trang trí nhà thờ Phờ-răng-xét-cô Goa-đi. Ở đó ông vẽ bức “Truyền tin”. Tranh được vẽ kĩ ,tả tỉ mỉ, tất cả đều rõ ràng rành mạch. Tuy vậy vẫn có sự tương phản giữa những đường thẳng, sắc cạnh trong những chi tiết tường nhà, nền gạch với những đường cong nếp gấp mềm mại trong sự diễn tả trang phục của hai nhân vật chính. Trong tranh, hoạ sĩ còn tạo sự tương phản về nóng lạnh của màu sắc để diễn tả xa gần. Vẻ mặt Đức Mẹ thanh tú được diễn tả khéo léo về ánh sáng đang cúi xuống được kết hợp với hai bàn tay đưa lên, vừa như muốn ngăn thiên sứ, vừa như chấp nhận sứ mệnh của Chúa trời trao cho.

Lễ truyền tin

Bôticeli là tài năng lớn của thời kì Phục Hưng. Nhà nghiên cứu nghệ thuật người nga Ooc-lô-ra đã viết về ông như sau: “nếu không biết đên sáng tác của ông, thì khái niệm của chúng ta về hội hoạ phưc hưng sẽ không đầy đủ”. Do tài năng, uy tín của ông trong nghệ thuật, năm 1504 Bôticeli được mời tham gia uỷ ban quyết định vị trí đật tượng Đa-vít của Mi-ken-lăng-giơ. Bo-ti-xen-li mất ngày 17 tháng 5 năm 1510. Mặc dù ông qua đời dã gần 500 năm song với những bức tranh với vẻ đẹp chuẩn mực của ông vẫn được công chúng nghệ thuật thế giới nhiều thời đại yêu thích và các thế hệ nghệ sĩ thời đại sau ông học tập.

Tên Nguyễn Phúc Hưng Ý Nghĩa Gì, Tốt Hay Xấu?

Gợi ý một số tên gần giống đẹp nhất:

Luận giải tên Nguyễn Phúc Hưng tốt hay xấu ?

Thiên Cách là đại diện cho cha mẹ, bề trên, sự nghiệp, danh dự. Nếu không tính sự phối hợp với các cách khác thì còn ám chỉ khí chất của người đó. Ngoài ra, Thiên cách còn đại diện cho vận thời niên thiếu.

Thiên cách tên của bạn là Nguyễn có tổng số nét là 7 thuộc hành Dương Kim. Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ CÁT (Quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn): Có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành

Địa cách còn gọi là “Tiền Vận” (trước 30 tuổi) đại diện cho bề dưới, vợ con, và thuộc hạ, người nhỏ hơn mình, nền móng của người mang tên đó. Về mặt thời gian trong cuộc đời, Địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận.

Nhân cách: Còn gọi là “Chủ Vận” là trung tâm của họ và tên, vận mệnh của cả đời người do Nhân Cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Giống như mệnh chủ trong mệnh lý, Nhân cách còn là hạt nhân biểu thị cát hung trong tên họ. Nếu đứng đơn độc, Nhân cách còn ám chỉ tính cách của người đó. Trong Tính Danh học, Nhân cách đóng vai trò là chủ vận.

Ngoại cách chỉ thế giới bên ngoài, bạn bè, người ngoài xã hội, những người bằng vai phải lứa, quan hệ xã giao. Vì mức độ quan trọng của quan hệ giao tiếp ngoài xã hội nên Ngoại cách được coi là “Phó vận” nó có thể xem phúc đức dày hay mỏng.

Ngoại cách tên của bạn là họ Hưng có tổng số nét hán tự là 7 thuộc hành Dương Kim. Ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ CÁT (Quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn): Có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.

Tổng cách (tên đầy đủ)

Tổng cách thu nạp ý nghĩa của Thiên cách, Nhân cách, Địa cách nên đại diện tổng hợp chung cả cuộc đời của người đó đồng thời qua đó cũng có thể hiểu được hậu vận tốt xấu của bạn từ trung niên trở về sau.

Tên đầy đủ (tổng cách) gia chủ là Nguyễn Phúc Hưng có tổng số nét là 21 thuộc hành Dương Mộc. Tổng cách tên đầy đủ làquẻ ĐẠI CÁT (Quẻ Độc lập quyền uy): Số vận thủ lĩnh, được người tôn kính, hưởng tận vinh hoa phú quý. Như lầu cao vạn trượng, từ đất mà lên. Nữ giới dùng bất lợi cho nhân duyên, nếu dùng cần phối hợp với bát tự và ngũ hành.

Mối quan hệ giữa các cách

Số lý của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Thổ” Quẻ này là quẻ Tính tình thiện lương, giản dị dễ gần, ôn hoà trầm lặng, luôn hiểu biết và thông cảm với người khác, trọng danh dự, chữ tín. Lòng trượng nghĩa khinh tài, song không bao giờ để lộ. Tính xấu là hay lãnh đạm với mọi sự.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Dương Thổ – Dương Thổ” Quẻ này là quẻ : Kim Thổ Thổ.

Đánh giá tên Nguyễn Phúc Hưng bạn đặt

Bạn vừa xem xong kết quả đánh giá tên Nguyễn Phúc Hưng. Từ đó bạn biết được tên này tốt hay xấu, có nên đặt hay không. Nếu tên không được đẹp, không mang lại may mắn cho con thì có thể đặt một cái tên khác. Để xem tên khác vui lòng nhập họ, tên ở phần đầu bài viết.

Định Nghĩa Recovery / Phục Hồi; Khôi Phục Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

1.Việc nợ được xóa sổ trước đó như khoản lỗ. Vì khoản vay, đã dược tính phí đối với tài khoản dự trữ cho nợ khó đòi, việc thu tiền được ghi có đối với dự  trữ lỗ khoản vay hay được phân bố vào lợi nhuận chưa chia. Khoản thu hồi có thể bắt nguồn từ việc thanh toán bởi người vay hay thanh lý khoản thế chấp.

Xem WORKOUT AGREEMENT.

2. Cải thiện trong chu kỳ kinh doanh, sau suy thoái.

3. Tăng giá chứng khoán sau đợt suy thoái thị trường.

4. Tăng giá trị đồng tiền đối với các đồng tiền khác trên thế giới.

Quyền Lực Là Gì? Bởi Nguyễn Hưng Quốc

bởi Nguyễn Hưng Quốc

Trong bài ” Viện Khổng Tử và quyền lực mềm của Trung Quốc “, tôi có nhắc đến khái niệm quyền lực mềm. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cũng có nhiều người bàn đến quyền lực mềm. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu một chút về khái niệm này, đặc biệt trong hoàn cảnh chính trị đối nội Việt Nam, xem sao.

Nhưng trước khi tìm hiểu về quyền lực mềm, chúng ta cần tìm hiểu một khái niệm khác, rộng hơn và cũng căn bản hơn: quyền lực.

Quyền lực là gì?

Tò mò, tôi thử mở các cuốn từ điển tiếng Việt ra xem.

Từ điển của Thanh Nghị cho quyền lực là “quyền hành và thế lực”; tìm chữ “thế lực”, thấy định nghĩa là “quyền lực, quyền hành”: Như không. Nhìn ngược lên chữ “quyền hành”, thấy định nghĩa là “quyền có thể thi hành được nhiều việc”; tìm chữ “thi hành”, lại thấy giải thích là “đưa ra làm thực sự”. Tôi đâm ra hoang mang: Nếu trọng tâm của quyền lực nằm ở việc “thi hành” thì những kẻ bị sai khiến để làm một việc gì đó có khi lại có nhiều quyền lực hơn chính người ra lệnh chăng?

Trong từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, chữ “quyền lực” được xem là đồng nghĩa với chữ “quyền bính”; xem chữ “quyền bính”, lại thấy định nghĩa là: “Quyền định đoạt, sai sử mọi việc”. Quyền định đoạt và sai sử? – Được. Nhưng tại sao phải là “mọi việc”. Ở Mỹ, trong tháng 9 và tháng 10 vừa rồi, Tổng thống Barack Obama không thể “định đoạt” được về mức nợ trần cũng như mức chi tiêu của chính phủ và cũng không thể “sai sử” các nghị sĩ và dân biểu thuộc đảng Cộng Hòa thông qua ngân sách do ông đề nghị. Vậy ông không có quyền lực ư?

Hoàng Phê thì định nghĩa quyền lực là “quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy”. Tại sao lại phải giới hạn “về mặt chính trị”? Một chánh án không có quyền lực sao? Một vị tướng khi điều binh ra trận không có quyền lực ư? Một tổng giám đốc một cơ sở kỹ thuật, thương mại và/hoặc truyền thông, ví dụ Bill Gates, chủ tịch của Microsoft hay Rupert Murdoch, chủ tịch News Corporation, không có quyền lực ư? Xin lưu ý là trong các bảng xếp hạng những người có quyền lực nhất trên thế giới trong năm, ngoài một số nguyên thủ các quốc gia lớn, người ta còn thấy tên của nhiều người thuộc các lãnh vực ngoài chính trị, ví dụ, Đức Giáo hoàng hay các chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của các công ty thương mại tư nhân, từ Microsoft đến Wal-Mart Stores, chúng tôi Google, Apple, Facebook, New Corp, New York Times Co., v.v.. Thậm chí, họ còn chiếm vị trí cao hơn hẳn nguyên thủ của nhiều quốc gia trên thế giới, ví dụ, hơn toàn bộ các nhân vật chóp bu trong guồng máy lãnh đạo đảng và nhà nước tại Việt Nam.

Bốn cuốn từ điển thuộc loại nổi tiếng nhất của Việt Nam: Không có định nghĩa nào đúng cả.

Cũng không lạ. Ở Việt Nam, ngày xưa, dường như người ta không có ý niệm về quyền lực. Tất cả các cuốn từ điển xuất hiện trước thế kỷ 20 đều không có chữ “quyền lực”. Trong Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651, chỉ có chữ “quyền” với nghĩa là chức vị, chức quan. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1895, chỉ có các chữ “quyền chức”, “quyền hành”, “quyền quý”, “quyền thế”, chứ không có chữ “quyền lực”: Dường như, với người xưa, quyền lực chỉ là thuộc tính của chức tước trong hệ thống chính trị phong kiến (do đó, có tính dòng dõi, từ đó, nảy ra ra các chữ “quyền thế” hay “thế lực”). Cách nhìn ấy, trong thời đại ngày nay, trở thành lạc hậu và quá đơn giản. Cái sai của những người làm từ điển xuất phát từ sự lạc hậu và đơn giản ấy.

Trong tiếng Anh, chữ “power” có hàng chục nghĩa khác nhau, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu về chính trị học đều chọn định nghĩa này: đó là khả năng làm thay đổi cách hành xử của người khác để đạt được những gì mình muốn. Trong định nghĩa ấy, có hai yếu tố quan trọng: một, làm thay đổi cách hành xử của người khác; và hai, đạt được điều mình muốn. Không đạt được điều mình muốn, chỉ đạt được điều người khác muốn: Không phải là quyền lực. Chỉ thay đổi chính mình nhưng không làm thay đổi người khác: Không phải là quyền lực. Ai cũng tham sống sợ chết, nhưng một người chỉ huy, giữa trận địa, có thể bắt các người lính phải “thay đổi” tâm lý thường tình ấy để xông thẳng về phía quân thù, quyết giành được chiến thắng dù có khi phải hy sinh mạng sống của chính mình: người chỉ huy ấy có quyền lực. Ai cũng tham lam, làm được bao nhiêu muốn giữ và hưởng hết bấy nhiêu, một người lãnh tụ bắt họ phải “thay đổi” tâm lý ấy và đóng thuế, thậm chí, với một mức thuế thật cao: vị lãnh tụ ấy có quyền lực.

Từ cách hiểu chung ấy về khái niệm quyền lực, nhiều lý thuyết gia khai triển vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Karl Marx nhìn quyền lực không phải từ cấp độ cá nhân mà từ cấp độ hệ thống chính trị, giai cấp xã hội và quan hệ sản xuất; ở đó, quyền lực chỉ đong đưa theo hai chiều: hoặc thống trị hoặc bị trị với một vùng giao thoa nhỏ và đầy bấp bênh của một số lực lượng được xem là “liên minh”.

Max Weber lại nhìn quyền lực từ cấp độ cá nhân: Đó là khả năng kiểm soát tài nguyên, biến cố và người khác để thực hiện hoài bão của mình, bất chấp những sự phản đối hay phản kháng của một số người nào đó.

Michel Foucault lại nhìn quyền lực ở góc độ khác: Theo ông, quyền lực không nằm ở cá nhân hay giai cấp mà chủ yếu ở kiến thức, diễn ngôn (discourse) và cái ông gọi là “các chế độ chân lý” (regimes of truth) được hiểu là hệ thống những niềm tin và những quy phạm được chấp nhận và được chia sẻ để mọi người, theo đó, phân biệt cái đúng và cái sai, cái thật và cái giả, đánh giá mọi việc và quyết định những gì mình nên làm, có thể làm hoặc phải làm. Theo ý nghĩa đó, quyền lực trở thành một thứ siêu quyền lực (metapower): Nó ở khắp nơi; nó đến từ khắp nơi; nó phân tán hơn là tập trung; nó nhập thân hơn là bị/được chiếm hữu; nó không giới hạn trong lãnh vực kinh tế (như Marx nói) hay chính trị (như Weber tin tưởng) mà còn ở hệ thống giáo dục, truyền thông, khoa học và đặc biệt, ý thức hệ; nó không phải chỉ có tính chất cưỡng chế hay tiêu cực mà còn là một sự cần thiết, một động lực năng sản và tích cực trong xã hội.

Về phương diện lý thuyết, khái niệm quyền lực có thể rất đa dạng, nhưng về phương diện thực tế, nó thường được chia, một cách đơn giản nhất, thành hai hướng chính: quyền lực tuyệt đối và quyền lực tương đối.

Trong quan hệ quốc tế, Trung Quốc có quyền lực đối với Việt Nam nhưng lại không có quyền lực đối với các nước Tây phương; Mỹ có quyền lực với rất nhiều nước Tây phương nhưng lại không có quyền lực để buộc Iran và Bắc Hàn từ bỏ tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân.

Về phương diện đối nội, ở Mỹ, Tổng thống Barack Obama chỉ có quyền lực trong thế giới công quyền: Đối với đời sống riêng tư của các công dân, ông hoàn toàn bất lực. Ngay trong thế giới công quyền, ông cũng không thể can thiệp vào các quyết định của ngành tư pháp hay một phần lập pháp, cái phần do đảng đối lập lãnh đạo; ông cũng không thể can thiệp được vào sinh hoạt chính trị hay guồng máy hành chính ở các tiểu bang hay thành phố.

Trong lãnh vực tín ngưỡng, trong giáo hội Công giáo, Đức Giáo Hoàng là người có quyền lực cao nhất, nhưng ông cũng chỉ có quyền lực trong nội bộ giáo hội Công giáo; và trong nội bộ giáo hội Công giáo, ông cũng chỉ có quyền lực trong các vấn đề thuộc tín lý, chính sách và tổ chức: Ông không hề có quyền lực trong lãnh vực nghề nghiệp hay đời sống riêng tư của các tín đồ, chẳng hạn.

Trong lãnh vực luật pháp, một vị chánh án, khi ngồi trước tòa, là người đầy quyền lực, nhưng khi phiên tòa chấm dứt, bước ra ngoài bãi đậu xe hay về nhà riêng, lại là một người bình thường như bao nhiêu người bình thường khác.

Tính tương đối dẫn đến một đặc điểm khác của quyền lực: tính tình thái (situational). Ở Úc, phần lớn người dân đều biết chuyện Thủ tướng Bob Hawke, lúc còn tại vị, nhận được giấy phạt từ cảnh sát về việc ông không thắt nịt an toàn khi ngồi trên xe hơi. Dĩ nhiên, ông phải nộp phạt. Bình thường, trong chính phủ, ông là người có nhiều quyền lực nhất, nhưng trong trường hợp này, viên cảnh sát, kẻ quyết định phạt ông, lại là người có nhiều quyền lực hơn ông.

Lúc bà Julia Gillard còn làm Thủ tướng (2010-2013), tôi gặp bà khá nhiều lần trong quán cà phê. Trong các cuộc họp Nội Các, bà là người đầy quyền lực, có thể nói là quyền lực nhất trong việc quyết định các chính sách của chính phủ, những chính sách có thể làm thay đổi cuộc sống của dân Úc và diện mạo của cả nước Úc. Đứng trước Quốc Hội, đối diện với phe đối lập, quyền lực của bà bị giảm xuống ít nhất là một nửa: Bà chỉ còn quyền lực của lý trí và của tài hùng biện để thuyết phục chứ không còn quyền lực hành chính để ra lệnh nữa. Còn trong quán cà phê, bà chỉ là một khách hàng. Như bao nhiêu khách hàng khác. Bà cũng phải xếp hàng. Bà cũng phải chờ đợi. Cuối cùng, bà phải trả tiền cho ly cà phê bà uống.

Ở Libya, Muammar Gaddafi, từ năm 1969 đến giữa năm 2011, là người có quyền lực gần như tuyệt đối, nhưng vào ngày 20 tháng 10 năm 2011, khi ông phải chui vào ống cống để trốn và sau đó, bị bắt, đối diện với những lực lượng chống đối, ông không còn chút quyền lực nào cả.

Ở Việt Nam, đảng Cộng sản, do thế độc quyền lãnh đạo được ghi nhận trong Hiến pháp, không những có quyền lực nhất mà còn là tổ chức duy nhất có quyền lực. Họ có quyền bắt bớ và bỏ tù bất cứ người nào họ không thích. Không có tội, họ vẽ ra tội, từ chuyện trốn thuế đến chuyện “hai cái bao cao su đã qua sử dụng”. Có vẻ như họ có quyền lực. Nhưng trong trường hợp Nguyễn Phương Uyên, người trước tòa, dõng dạc tuyên bố: “Tôi không cần xin giảm án”, họ lại không còn quyền lực, hoặc nếu còn, cái quyền lực ấy cũng trở thành vô nghĩa.

Đó là đảng, với tư cách một tập thể, nói chung. Trong đảng, với từng cá nhân, cũng vậy. Trước đây, thời chiến tranh, Võ Nguyên Giáp, với tư cách là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội, ủy viên Bộ chính trị, được xem là một người đầy quyền lực. Nhưng theo các tiết lộ gần đây, đứng trước Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, ông lại là người chả có chút quyền lực, thậm chí, chút sĩ khí nào cả. Ông không những không có quyền quyết định những chiến lược hệ trọng mà còn thường xuyên bị Lê Duẩn sỉ nhục. Nhưng mới đây, khi Võ Nguyên Giáp mất, người ta lại thấy một khía cạnh khác: Với tư cách một huyền thoại, nhìn từ phía tâm lý quần chúng, thì Võ Nguyên Giáp lại có vẻ như có nhiều quyền lực hơn tất cả những người từng lấn át và sỉ nhục ông. Lê Đức Thọ hay Lê Duẩn chết: Chả ai buồn nhắc nữa. Võ Nguyên Giáp chết: Rất nhiều người thương tiếc.

Trong cuốn The Future of Power (2011), Joseph S. Nye đưa ra một số ví dụ thú vị: Nếu bạn nợ 1000 đô la nhưng không có tiền trả, phải khai phá sản, bạn chẳng có chút quyền lực nào cả. Nhưng nếu bạn nợ ai đó một tỉ đô la thì bạn lại trở thành kẻ có quyền lực: Đó là trường hợp của Mỹ. Sự phá sản của một con nợ một tỉ đô la sẽ kéo theo sự phá sản, hoặc ít nhất, sự khủng hoảng của cả chủ nợ. Vì vậy, khi Mỹ lâm vào khủng hoảng tài chính, ai cũng lo lắng và tìm cách… giúp Mỹ! Về chính trị, trường hợp của Bắc Hàn cũng tương tự. Hầu như ai cũng nói giới lãnh đạo Bắc Hàn là khùng. Nhưng Bắc Hàn hầu như là nước duy nhất làm cho Trung Quốc tỏ ra là không có quyền lực: Không đồng ý với Bắc Hàn, thậm chí, biết dính líu đến Bắc Hàn chỉ có hại, nhưng Trung Quốc vẫn không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục bênh vực và viện trợ cho những kẻ bị tâm thần ở Bình Nhưỡng.

Có thể nói, tóm lại, quyền lực là một khái niệm có tính chất đa kích thước (multidimensional), tương đối và chỉ thực sự là quyền lực trong một tình thái nhất định: Nó thuộc về ai, với ai, về cái gì, ở đâu, khi nào và như thế nào.

Không có quyền lực nói chung.