Top 8 # Xem Nhiều Nhất Ý Thức Là Gì Triết Học Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Triết Học Là Gì? Những Ý Nghĩa Của Triết Học

Blog chúng tôi giải đáp ý nghĩa Triết học là gì

Định nghĩa Triết học là gì?

Triết học là một bộ môn chính thực hiện việc nghiên cứu về các vấn đề chung, cơ bản về con người – thế giới quan cũng như vị trí của con người ở trong thế giới quan – những vấn đề đó có kết nối lại với chân lý – sự tồn tại – kiến thức – giá trị – quy luật – ngôn ngữ. Dựa vào cách mà triết học giải quyết các vấn đề này, người ta sẽ phân biệt được nó với lại những môn khoa học khách. Trong đó, nó nổi bật nhất khi thể hiện rõ tính phê phán, các phương pháp tiếp cận vào hệ thống chung nhất, sự phụ thuộc của nó sẽ dựa vào tính duy lý ở việc lập luận.

Triết học có tên gọi tiếng Anh là Philosophy, từ này được xuất phát trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa dịch ra “tình yêu đối với sự thông thái”. Các thuật ngữ như là “triết học” hay “ triết gia” ra đời là gắn cùng với nhà tư tưởng người Hy Lạp Pythagoras.

Hiện nay, triết học cũng là một ngành khoa học được đào tạo riêng biệt dành cho sinh viên và triết học là môn học bắt buộc đối với tất cả các sinh viên trong trường Đại học – Cao đẳng. Để học ngành triết học, sinh viên sẽ phải thi khối C, học trong thời gian 4 năm. Hiện nay có một số trường đào tạo chuyên ngành triết học như: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn (Đại học Quốc gia Hà Nội),…

Nguồn gốc của triết học

Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.

Nguồn gốc nhận thức:

+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật nào không? … trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.

+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.

– Nguồn gốc xã hội:

Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.

Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính chất tương đối.

Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử

* Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên – bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học.

* Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện.

* Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học – Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực nghiệm được.

+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…

+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà đỉnh cao là Triết học Hêghen.

+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào Triết học.

* Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác – Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

* Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.

Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.

Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan

* Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.

*Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.

* Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển):

+Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.

+ Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người.

+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRIẾT HỌC.

Vấn đề cơ bản của triết học

Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.

* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?

+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không?

* Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:

+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.

+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.

+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:

– Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.

– Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.

+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn:

+ Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.

+ Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.

* Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của nó

Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay luôn gắn với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể:

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại:

Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng. Trường phái này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng đế.

+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII – XVIII.

Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm vị trí thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin mang tính chất cách mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà còn là công cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó.

* Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của nó:

+ Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể.

+ Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới…

Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau đó là, chủ nghĩa duy tâm tôn giáo thì lòng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.

Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm:

+Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.

* Triết học nhị nguyên: vật chất và ý thức song song tồn tại, không có cái nào có trước, cả hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên thể hiện sự dao động ngả nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.

Thuyết khả tri; bất khả tri và hoài nghi luận

– Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới không?”:

+ Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời một cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới

+Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt tới chân lý khách quan.

Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.

+Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hoài nghi luận. Theo thuyết này, con người không thể hiểu được thế giới hay ít ra là không thể nhận thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngoài vì các hình ảnh về đối tượng do giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ phủ nhận khả năng nhận thức của con người và các hình thức cơ bản của nó.

Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ (nhà triết học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào, mà cũng không thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa kế nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông gọi đó là “vật tự nó”; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ là nhận thức những hiện tượng của nó mà thôi.

Thuyết không thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph. Ăngghen đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để nhất. “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và công nghiệp. Nếu chúng ta có thể chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ nữa”.

SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG

Trong lịch sử triết học không những có sự đối lập giữa CNDV và CNDT khi tìm hiểu bản chất của thế giới, mà đồng thời còn phải trả lời các câu hỏi: thế giới là bất động, đứng im hay là không ngừng vận động và phát triển? Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô lập, tách rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau.

Lịch sử đã biết đến hai quan điểm, hai cách xem xét nhìn nhận trái ngược nhau trong khi giải đáp những câu hỏi trên. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình

Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng

Phương pháp siêu hình Phương pháp biện chứng

+Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô lập,tách rời với các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối +Thừa nhận đối tượng qua các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh hưởng ràng buộc lẫn nhau giữa chúng

+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là biến đổi về mặt số lượng, nguyên nhân của mọi sự biến đổi nằm ngoài đối tượng. + Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi có khuynh hướng chung là phát triển, có sự thay đổi về chất, mà nguyên nhân của mọi sự biến đổi ấy là do nguồn gốc bên trong đối tượng. Đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập.

– Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấysự vật riêng biệt mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa chúng; chỉ thấy sự tồn tại mà không thấy quá trình sự phát sinh và tiêu vong .(Về bản chất là không hiểu được mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hay đứng im chỉ là một hình thức vận động đặc biệt).– Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v…Nguồn gốc của phương pháp siêu hình: Là bắt nguồn từ việc muốn nhận thức đối tượng, trước hết con người phải tách đối tượng ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Tuy phương pháp đó là cần thiết và có tác dụng trong một phạm vi nhất định, nhưng thực tế thì hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. – Phương pháp biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối quan hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật.– Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt trong sự phản ánh hiện thực,– Phương pháp biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “ hoặc là.. hoặc là” còn có cái “vừa là… vừa là”; đối tượng hay chỉnh thể trong lúc tồn tại là nó thì cũng đồng thời bao hàm sự tồn tại không là nó; cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa gắn bó nhau. Do đó, nó phản ánh hiện thực ngày càng chân thực chính xác, và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.

Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là phương pháp xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt.

Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng

* Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời Cổ đại. thể hiện rõ nét trong “thuyết Âm – Dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học đều thấy các sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những mối liên hệ vô cùng tận. Cách nhận xét thế giới như vậy, theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết quả cuả những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Chính vì hạn chế này mà phép biện chứng Cổ đại phải nhường bước cho phép siêu hình, phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh khỏi. Đây là giai đoạn khám phá kết cấu, thuộc tính của đối tượng.

* Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, bắt đầu từ Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển tư duy nhân loại, các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung của phép biện chứng. Tuy nhiên, đây mới chỉ dừng lại ở biện chứng của khái niệm, của tinh thần, và tai hại hơn là họ cho rằng giới hiện thực chỉ là sự sao chép của tinh thần, bởi vậy phép biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm.

* Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng duy tâm, sau khi gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó, Mác – Ăng ghen xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Vai trò thế giới quan và phương pháp luận

Vai trò thế giới quan của triết học

* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.

* Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.

* Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.

* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.

Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.

Do vậy:

+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động.

+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. + Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.

Vai trò phương pháp luận của triết học

Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.

* Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất

+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.

Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.

Vai trò của triết học Mác – Lê nin

Triết học Mác – Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.

* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.

+ Trong triết học Mác – Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.

+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.

* Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.

Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.

Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.

Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều.

Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm:

+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;

+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.

Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác – Lênin nói riêng.

Kết luận

Tình Yêu Là Vật Chất Hay Ý Thức Trong Triết Học?

ỦNG HỘ WEBSITE BẰNG CÁCH BẤM “ĐĂNG KÝ” OR “SUBSCIREBE” KÊNH YOUTUBE ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ KINH PHÍ DUY TRÌ WEBSITE VÀ ĐĂNG TẢI NHIỀU TÀI LIỆU MỚI CHO BẠN.

Tình yêu là vật chất hay ý thức trong triết học?

Có ngồn tin nói rằng:

“Tình yêu không phải là do ý thức quyết định mà là vật chất. Người ta vẫn thường lầm tưởng rằng tình yêu là đến từ con tim, từ ý thức con ng, nhưng thực tế khoa học cũng chứng minh rằng trái tim là vô tội. Mọi cảm xúc, tình cảm của con người đều bị chi phối, điều khiển từ não bộ của con người. Mà bạn biết đấy, não bộ của con ng cũng chính là 1 dạng vật chất còn gì. Kỳ thực ý thức của con ng cũng do vật chất, tức bộ não quyết định. Cho nên nói tình y là vật chất không sai. Tuy nhiên cũng ko thể phủ nhận sự tác động của ý thức đối với ty.Bởi vì mọi sự vật tồn tại trong thế giới điều chịu sự quy định của vật chất và sự tác động của vật chất, vật chất và ý thức không tách rời.”

Tình yêu là vật chất hay ý thức trong triết học?

Và cũng nguồn tin bảo rằng:

“Tình yêu là ý thức chứ kô phải vật chất

Tình yêu là một từ có rất nhiều ý nghĩa khác nhau trong tiếng Việt.

Nó có thể một thứ gì đó gây thích thú (tôi yêu bữa ăn này), tới điều gì mà một người sẵn sàng chết vì nó (lòng yêu tổ quốc). Nó có thể miêu tả một cảm giác mãnh liệt, một sự xúc động. Trong cách sử dụng thông thường thì đó là tình yêu giữa cá nhân với nhau. Tình yêu là đề tài phổ biến nhất trong nghệ thuật.

Có nhiều kiểu tình yêu. Tình yêu là vấn đề vốn có, cố hữu trong mọi nền văn hóa con người. Thực sự nhiều nền văn hóa khác nhau đã làm cho định nghĩa nói chung về tình yêu rất khó thiết lập.

Sự biểu lộ của tình yêu có thể bao gồm tình yêu dành cho linh hồn, cho thiên nhiên, cho tiền bạc, cho học tập, cho sức mạnh, cho nữ giới, cho thức ăn, cho sự tôn trọng người khác… Nhiều người khác nhau đặt những tầm quan trọng khác nhau cho những loại tình yêu mà họ nhận được. Tình yêu về cơ bản khá trừu tượng, khó hiểu, hiểu theo kinh nghiệm dễ hơn là giải thích.

Tình yêu không dành cho con người

Một người có thể coi là yêu tổ quốc, một địa danh, hay một bàn thắng nếu họ coi trọng và tận tâm một cách sâu sắc với nó.

Tình yêu trong văn hóa thế giới

Hình thiên thần nhỏ, có cánh cũng là một biểu tượng cho tình yêu

Trung Quốc

Trong ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc, nhiều thuật ngữ thể hiện khái niệm “tình yêu”:

愛 ái được dùng như một động từ (ví dụ trong 我愛你 ngã ái nễ “anh/em yêu em/anh”) hay một danh từ, đặc biệt ái tình(愛情).

La tinh Ngôn ngữ La tinh có nhiều động từ ứng với “tình yêu”.

Amare là gốc của động từ “yêu”, mà ngày nay vẫn còn sử dụng trong tiếng Ý. Bản chất tình yêu

(theliquidimage)

Các nhà khoa học vừa khám phá ra một hỗn hợp hoá chất trong não đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên sự lãng mạn của những đôi uyên ương và sự hấp dẫn mãnh liệt ở giới nam – nữ. Đó thực sự là điều mà mọi người gọi là tình yêu.

Yêu là chết, vẫn yêu

Tại sao một đối tượng nào đó dù chỉ là lần gặp gỡ đầu tiên đã hớp hồn ta? Tại sao người ta luôn tìm kiếm sự lãng mãn của nhau? Tại sao có người chỉ yêu duy nhất một người đến trọn đời?

Muôn vàn câu hỏi tại sao vẫn chưa có lời đáp, vì nếu đã có đáp số thì người ta đã biết tình yêu là gì và sẽ chẳng còn ai lao vào tìm tình yêu nữa.

Nhà nhân chủng học thuộc Đại học Rutgers ở Mỹ – Helen Fisher đã dành hàng chục năm trời để nghiên cứu về những con đường hoá học của tình yêu ở mọi hình thức biểu lộ của nó: thèm khát lẫn nhau, lãng mạn, ôm ấp, giận hờn và ghen tuông. Bà cho biết: “Người phụ nữ thường sử dụng những cảm giác vô thức của mình để quyết định xem liệu anh chàng nào đó có phù hợp với mình hay không. Nếu anh ta thiếu can đảm và cứng nhắc thì cô ta sẽ không thấy hứng thú vì cho rằng anh chàng này không thể nào là ông chồng tốt trong tương lai. Các nhà khoa học tin rằng chính điều này đã giúp phái nữ biết phân biệt đâu là người tốt và đâu là Sở Khanh”.

Khi hai người khác giới nhìn thẳng vào người mình yêu, những phần não bộ liên kết với nhau tạo ra cảm giác hứng thú và thu hút lẫn nhau, hay còn gọi là chất dopamine – được thấy với nồng độ cao trong tuỷ thượng thận và trong não có thể hoạt động như chất dẫn truyền thần kinh. Ở phần não phải, chất dopamine tạo ra năng lượng mạnh, niềm phấn chấn, tập trung và động cơ thúc đẩy.

Điều đó giải thích vì sao khi mới bước vào tình trường, bạn có thể thức suốt đêm, ngắm mặt trời mọc, chạy đường trường không biết mệt, dám làm những điều bình thường không dám làm… Chính tình yêu tạo thêm hưng phấn, làm bạn sáng suốt hơn, giúp bạn vượt qua những trở ngại để đạt được điều mơ ước.

Tình yêu bắt đầu từ lỗ… mũi

Các chuyên gia phân tâm học hiện đại cho rằng, chúng ta thường mong muốn gặp gỡ những người thật hấp dẫn và do đó khi chọn bạn đời, ta luôn chọn những người trông khoẻ khoắn.

Khoẻ mạnh ở người phụ nữ có nghĩa là phải đạt 70% tỷ lệ eo và mông, còn ở nam giới phải có mức testosterone trong máu cao. Tỷ lệ vòng eo và mông đóng vai trò quan trọng trong việc sinh sản của phụ nữ và một hệ miễn dịch khoẻ ở nam giới để cho ra đời con cái khoẻ mạnh.

Có lẽ sự lựa chọn bạn đời phụ thuộc vào chiếc… mũi! Claus Wedekind ở Đại học Lausanne đã làm một thí nghiệm hấp dẫn với… áo pull.

Ông yêu cầu 49 phụ nữ thử ngửi những chiếc áo được những người đàn ông bí mật mặc trước đó, theo kiểu di truyền khác nhau nhằm tác động đến mùi cơ thể và hệ miễn nhiễm. Sau đó ông yêu cầu họ phân loại áo mùi tốt nhất và có mùi ghê nhất. Kết quả phụ nữ thích hương thơm từ chiếc áo được mặc bởi anh chàng có kiểu gene khác với mình.

Khi nghiên cứu khía cạnh sinh học của tình dục, ông đã phát hiện những cơ thể gắn bó khiến con người là một sinh vật mang tính xã hội cao và không thể sống đơn lẻ. Chính phân tử ocytocine tạo ra cảm giác sung sướng khi đạt cực khoái trong giao hợp cũng giúp gắn kết tình cảm mẹ con khi người mẹ cho con bú, và là phân tử tạo ra sự chung thuỷ. Khi tiêm ocytocine vào chuột thích “đa thê” thì chúng trở nên chung thuỷ thấy rõ.

Tình yêu là vật chất hay ý thức trong triết học? Tình yêu triết học Thầy giáo Vũ Đình Bảy, khoa GDCT – ĐHSP Huế Em đến với anh bằng tình yêu triết học Tình ta chứa chan đầy mâu thuẫn Mâu thuẫn ấy không thể tách rời tranh đấu Mà làm cho tình yêu phát triển đi lên Anh khuyên em đừng phủ định vùng lên Đừng vội cho anh là duy tâm hạng nhất Và ” Đa nguyên” là không thể biết Anh ghét nhị nguyên dao động lưng chừng Và lên án cả siêu hình máy móc Ta vận động đâu chỉ bằng cơ học Mình đến với nhau bằng khối óc tư duy Anh phán đoán xem em đang nghĩ gì ? Có phải vì em mà anh đang “duy lý” Sẽ theo anh đến tận ngàn thu Hai đứa chúng ta là một cặp phạm trù Và hai mặt “đối lập” của tình yêu bất diệt Và hai trái tim cùng nhịp đập Đang chuyển hoá giữa không gian hừng hực Lửa tình yêu vũ trụ quay cuồng Đánh thức dậy những tâm hồn đã tắt Giọt nắng “hư vô” ý niệm bay về Và cả thánh Valentin đáng kính Tình đôi ta như chân lý phân minh Mối liên hệ vững bền em hãy ghi nhớ Em ơi ! Xin đừng vì nguyên cớ Vì nguyên nhân mà phụ tình anh Em giữ gìn ngôn hạnh công dung Những khái niệm thân thương dệt thành tri thức Vì yêu em nên anh thú thực Con người anh cũng có lúc riêng chung Cũng có lúc nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả Em hãy nhẹ nhàng thư thả nhắc anh nghe Ta phải làm gì tránh những nguy cơ Kẻo chệch hướng tình yêu về hiện tượng Để tình ta mãi mãi xanh thực tiễn Anh báo thế gian này không hề chuyển biến Không ai tắm hai lần trên dòng sông Sau mỗi Satna em ơi mình đã khác Dù anh xin em đừng có khóc Đừng cho đi phủ định sạch trơn Đừng dấu diếm bờ môi thất vọng Đừng bỏ qua một cách vội vàng Ở phía trước vận động không phải là vô tận Tồn tại hay không là cả một vấn đề Em đừng mải mê trực quan sinh động Muốn hiểu rõ về nhau hay tư duy trừu tượng Tránh chủ quan trong đánh giá con người Ta sẽ biến khả năng thành hiện thực sáng ngời Và mãi đây dù vật đổi sao dời Người yêu hỡi Thời gian em ơi hãy đợi Anh cùng em bước qua thời quá độ Hướng đến ngày “hất đổi” ánh bình minh Hướng đến tình yêu cộng sản văn minh Giữa hiện thực khách quan hai đứa chúng mình Vận động mãi trong tình yêu hạnh phúc Để tình yêu đang chờ phía trước Kết độ rồi nhảy vọt tới hôn nhân Và bước tới hình thái gia đình riêng cụ thể Ta ngày càng biện chứng trong nhau Anh khái quát mấy lời gửi em yêu mến Ta hãy mong chờ thực tiễn của ngày mai Khúc khải hoàn biện chứng của tương lai Như quy luật muôn đời tất yếu Tình yêu là vật chất hay ý thức trong triết học?

Tình yêu là vật chất hay ý thức trong triết học?

Triết Học Là Gì ? Khái Niệm Về Triết Học.

Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( ); người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Ở ấn Độ, thuật ngữ dar’sana ( triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Đã có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây: Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời. Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Triết học là gì ? khái niệm về triết học.

Về Vấn Đề Tính Khoa Học Của Triết Học, Một Hình Thái Ý Thức Xã Hội

     HỒ SĨ QUÝ

      GS.TS., Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

               hosiquy.thongtin@gmail.com

    Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3 (447) 2020

 

Tóm tắt

Từ khoảng giữa thế kỷ XX, triết học được tranh cãi liệu nó có phải là một khoa học hay không. Trước đó, vấn đề này gần như không được đặt ra. Bởi lẽ, từ trong lịch sử đến tận ngày nay, triết học luôn được thừa nhận là một hình thái ý thức xã hội và giá trị không thể thay thế của triết học là ở đó. Người ta không coi triết học là một khoa học ngang hàng (cùng loại) với các khoa học khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học không luận giải một cách khoa học về thế giới. Triết học nào cũng cố gắng sử dụng những thành tựu khoa học để khái quát luận thuyết của mình thành một mô hình lý tưởng nhằm giải thích mọi hiện tượng trong thế giới và định hướng cho hành vi. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học khác còn biểu hiện ở sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế giới và định hướng cho hoạt động của con người.

Từ khóa: Hình thái ý thức xã hội; Khoa học; Triết học; Triết học Mác-Lênin,

1. Đặt vấn đề

Tại hầu khắp các trường đại học trên thế giới, triết học đều có mặt trong bảng phân loại các bộ môn tri thức cần được giảng dạy, nghiên cứu. Bắt đầu từ Aristotle, truyền thống văn hóa phương Tây đã dần coi triết học là một loại tri thức nền tảng không thể thiếu đối với mọi tư duy duy lý, đặc biệt là tư duy khoa học. Ở trình độ tiến sỹ khoa học (Doctor of Sciences, Doctor Habilitatus), nhà khoa học chuyên ngành còn được xem tương đương là nhà triết học, nhà tư tưởng. Nghĩa là vị thế của triết học trong đời sống trí tuệ nhân loại chưa bao giờ là cái phải nghi ngờ. Mặc dù vậy, cũng theo truyền thống văn hóa phương Tây, tuyệt nhiên không mấy ai coi triết học là khoa học, kiểu như toán học, vật lý học, kinh tế học hay xã hội học… Triết học trong quan niệm phương Tây, không phải là khoa học thực chứng (Positivist Science), mà là một loại hình thế giới quan và phương pháp luận giải thích nguyên nhân và dẫn đường. Sự kiểm chứng đối với triết học giống như sự kiểm chứng đối với các tiên đề (Axioms), nghĩa là gần như buộc phải thừa nhận trong khi rất khó chứng minh.

 

Những điều vừa nói có nghĩa rằng, ở phương Tây, từ thời cổ đại tới tận ngày nay triết học vẫn luôn được coi là một hình thái ý thức xã hội, tức là một loại hình tri thức đặc thù, dẫn dắt toàn bộ tư duy và hành động, thiết yếu và quan trọng như tôn giáo, chứa đựng vô vàn tri thức đã và chưa được kiểm chứng. Nhưng triết học không phải là khoa học để có thể lặp lại bằng các thí nghiệm.

Với Marx, Engels và Lênin, triết học cũng đương nhiên là một hình thái ý thức xã hội.

Ở Việt Nam, trước năm 2008 triết học được xếp vào các khoa học xã hội. Từ năm 2008 đến nay, theo bảng phân loại khoa học mà Bộ KH&CN ban hành năm 2008 và được khẳng định lại từ năm 2012, triết học được xếp vào các khoa học nhân văn (Humanities). Tại bảng phân loại không mấy hợp lý này, khoa học xã hội cũng chỉ là một trong sáu ngành khoa học được công nhận ở Việt Nam, ngang bằng với nông nghiệp hay y dược[1].Vấn đề đặt ra là, do đương nhiên có mặt trong bảng phân loại các bộ môn tri thức cần được giảng dạy và nghiên cứu, từ khoảng giữa thế kỷ XX, triết học lại được tranh cãi liệu nó có phải là một khoa học hay không. Với triết học Mác – Lênin, một vài giáo trình trước đây cũng đã từng viết “Triết học là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy”[2].

2. Triết học trong quan niệm của Marx, Engels và Lênin

Để hiểu thêm về vấn đề, chúng tôi thấy cần thiết phải trở lại với những tư tưởng của chính các tác gia kinh điển, để xem các ông đã phát biểu những gì về triết học.

Nghĩa là người ta quan tâm nhiều đến tính hữu ích của triết học khi nó đóng vai trò là một hình thái ý thức xã hội, luôn cung cấp kịp thời cho con người những chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận; không nhất thiết phải biết nó phù hợp đến mức nào với các dữ liệu khoa học (mà khoa học thì thời nào cũng “bất khả tri” trước không ít vấn đề).

Dù không đưa ra định nghĩa, nhưng quan niệm của các tác gia kinh điển về triết học đã được các tác giả hậu thế giải thích trong các tài liệu giáo khoa. Theo chúng tôi, các giáo trình triết học Mác – Lênin về sau giải thích đều không có gì sai với quan niệm của Marx, Engels và Lênin, với những nội dung chủ yếu thường được trình bày, gồm: i). Triết học là một hình thái ý thức xã hội. ii). Triết học hướng đến một cái nhìn toàn vẹn về thế giới, về con người và vị trí của con người trong thế giới đó. iii). Khách thể khám phá của triết học là thế giới (gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người). iv). Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quan hệ của thế giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy. v). Với tính cách là loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa học và khác biệt với tôn giáo, tri thức triết học mang tính hệ thống, toàn diện, lôgíc và trừu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại. vi). Triết học là hạt nhân của thế giới quan.

Không nên quên rằng, Karl Marx được nhắc đến trong lịch sử tư tưởng nhân loại nhiều nhất không phải là một nhà triết học mà là một nhà cách mạng. Được đào tạo bài bản để trở thành một triết gia, nhưng ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Bonn, Marx lại hướng sự say mê của mình tới kinh tế và chính trị, trên cơ sở đó mà suy tư triết học. Ngoài những tác phẩm đầu tiên thời trẻ, từ sau những năm 50 thế kỷ XIX các tác phẩm của ông đều không trực tiếp bàn đến triết học. Mặc dù vậy, triết học Marx lại định hình chủ yếu sau thời Marx trẻ (Young Marx), đặc biệt là Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội. Chúng tôi đã trở lại tương đối kỹ với các tác phẩm kinh điển và có đủ cơ sở để thấy rằng, trực tiếp bàn về triết học các tác gia kinh điển viết không nhiều:

2.1. Triết học là tinh hoa về mặt tinh thần của mỗi thời đại

K. Marx viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”[4].

2.2. Triết học là linh hồn sống của văn hóa

K. Marx viết: “Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình… Triết học đã có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa…” [5].

Chẳng hạn, với triết học Cổ điển Đức, Chủ nghĩa duy vật Pháp, K. Marx và F. Engels xác nhận rằng, “ngay cả chủ nghĩa cộng sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp” [6]. Và, “nếu trước đó không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hegel, thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học tồn tại từ trước đến nay” [7].

 

2.3. Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới

Marx viết: “Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới, cũng như bộ óc không tồn tại bên ngoài con người”[8]. Nhưng triết học cũng không ra đời trong một xã hội còn mông muội dã man. Nghĩa là, triết học chỉ có thể ra đời khi, nhà nước, công cụ trấn áp và điều hòa lợi ích giai cấp đủ trưởng thành, “từ chỗ là tôi tớ của xã hội (nhà nước) biến thành chủ nhân của xã hội” [9].

Đồng thời, triết học cũng chỉ xuất hiện khi kho tàng thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định mà trên cơ sở đó, tư duy con người đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay. Trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định[10].

2.4. K. Marx và F. Engels hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy vật

Theo V.I. Lênin, “Bắt nguồn từ Feurbach và trưởng thành trong cuộc đấu tranh chống những tiểu tác gia nên lẽ tự nhiên là Marx và Engels chú ý nhiều nhất đến việc hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy vật, tức là chú ý nhiều nhất đến quan niệm duy vật lịch sử, chứ không phải đến nhận thức luận duy vật. Vì thế, trong những tác phẩm bàn về chủ nghĩa duy vật biện chứng, hai ông nhấn mạnh mặt biện chứng hơn là mặt duy vật; khi bàn về chủ nghĩa duy vật lịch sử, hai ông nhấn mạnh mặt lịch sử hơn là mặt duy vật” [11].

2.5. Chủ nghĩa duy vật hiện đại do Marx sáng lập ra, có nội dung vô cùng phong phú, có tính chất vô cùng triệt để, hơn tất cả mọi hình thức trước kia của chủ nghĩa duy vật

V.I. Lênin đánh giá: “Ngay từ 1843, lúc mà Marx chỉ mới đang trở thành Marx, nghĩa là trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội, với tính cách là một khoa học, trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật hiện đại, có nội dung vô cùng phong phú hơn và có tính chất vô cùng triệt để hơn tất cả mọi hình thức trước kia của chủ nghĩa duy vật, thì Marx đã vạch ra một cách hết sức rõ ràng những đường lối căn bản trong triết học… Thiên tài của Mác và Ăng-ghen chính là ở chỗ, trong một thời kỳ rất dài – gần một nửa thế kỷ – hai ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật, đã đẩy một khuynh hướng cơ bản của triết học tiến lên phía trước; đã không quanh quẩn ở chỗ chỉ lặp lại những vấn đề nhận thức luận đã được giải quyết, mà đã triệt để áp dụng cũng chủ nghĩa duy vật ấy và chỉ vẽ cách áp dụng chủ nghĩa duy vật ấy vào lĩnh vực khoa học xã hội như thế nào”[12].

2.6. Cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng

V.I. Lênin viết: “Như Marx và Engels đã tuyên bố nhiều lần, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một chủ nghĩa đã hoàn toàn hấp thụ những truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII ở Pháp và của Feurbach ở Đức nửa đầu thế kỷ XIX” [13].

2.7. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học

Theo V.I.Lênin, “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và tuỳ tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát tiển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn” [14].

2.8. Giống như Darwin đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người

F. Engels nhận định: “Giống như Darwin đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp những tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. ; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất tực tiếp và do đó, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại, tạo thành một cơ sở trên đó người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của những con người nhất định và vì vậy phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm” [15].

2.9. Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia

“Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, hay nói cho đúng hơn, việc áp dụng, việc vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực những hiện tượng xã hội, đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia. Một là, những lý luận này cùng lắm thì cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng của hoạt động lịch sử của con người, mà không nghiên cứu căn nguyên của những hiện tượng đó, không phát hiện ra tính quy luật khách quan trong sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không thấy rằng trình độ phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của những quan hệ ấy. Hai là, những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác như khoa học tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy”[16].

3. Triết học là hình thái ý thức xã hội và tính khoa học của tri thức triết học 

Như vậy, với tính cách là một loại hình tri thức lý luận đặc thù xuất hiện sớm, đảm nhận chức năng xã hội không thể thay thế trong lịch sử nhận thức và hoạt động thực tiễn, và ngay cả khi triết học còn chứa đựng trong nó tất cả mọi thành tựu của nhận thức, loại hình tri thức đặc biệt này đã tồn tại và được thừa nhận rộng rãi là một hình thái ý thức xã hội. Cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần bậc cao, có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa đặc biệt phổ quát, giúp con người nhìn nhận và đánh giá đối tượng xuyên qua tất cả các dữ liệu cảm tính và lý tính, từ đó đưa ra mô hình (bức tranh toàn thể) giải thích và định hướng cho mọi đối tượng nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đến tận thế kỷ XVII, vị thế này của triết học vẫn bao trùm gần như toàn bộ nhận thức. Toán học, cơ học, thiên văn học… là những ngành tri thức đầu tiên tách ra từ triết học để dần xác lập vị thế của các bộ môn khoa học độc lập. Đến thế kỷ XVII, các Viện hàn lâm khoa học ở Đức, Pháp được thành lập. Từ giữa thế kỷ XIX, các khoa học xã hội và nhân văn mới xuất hiện.

Ngày nay, mỗi bộ môn tri thức được thừa nhận là khoa học khi nó có đối tượng riêng, có phương pháp nghiên cứu riêng; có hệ thống các khái niệm, phạm trù riêng và thỏa mãn được những điều kiện: Thực chứng hoặc Lý tính; Không mâu thuẫn; Thực tiễn – Kinh nghiệm; Độ tin cậy của các thực nghiệm; Có hiệu lực phổ biến (liên chủ thể); Hệ thống (Evidence or Rationality; Consistency; Empirical (Experimental, Practical; The Credibility of Empirical material; General Validity (Intersubjectivity); Systematicity (Integrity, Coherence)[17].

Có nhiều học phái triết học tự nhận mình là khoa học và triết học nào cũng có tham vọng đạt tới lý luận khoa học về thế giới. Nhưng thực ra, tất cả các luận thuyết, quan điểm triết học đều là cái được lựa chọn để ứng dụng. Việc kiểm chứng (các luận thuyết, quan điểm triết học đó) thường vô cùng khó và chỉ được thực hiện trong các phạm vi rất hạn chế  nên hầu như không đủ để đánh giá. Đây cũng là một đặc điểm của tư duy triết học. Với sức mạnh của chức năng định hướng và giải thích, các học thuyết triết học (một khi đã được con người thừa nhận là thế giới quan và phương pháp luận của mình) đều có đóng góp nhất định cho sự hình thành tri thức và là những “vòng khâu”, những “mắt khâu” trên “đường xoáy ốc” vô tận của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Trình độ khoa học của một triết thuyết phụ thuộc vào lịch sử ứng dụng hiệu quả của nó trong thực tiễn với sự phát triển của hệ thống tri thức và hệ thống phương pháp nghiên cứu khám phá đối tượng nghiên cứu.

Trong đời sống xã hội, triết học trước hết và bao giờ cũng là một hình thái ý thức xã hội. Nghĩa là, việc sắp xếp triết học trong bảng phân loại khoa học không nhất thiết là thừa nhận tư cách khoa học của triết học. Là loại hình tri thức đặc biệt của con người, triết học nào cũng có tham vọng xây dựng nên bức tranh tổng quát nhất về thế giới và về con người. Nhưng khác với tông giáo, loại hình tri thức xây dựng thế giới quan dựa trên niềm tin và quan niệm tưởng tượng về thế giới, triết học sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn lôgíc và những kinh nghiệm mà con người đã khám phá thực tại, để diễn tả thế giới và khái quát thế giới quan bằng lý luận. Tính đặc thù của nhận thức triết học thể hiện ở đó[18].

Triết học khác với các khoa học cụ thể ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Tri thức này dựa vào 5 nguồn chính: i). Tổng kết thực tiễn; ii). Thừa nhận thành tựu khoa học; iii). Cảm nhận cảm tính; iv). Phán đoán lý tính; và v). Sự linh cảm trực giác, “siêu phàm” của nhà triết học. Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi triết học dựa trên cơ sở tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học.

Như đã trình bày ở trên, ngay từ khi xuất hiện trong đời sống tri thức nhân loại, triết học đã tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo thời kỳ trước đó đảm đương vai trò thế giới quan và phương pháp luận dẫn dắt con người nhận thức và chinh phục thế giới bí ẩn xung quanh.

Nói đến các hình thái ý thức xã hội là nói đến loại hình tinh thần đương nhiên tồn tại trong đời sống xã hội, là cái không thể thiếu khi con người sống thành xã hội. Hình thái ý thức xã hội đảm nhận chức năng xã hội về nhận thức, về tư duy, về tình cảm và tâm lý… giúp cho đời sống con người diễn ra một cách bình thường theo quy luật. Ý thức xã hội chắc chắn là phong phú và đa dạng hơn cả tồn tại xã hội, do phản ánh tồn tại xã hội bằng các phương thức sáng tạo mà chỉ trong tư duy mới có. Tư duy phản ánh hiện thực nhưng tư duy lại có khả năng đẻ ra tư duy. Sản phẩm sáng tạo của tư duy, ý thức… do vậy, vô cùng phong phú và từ đó giới tự nhiên thứ hai là văn hóa đã xuất hiện.

Nói điều này chúng tôi muốn lưu ý rằng, trong khi bản thân ý thức xã hội vô cùng phong phú và đa dạng với nhiều trình độ khác nhau, thì các hình thái ý thức xã hội lại tồn tại hữu hạn với các hình thái rất xác định. Đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, chính trị, pháp lý, khoa học và triết học…. là các hình thái ý thức xã hội được trí tuệ con người khái quát qua sự sàng lọc của thời gian. Và do vậy, chúng là những mặt cơ bản của đời sống tinh thần của con người.

Nếu tôn giáo là hình thái ý thức xã hội dựa trên niềm tin vào cái siêu nhiên, bao gồm niềm tin thiêng liêng, xúc cảm thăng hoa, hành động vượt ra ngoài sự kiềm chế của lý trí, thì hình thái ý thức triết học lại là cấp độ lý luận về thế giới quan, về phương pháp luận đảm nhận chức năng giải thích và định hướng cho con người sống, lao động và sáng tạo. Triết học và tôn giáo là hai hình thái ý thức giống nhau về đối tượng khái quát và chức năng định hướng đối với đời sống con người, nhưng khác nhau về cách thức và phương pháp chỉ dẫn nhận thức và hành vi. Tôn giáo trang bị cho con người thế giới quan tin tưởng để hoạt động. Trong khi đó triết học trang bị cho con người thế giới quan hoài nghi để tỉnh táo khám phá thế giới. Tính hiệu quả của hai loại thế giới quan này không dễ đánh giá trong thực tiễn đời sống. Bởi thế không có gì khó hiểu khi nhiều nhà khoa học trong khi tin ở Chúa lại vẫn có những sáng tạo có giá trị.

 

Theo chúng tôi, khi thừa nhận quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx về triết học, thì cũng hoàn toàn có thể đồng ý với Bertrand  Russell khi ông khẳng định, triết học là cái trung gian giữa tôn giáo và khoa học. Nghĩa là, triết học là lý luận về các vấn đề mà tri ​​thức khoa học thì chưa đủ để chứng minh, còn tôn giáo thì lại quá tự tin để một chiều khẳng định. Những vấn đề triết học mà Bertrand Russell xác định, gồm: i). thế giới tâm và vật (Mind and Matter); ii). sự thống nhất và vấn đề mục đích của vũ trụ (Universe unity or purpose); iii). quy luật của tự nhiên còn tồn tại thực hay không, hay con người tin vào sự tồn tại khách quan đó “chỉ vì tình yêu trật tự bẩm sinh của chúng ta” (Are there really laws of nature, or do we believe in them only because of our innate love of order)? – thực chất là vấn đề về tính khách quan của các quy luật; iv). vấn đề nguồn gốc con người và loài người?; v). vấn đề giá trị và ý nghĩa của đời sống và tiến bộ xã hội; vi). vấn đề về sự tồn tại của Chúa[19]. Theo Russell, nghiên cứu những vấn đề này là “công việc của triết học” (The studying of these questions, is the business of philosophy). Quan niệm của B. Russell một lần nữa khẳng định tư cách hình thái ý thức xã hội của triết học, khám phá những vấn đề vĩnh cửu của triết học, cho dù mai sau triết học có phát triển đến trình độ nào. Tại hầu khắp giảng đường các trường đại học Phương Tây, tư tưởng của B. Rusell về triết học được coi là điều không thể không biết.

Tính chất thế giới quan của ý thức triết học trong nghiên cứu 6 vấn đề mà Rusell phác họa là ở chỗ, trước hết chúng là những vấn đề mà chỉ triết học mới có thẩm quyền giải quyết. Các khoa học khác ở mỗi thời điểm nhiều lắm cũng chỉ giải quyết được một phần vấn đề đặt ra. Còn tôn giáo lại khẳng định hoặc phủ định chúng một cách thiếu căn cứ. Thứ hai, chúng là những vấn đề vĩnh cửu, vì thời nào những vấn đề này cũng đều mang tính thời sự, con người muốn tồn tại và phát triển đều không thể lảng tránh, nhưng tại mỗi thời kỳ, trí tuệ con người chỉ có thể góp thêm luận cứ, bằng chứng và kiến giải bằng trình độ khoa học của thời đại mình. Và cuối cùng, nếu khoa học giải quyết được triệt để một vấn đề nào đó trong số 6 vấn đề trên, thì vấn đề đó không còn là vấn đề triết học nữa.

Thực ra quan niệm về triết học là khoa học xuất hiện và gây tranh cãi nhiều hơn trong giới triết học Mácxít, khi ai đó đã mở rộng quan niệm về phép biện chứng sang toàn bộ triết học. Trong “Chống Duhrin” F. Engels viết: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”[20]. Theo chúng tôi, vấn đề là ở chỗ, triết học cũng nghiên cứu những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy, nhưng triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới, còn phép biện chứng lại là hệ thống các nguyên tắc chung nhất về vận động. Và đó là lý do tại sao Engels gọi nó “chẳng qua chỉ là khoa học…”.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, triết học hay phép biện chứng thì cũng đều là lý luận triết học. Khi Engels gọi phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học, thì thuật ngữ “khoa học” ở đây cũng không nên hiểu phép biện chứng như là vật lý học hoặc toán học. Nghĩa là trong quan niệm của chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx, tính chất khoa học của triết học không hề biến triết học thành một khoa học chuyên biệt ngang hàng và tương đương với các khoa học chuyên ngành cụ thể. Trong các tác phẩm của các ông, cho tới nay cũng chưa ai tìm thấy triết học được các ông gọi là “khoa học”.

Việc đề cao triết học Mác – Lênin bằng cách coi đó là triết học duy nhất khoa học (như đây đó đã từng diễn ra) trên thực tế lại đã vô tình hạ thấp vai trò của nó. Triết học Mác – Lênin cũng giống như tất cả các học phái triết học uy tín khác, trước hết thuộc về hình thái ý thức triết học. Không nhất thiết và không cần thiết phải đề cao triết học, dù là triết học Mác – Lênin, bằng cách coi nó là một trong các khoa học xã hội.

 

Cần thiết phải nói thêm rằng, nền khoa học hiện đại được coi là bắt đầu từ thế kỷ XVI, với thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus, có cơ sở triết học của nó là Chủ nghĩa duy vật: tìm ra các quy luật của thế giới vật chất, lấy các quy luật đó làm cơ sở để giải thích tất cả những điều còn lại của thế giới, từ tự nhiên đến con người và tư duy. Dựa trên các bằng chứng có thể thực nghiệm được, khoa học đã khẳng định tính hợp lý của các quan điểm về thế giới. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa duy vật khoa học, do vậy đã thống trị trong giới học thuật suốt từ đó đến nay. Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng lớn, khoa học duy vật hiện đại vẫn chưa thể giải thích được một cách thấu đáo những vấn đề về tinh thần, tâm linh – cái rất căn bản tạo nên cuộc sống đầy ý nghĩa nhưng vô cùng phức tạp của đời sống con người và của các dân tộc. Đó chính là lý do mà nhiều nhà khoa học trên thế giới từ ngày 7-9 tháng 2/2014, đã tổ chức  hội nghị thượng đỉnh quốc tế về khoa học hậu duy vật (Post-Materialist Science) tại Arizona, Mỹ. Mục đích của hội nghị là đánh giá tác động của hệ tư tưởng duy vật trong khoa học (Materialist Ideology on Science) và đề xuất mô hình hậu duy vật (Post-Materialist Paradigm) để mở đường cho khoa học về tâm linh và xã hội phát triển mạnh hơn trong tương lai. Kết thúc hội nghị, các nhà khoa học đã công bố “Tuyên ngôn về Khoa học hậu duy vật”. Đến nay (2020), ngoài 8 tác giả sáng lập, hơn 300 nhà khoa học có uy tín trên thế giới đã ký bản Tuyên ngôn này[21].

Kết luận

Triết học là một hình thái ý thức xã hội và giá trị của triết học là ở đó. Triết học không phải là một khoa học ngang hàng với các khoa học xã hội khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học không luận giải một cách khoa học về thế giới. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học cụ thể còn biểu hiện ở sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế và giới định hướng cho hoạt động của con người.

 

Tài liệu trích dẫn

 

[1]   Xem: QĐ số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 04/09/2008 của Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc ban hành bảng phân loại thống kê KH&CN. https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/361/bang-phan-loai-va-danh-muc-chuan.aspx.

[2]  Xem: 1). Russell, Bertrand (1945), A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day, Pub. Simon & Schuster, Allen & Unwin. 2). Friedland, Julian (2012), Philosophy Is Not a Science, https://www.academia.edu/8218744/Philosophy_is_Not_a_Science 3). Покровская, Т. П. Научно-теоретическая конференция “Философия и наука” Вестник РФО. № 4; (Hội thảo “Triết học và Khoa học”. Bản tin Hội Triết học Nga) 4). Марков, B. C.  (2006), Философия как наука (Triết học với tính cách là Khoa học. Bản tin Hội Triết học Nga), Вестник РФО. № 1. 5). Рута, В. Д. (2003), Наука или ненаука? (Khoa học hay không phải khoa học. Bản tin Hội Triết học Nga) Вестник РФО. № 4. 6). Зорина, Е. В., Рахманкулова, Н. Ф. и др. (2004), Философия в вопросах и ответах: учеб. пособие / под ред. А. П. Алексеева, Л. Е. Яковлевой. М., (Triết học hỏi và đáp. Chủ biên: А. П. Алексеева, Л. Е. Яковлевой) 7). Губанов, Н. И. (2008), Является ли философия наукой?, (Triết học có phải là khoa học) “Философия и общество” №1 (49) https://www.socionauki.ru/journal/articles/130024/.

[3]   Xem: Auguste Comte (2012), Cours de philosophie positive, Edition numérique : Pierre Hidalgo. La Gaya Scienza, © décembre 2012. http://www.ac-grenoble.fr/PhiloSophie/old2/file/comte_khodoss.pdf.

[4]   K. Marx, F. Engels (1995), Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 156.

[5]   K. Marx, F. Engels (1995), Toàn tập, t.1. Sđd. tr. 157.

[6]   K. Marx, F. Engels (1995), Toàn tập, t.2. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 200.

[7]   K. Marx, F. Engels (1995). Toàn tập, t.18. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 698.

[8]   K. Marx, F. Engels (1995), Toàn tập, tập 1, Sđd. tr. 156.

[9]   K. Marx, F. Engels (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 288.

[10]  Vào thế kỷ VII – V TrCN, giáo dục và nhà trường đã hoạt động khá chuyên nghiệp. Tầng lớp quý tộc, tăng lữ, điền chủ, nhà buôn, binh lính… đã chú ý đến việc học hành. Tri thức toán học, địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật, y học… đã được giảng dạy. Xem: Michael Lahanas. Education in Ancient Greece. http://www.hellenicaworld.com/Greece/Ancient/en/AncientGreeceEducation.html

[11]  V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t. 18, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 408.

[12]  V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t. 18, Sđd. tr. 417.

[13]  V.I. Lênin (1979), Toàn tập, t. 17. Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 510.

[14]  V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t. 23, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 53.

[15]  K. Marx, F. Engels, Toàn tập, t.19. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 499-450.

[16]  V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t. 23, Sđd. tr. 68.

[17]  See: Machamer, Peter and Michael Silberstein (2002), The Blackwell Guide to the Philosophy of Science. Blackwell Publishers Ltd, First published. Massachusetts, USA. https://pages.wustl.edu/files/pages/imce/cfcraver/struct_scientif_theories_0.pdf

[18]  Xem: ИФ, РAH (2001). Новая философская энциклопедия (Bách khoa thư Triết học mới). c. 195.

[19]  (Is there such a thing as wisdom, or is what seems such merely the ultimate refinement of folly?) Xem: Russell, Bertrand (1945), A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day, Pub. Simon & Schuster, Allen & Unwin. c. 9.

[20]  K. Marx, F. Engels (1994), Toàn tập, t. 20, Sđd. tr. 201.

[21]  Xem: Manifesto for a Post-Materialist Science. http://opensciences.org/about/manifesto-for-a-post-materialist-science.

 

Nguồn: Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3 (447) 2020