Top 12 # Xem Nhiều Nhất Yêu Đương Luyến Ái Là Gì Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

12. Tình Yêu Và Ái Luyến

Nhiều lần tôi nói về tình thương, đối với tôi tu không phải là dứt tình (đoạn tình) mà là chuyển tình. Nhưng một thầy tu mà nói về tình thương hay tình yêu không khéo sẽ có Phật tử hiểu lầm ngay. Ở cõi Ta Bà này là cõi nhiều chuyện nên Phật Thích Ca đã phải nói suốt 45 năm, ấy vậy mà vẫn còn nhiều người hiểu lầm. Sau cùng Phật phải tuyên bố: từ lúc thành đạo cho đến nhập niết bàn, ta chưa hề nói một lời nào.

Trước hết ta cần phân biệt giữa tình thương và ái luyến. Trong tiếng Việt, hai chữ thương và yêu hình như được dùng lẫn lộn, thương với yêu đồng nghĩa, có người nói thương là tiếng bắc, còn yêu là tiếng nam, hoặc ngược lại. Song le trong sự bày tỏ tình cảm, chữ thương có vẻ nhẹ hơn chữ yêu. Nhiều khi rắc rối quá người ta nói luôn hai chữ cho rồi.

Trong vòng giây xích 12 nhân duyên, vòng thứ 8 là ái (tanha), tiếng Việt dịch là yêu hay thương. Tôi nghĩ nếu chỉ có ái không thôi thì chắc không có vấn đề gì, nhưng vì yêu (ái) rồi muốn nắm giữ (thủ) làm của mình (hữu) nên mới sinh ra ái luyến. Chữ luyến có nghĩa là yêu mến không rời bỏ ra được. Do đó tình yêu trai gái thường được gọi là ái luyến, cô cậu một khi yêu nhau thì không thể rời xa nhau được, tiếng Pháp là amour-attachement. Có lẽ vì chữ yêu (ái) còn mang nhiều tính chất của vô minh nên trong đạo Phật người ta không thích dùng hoặc không dám dùng nó mà thay thế bằng chữ từ bi. Từ bi tiếng Pali là metta-karuna, tiếng Pháp dịch là amour (từ)-compassion (bi). Theo Hán-Việt thì từ là tình thương hay sự hiền lành, bi là thương xót, thương hại. Sau này khi nói đến từ bi, quý thầy dịch cho gọn là ban vui cứu khổ. Nhưng ban vui cứu khổ chỉ là kết quả hay sự thể hiện của cái tình bên trong. Có thương và xót thì mới ban vui cứu khổ được chứ!

Từ từ hai chữ từ bi có vẻ đi gần và hợp với tình thương hơn là tình yêu. Một thầy tu mà nói yêu Phật tử thì thật loạn luân, không thể chấp nhận được, nhưng nếu ông ta đổi đi một chút, nói thương Phật tử thì người ta sẽ bảo là ông từ bi. Cũng cùng là một thứ tình nhưng nếu phát ngôn không đúng với tâm lý xã hội thì sẽ có chuyện ngay.

Con người là loài hữu tình, có quả tim nên ai cũng biết thương, biết yêu, nhưng hầu như mọi sự thương yêu đều dẫn đến thủ hữu, bám víu và ái luyến. Vì ái luyến nên mới đau khổ. Nếu ái mà không luyến, không thủ hữu thì ái (yêu) trở thành từ bi. Vì thế công việc tu hành không phải là cắt ái mà là chuyển ái thành từ, nói cách khác là ái mà không luyến.

Ðối với tôi tình yêu hay tình thương đều được, miễn sao biết yêu thương đúng mức, đúng nghĩa, yêu mà không dính mắc, bám víu, không chiếm làm của mình, yêu một cách sáng suốt tỉnh thức, không ích kỷ và nhất là không được xem đối tượng yêu như một món vật mà là một con người.

Nếu ta thực sự yêu một người nào, ta sẽ không tìm cách thay đổi hay biến người đó theo ý mình, ngược lại ta sẽ giúp người đó tìm lại tư cách của họ, trở thành chính họ và không còn lệ thuộc vào ta nữa.

Thông thường khi yêu nhau, người ta hay có khuynh hướng xâm lấn vào thế giới của người yêu và vô tình tước đoạt dần tự do của người kia. Từ từ tình yêu đẹp đẽ ban đầu bị biến thái, trở thành chiếm hữu, ghen tuông, tranh dành quyền lợi, muốn điều khiển kẻ kia, v.v…

Nếu biết yêu thực sự, không vô minh ái luyến thì tình yêu trở thành một sự tự do vô bờ bến. Và tình yêu này bắt đầu ngay nơi bản thân mình, cá nhân mình, tức là ta phải biết yêu thương mình trước hết. Ta đừng làm kẻ ăn mày đi xin xỏ tình yêu. Ta có dư đủ tình yêu để ban cho mình kia mà! Vì không biết hoặc quên đi điều đó nên ta phải tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để khiến người khác yêu ta, ban cho ta những gì ta muốn. Vả chăng nếu người kia có yêu ta đi nữa thì động lực vô minh ban đầu đã khiến cho tình yêu này bị ô nhiễm, trở thành một thứ tình yêu lợi dụng, đổi chác.

Trí huệ hiểu biết rất cần thiết để chuyển hóa tình yêu say mê thành tình yêu chân thật tự tại. Yêu say mê hay si tình là một thứ ái luyến, bám víu và ràng buộc. Tình yêu chân thật có tính chất cởi mở và thông cảm.

Trên đời, người ta yêu nhau, cưới nhau đều đều, nhưng chắc ít có ai biết yêu thực sự. Chỉ có những người trưởng thành tâm linh mới biết yêu đúng với ý nghĩa của tình yêu. Một cặp vợ chồng yêu nhau, quyến luyến nhau, không rời nhau được, đó chỉ là một loại tình yêu ái luyến mường tượng, tức là có vẻ giống như tình yêu nhưng không phải tình yêu.

Một người đã tìm lại được chính mình, biết sống thực với mình, biết thương yêu chính mình thì tự thân người này tỏa ra hào quang của tình yêu. Một người vô ý thức, không biết chính mình, không biết thương yêu mình thì làm sao có tình yêu dư thừa để toát ra ngoài được! Chính vì thế mà anh ta cần phải đi tìm tình yêu từ bên ngoài, giống như một kẻ ăn xin đi gặp một người ăn xin khác và tưởng rằng người kia sẽ có tình yêu cho mình. Nhưng cuối cùng cả hai đều thất vọng và cảm thấy như bị lường gạt. Làm sao ta có thể ban cho người khác những gì mà chính ta không có? Làm sao thương yêu kẻ khác khi chính ta không biết yêu thương mình? Tệ hơn nữa là sau khi thất vọng, thất tình, vì không hiểu biết nên người ta lại đổ lỗi cho nhau, người này bảo lỗi tại người kia…

Khi tình yêu biết cho, biết ban ra, đó là tình yêu thực sự. Khi tình yêu chỉ biết lấy vào, ôm vào, đó là tình yêu giả mạo, một sự khát ái, cần tình.

Tình yêu có ba trình độ:

* Trình độ thứ nhất thuộc thú tánh, mang nặng tính chất sinh lý, nó phát hiện một cách tự nhiên và vô ý thức. Thí dụ một người đàn ông gặp một người đàn bà đẹp, có hình dáng hấp dẫn, thì tự nhiên anh ta như bị thu hút, khởi tâm ưa thích và yêu người đàn bà kia.

* Trình độ thứ hai bớt thô trọc hơn, nó không còn là sự hấp dẫn giữa hai thể xác mà là giữa hai tâm hồn. Nó mang nặng tình cảm hơn là sinh lý. Nhưng nó cũng chịu chung một quy luật, luật vô thường: thành, trụ, hoại, diệt, nói cách khác nó phát sinh rồi sẽ đi đến tàn lụi, chìm dần vào vô thức.

* Trình độ thứ ba thuộc tâm linh. Ðến trình độ này ta không còn yêu ai nữa, không yêu một người hay một đối tượng nào nữa, vì ta với yêu là một, ta là tình yêu, tình yêu là ta. Tình yêu này không hướng vào một đối tượng cá nhân, nếu cần đối tượng thì đối tượng sẽ là cả vũ trụ pháp giới. Tình yêu này tự nó tỏa ra yêu thương như mặt trời tỏa ánh sáng, như bông hoa tỏa mùi thơm dù có hay không có ai ở đó thưởng thức. Loại tình yêu thanh tao và cao thượng này thường là do kết quả của thiền quán hay sự chín mùi của tâm linh. Nó phát sinh khi ta tỉnh thức nhận ra mình là ai và biết sống thật với chính mình. Người mà ý thức được mình với sự sống là một thì biết được tình yêu này. Nó là căn bản mà cũng là cứu cánh của tất cả tôn giáo, đạo giáo. Chúa Giê-Su có nói: ‘thương người như mình ta vậy’. Ðức Phật nói bồ tát thương yêu chúng sinh như con một.

Ða số người đời khi nói về tình yêu, họ chỉ biết đến hai trình độ hay hai loại tình yêu đầu. Hai loại tình yêu này thường được người tu xem là giây oan nên họ tìm cách dứt tình. Nhưng làm sao dứt tình được, họ chỉ chuyển tình của họ đến Chúa, đến Phật. Nhưng nếu chỉ biết yêu Chúa, thương Phật thôi, không biết thương yêu kẻ khác thì vẫn chưa đạt đến loại tình yêu thứ ba này. Tu là tập chuyển tình, chuyển hai loại tình yêu nhục dục và ái luyến thành loại tình yêu cao thượng.

Ái luyến

Ái luyến là muốn người, vật và hoàn cảnh luôn luôn như ý mình và không bao giờ thay đổi. Không muốn thân xác mình già yếu, không muốn tình cảm thay đổi, không muốn tình yêu phai nhạt. Mỗi khi bắt đầu yêu một người nào thì liền có ái luyến theo sau, và đương nhiên là dẫn đến phiền phức và khổ đau. Vì ái luyến ta trở nên chiếm hữu, sợ mất người yêu hoặc người yêu của ta sẽ yêu kẻ khác… Từ đó ta phải suy nghĩ tính toán mưu kế để giữ gìn người yêu. Vô tình ta xâm lấn tự do và biến người yêu thành một món đồ, một vật sở hữu. Cuộc tình ban đầu dần dần trở thành một sự giằng co: một bên xâm lấn, một bên dành lại độc lập tự do. Và nếu cứ tiếp tục sống bên nhau thì chả còn tình nghĩa gì nữa mà là hỏa ngục, danh từ trong đạo gọi là oắn tắng hội khổ. Vì thế ái luyến là thuốc độc của tình yêu, tàn hoại tình yêu.

Nếu chưa yêu được theo trình độ thứ ba thì ta vẫn cứ yêu, nhưng phải học và tập yêu với sự hiểu biết thông cảm, không chiếm hữu, không ghen tuông. Yêu là một nghệ thuật, muốn yêu cho có hạnh phúc ta cần phải học vì bản chất yêu của người đời là ái luyến chứ không phải là yêu theo nghĩa thứ ba đã nói ở trên, không phải tự nhiên mà ta có thể yêu theo kiểu Chúa hay Phật được.

Chiếm hữu

Chiếm hữu là biểu tượng của sự nghèo nàn và thèm khát. Người nghèo nàn thiếu thốn tình thương bao nhiêu thì thường có khuynh hướng chiếm hữu bấy nhiêu. Tình yêu chiếm hữu cũng giống như tình trạng của một đứa bé khát sữa đòi bú mẹ. Nhưng mẹ nó bận việc không cho bú được nên nó đâm ra tức tối, giận hờn, ganh tỵ.

Một người trưởng thành về tư tưởng thì không thể chiếm hữu được. Làm sao có thể bắt người khác phải thuộc về ta? Phải thương yêu ta? Mỗi khi gặp nạn hay khổ đau mà đổ lỗi cho người khác, đó là thái độ ấu trĩ nhất trên đời. Một người biết ban bố, chia xẻ thương yêu là người đang làm thể hiện Phật tánh bên trong. Cũng thế, mỗi khi ta cảm thấy muốn đòi hỏi, chiếm hữu, lấy về làm của mình thì phải nhận thức rằng ta đang làm hiển lộ cái tánh ấu trĩ, con nít bên trong. Lúc đó ta hãy ghi nhận, quán sát cái ta con nít đó xem nó biến chuyển và lôi kéo ta như thế nào? Không cần trách mắng hay xua đuổi, chỉ cần nhận diện và quan sát nó. Nhờ tỉnh thức nhận diện, quan sát thường xuyên cái ta con nít bên trong (the baby within) ta sẽ giúp nó trưởng thành. Trước khi muốn thành Phật thì phải thành người trước đã.

Hạnh phúc

Hạnh phúc là mục đích sống của con người, là điều mà ai cũng muốn tìm. Nhưng ta không thể xác định hạnh phúc là gì vì nó tùy trình độ tiến hóa của mỗi người.

Nhân loại có thể được xếp thành ba hạng:

– Hạng thứ nhất là những người còn mê ngủ.

– Hạng thứ hai là những người sửa soạn gần thức giấc.

– Hạng thứ ba là những người đã tỉnh giấc, không còn mê ngủ.

Hạng thứ nhất, hạnh phúc đối với họ là những cảm giác khoái lạc thuộc về thể xác như ăn uống, thỏa mãn nhục dục. Suốt đời họ lo chạy đi tìm hạnh phúc, nhưng loại hạnh phúc này rất mong manh. Mong manh ở đây không có nghĩa là không có, nó có nhưng không kéo dài được, thoáng có để rồi nhường chỗ ngay cho sự thèm khát khổ đau. Loại hạnh phúc này rất nguy hiểm, đạo Phật thường ví nó như kẻ khát uống nước muối, càng uống càng khát, hoặc như liếm mật trên lưỡi dao, thoáng nếm vị ngọt nhưng bị đứt lưỡi ngay sau đó.

Càng đi tìm hạnh phúc lại càng thèm khát và không bao giờ được thỏa mãn. Vì thế hạng người này phải tìm cho nhiều, nhiều tiền, nhiều danh, nhiều sắc, họ sống trong ảo tưởng về số lượng (quantité), nghĩ rằng nếu có nhiều thì mới được thỏa mãn hạnh phúc.

Ðối với hạng thứ nhì, hạnh phúc thuộc về phẩm (qualité). Ðối tượng hạnh phúc của họ không còn là những thứ thô kệch như vật chất, sắc đẹp thể xác hào nhoáng bên ngoài, họ chú ý về phẩm chất nhiều hơn. Họ vẫn đi tìm khoái lạc cảm giác, nhưng thanh tao hơn, như nghe một bản nhạc hay, ngâm thơ vịnh phú, thưởng thức hương trà, ngắm kiểng cắm hoa, v.v… hoặc đàm luận với bạn bè, hoặc đơn giản được sống bên cạnh người yêu, người thân là họ cảm thấy hạnh phúc rồi. Loại hạnh phúc này thanh tao, sâu sắc và có vẻ lâu bền hơn loại hạnh phúc thứ nhất nhưng nó vẫn còn tùy thuộc vào đối tượng bên ngoài như thơ, nhạc, hoa, trà, cảnh, người, v.v…Và nếu ngày nào đó đối tượng kia mất đi thì hạnh phúc liền biến thành khổ đau.

Ðối với hạng thứ ba, hạnh phúc không còn tùy thuộc vào đối tượng bên ngoài nữa. Loại hạnh phúc này có thể được xem là hoàn toàn nhất. Hạnh phúc là sự bình an của tâm hồn, là sự tỉnh thức không còn ngủ mê trong đêm tối. Họ sống trong ánh sáng, không còn bóng dáng của chấp ngã lo âu, ham muốn bám víu vào một đối tượng bên ngoài. Họ sống trong hiện tại, bây giờ và ở đây, sống hòa nhịp với cuộc đời và sự sống. Loại hạnh phúc này là một loại sung sướng thứ thật (chân lạc), nó ở ngay trong ta và nó cũng chính là bản chất hay bổn tánh của ta.

Thích Trí Siêu

Thảo Luận:vô Tính Luyến Ái

Lượt xem trang hàng ngày của Vô tính luyến ái

@ P.T.Đ: bài này dịch ra có tên là Vô tính theo từ điển Hồ Ngọc Đức [1], từ điển Pháp Y [2], [3] chứ không có nghĩa là “vô tính luyến ái”. Mời xem xét lại trước khi đổi tên bài? Hơn nữa cụm “Vô tính luyến ái” ít khi sử dụng trong các tài liệu hàn lâm tiếng Việt. A l p h a m a Talk 16:44, ngày 9 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Có vẻ hơi căng thẳng nhỉ. Tôi xin nêu một số ý kiến như sau:

2. Trong lĩnh vực sinh học, vô tính nghĩa là “không có giới tính (sinh học)”. Theo Từ điển Sinh học Anh – Việt và Việt – Anh của Ban Từ điển, NXB Khoa học và Kỹ thuật (1997) thì vô tính là một tính từ được dịch từ từ tiếng Anh asexual. Như vậy, vô tính trong sinh học là một từ phải đi kèm với một danh từ cụ thể để bổ nghĩa cho danh từ đó, không đứng riêng lẻ (ít nhất là trong tiếng Việt), ví dụ: sự sinh sản vô tính (asexual reproduction), sự nhân giống vô tính (asexual propagation), bào tử vô tính (asexual spore), loài vô tính (asexual species), v.v. Đây cũng là một thuật ngữ thông dụng nên việc phổ biến hơn là điều bình thường.

Khu Học Chánh Vancouver. (n.d.). Cho Cha Mẹ và Người Chăm Sóc Thiếu Niên Chuyển Tính và Đa Tính.

“…Vô tính luyến ái: Người không ham muốn tình dục với bất cứ phái tính nào. Người vô tính luyến ái vẫn có thể luyến ái với những người thuộc các phái tính và khuynh hướng tình dục khác nhau và có các mối liên hệ luyến ái không tình dục.”

Vũ Hoàng Hiếu. (2018). Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại: từ ẩn ức đến tự sự. Luận án Tiến sĩ Văn hóa học. Học viện KHXH.

“…Đồng tính luyến ái (homosexuality), gọi tắt là đồng tính, là thuật ngữ chỉ việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới….”

4. Các thuật ngữ LGBT hiện vẫn còn nhiều thiếu sót, thiếu tư liệu, nên phải tự kiểm chứng và lập luận để đưa ra những thuật ngữ hợp lý. Asexuality được dịch thành Vô tính luyến ái là phù hợp, một là để thể hiện được tính chất quan hệ luyến ái của một xu hướng tính dục, hai là để phân biệt với thuật ngữ vô tính [asexual] (tính từ) của sinh học, ba là tạo ra cách dịch phân biệt giữa asexuality [vô tính luyến ái] với asexual [(người/sinh vật) vô tính] (dạng danh từ). Tạm thời theo từ điển Wiktionary, ta có những diễn giải sau:

Asexual (tính từ) có 2 nghĩa chính:

Không có ham muốn tình dục, bị hấp dẫn tình dục. (có thể dịch thành vô tính hoặc vô tính luyến ái, đặc biệt trong phạm trù xã hội học)

(sinh học) Không có giới tính phân biệt, không có cơ quan sinh dục. (đã được các tài liệu chuyên ngành sinh học, y học dịch thành vô tính).

Asexual (danh từ) có 2 nghĩa chính:

Người không có ham muốn tình dục, không bị hấp dẫn tình dục (có thể dịch thành người vô tính hoặc người vô tính luyến ái)

Một loài sinh sản bằng quá trình sinh sản vô tính (tương đương với asexual species – loài vô tính)

Asexuality (danh từ) có 2 nét nghĩa chính cần quan tâm:

Trạng thái không bị hấp dẫn tình dục (mang nét nghĩa xã hội học, dịch là “(sự) vô tính luyến ái”)

Trạng thái không thực hiện quan hệ tình dục, không có cơ quan sinh dục (mang nét nghĩa sinh học, dịch là “(sự) vô tính”)

5. Các nguồn dẫn của Alphama về cơ bản là không đủ tin cậy để tham khảo lĩnh vực này. Từ điển Hồ Ngọc Đức là một dự án từ điển phổ quát, không đi sâu chuyên môn. Bên cạnh đó, mục từ [asexuality] – [(sinh vật học) tính chất vô tính] mang tính giải nghĩa, không là một thuật ngữ được chuẩn hóa, đồng thời từ điển chỉ nói áp dụng cho lĩnh vực sinh học, không phải xã hội học. Nguồn thứ hai Từ điển y học Pháp-Anh-Việt là nói về từ [asexual] (dạng tính từ), không phải là [asexuality] (danh từ), và cũng chỉ áp dụng cho lĩnh vực sinh học, không phải xã hội học. Nguồn thứ 3 là một từ điển tự xuất bản, không phải là nguồn được chấp nhận (Tác giả: Nam H Nguyen; Nhà xuất bản: Nam H Nguyen, 2018?).

6. Vấn đề Lưỡng tính/Song tính? Lưỡng và Song đều là “hai”, nhưng là hai cái “hai” gần như khác nhau. Xét các ví dụ như lưỡng cực (hai cực đối lập), lưỡng lự (suy tính hai đường), lưỡng nghi (âm-dương, trời-đất), lưỡng thê (động vật sinh ra dưới nước nhưng sống trên cạn) và song sinh (hai người cùng sinh ra với nhau), song thân (cha mẹ cùng sinh ra mình), song thai (hai bào thai cùng trong bụng mẹ), song hành (cùng sóng đôi với nhau). Qua đó, cho thấy dù có nghĩa là “hai”, nhưng Lưỡng là “hai” đẳng lập, còn Song là “hai” đồng nhất. Lưỡng là hai cốc nước và dầu trộn với nhau thành hỗn hợp phân tách. Còn Song là hai cốc nước đường và nước muối hòa tan trộn với nhau thành dung dịch muối và đường hòa lẫn. Chính vì khác biệt về nét nghĩa, nên Song tính hiện được ưu tiên sử dụng để dịch Bisexual/Bisexuality theo định nghĩa gốc của nó. Hiện từ này đang được sử dụng nhiều trong các tài liệu chuyên môn. Ví dụ như văn bản hướng dẫn của Bộ Y Tế:

@P.T.Đ: Tôi không ở Việt Nam vì vậy có thể nào bạn sử dụng một từ điển giấy nào đó uy tín và từ điển chuyên ngành xem xét kỹ lại không? A l p h a m a

Bạn P.T.Đ ghi ra khá hợp lý, vì vậy tên bài “Vô tính luyến ái” là đúng. Meigyoku Thmn (💬🧩) 13:30, ngày 10 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Điểm qua một số tư liệu:

A. S. Hornby. (2015). Từ điển song ngữ Anh – Việt Oxford. NXB Trẻ.

Viện Ngôn ngữ học. (2003). Từ điển tiếng Việt. đồng tính luyến ái: có quan hệ yêu đương, ham muốn tình dục với người cùng giới tính. (trang 344) Không có mục từ “dị tính (luyến ái)”, “song tính (luyến ái), còn “vô tính” thì dẫn ra mục từ “sinh sản vô tính”.

Trung tâm ICS. (2016). Cẩm nang hành động: Trường học cầu vồng.

“Homosexual – Đồng tính luyến ái (tính từ)” (trang 31) “Bisexual – Song tính (tính từ)” (trang 29) “Asexual – Vô tính (tính từ)” (trang 29)

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền. (2020). “Giáo viên nói tôi bị bệnh” – Những rào cản đối với quyền giáo dục của thanh thiếu niên LGBT ở Việt Nam.

“Dị tính luyến ái (Heterosexual)” (trang ii) “Đồng tính luyến ái (Homosexual)” (trang ii) “Song tính (Bisexual)” (trang i) “Vô tính (Asexual)” (trang i)

Viện iSEE. (n.d.). Bảng đối chiếu thuật ngữ LGBT

“Người dị tính: Heterosexual” “Người đồng tính: Homosexual” “Người song tính: Bisexual” “Người vô tính: Asexual”

Khu Học Chánh Vancouver. (n.d.). Cho Cha Mẹ và Người Chăm Sóc Thiếu Niên Chuyển Tính và Đa Tính. Bản tiếng Anh tương ứng để đối chiếu

“Người dị tính luyến ái: Heterosexual” “Song tính luyến ái: Bisexual” “Vô tính luyến ái: Asexual”

Xét thêm thuật ngữ tiếng Trung: Heterosexuality: 异性恋/異性戀 (Dị tính luyến), 異性向 (Dị tính hướng) Homosexuality: 同性戀 (Đồng tính luyến), 同性向 (Đồng tính hướng), 同性愛 (Đồng tính ái) Bisexuality: 双性恋/雙性戀 (Song tính luyến), 雙性向 (Song tính hướng) Asexuality: 無性戀 (Vô tính luyến), 無性向 (Vô tính hướng).

Giải nghĩa trên Wiktionary: heterosexual, heterosexuality homosexual, homosexuality bisexual, bisexuality asexual, asexuality

Một số tài liệu của Alphama đưa ra không phải dịch “bisexual” thành “song tính luyến ái”, mà là “người song tính luyến ái”, đọc kỹ văn cảnh cả câu để nhận định.

Xét thấy chùm thuật ngữ này chưa được thống nhất trong các tư liệu, một số tư liệu lại có phần lạc hậu, chưa được cập nhật, nên tôi đưa ra một số nhận định.

Heterosexuality (Dị tính luyến ái), Homosexuality (Đồng tính luyến ái), Bisexuality (Song tính luyến ái), Asexuality (Vô tính luyến ái) là những xu hướng tính dục, có tính chất quan hệ luyến ái. Do đó, nếu dịch vắn tắt thành Dị tính, Đồng tính, Song tính, Vô tính sẽ được hiểu đơn thuần là chỉ ra đặc trưng của tương quan giới tính (sinh học/xã hội) (khác giới tính, cùng giới tính, đôi giới tính, không giới tính), mà không thể hiện được ý nghĩa mối quan hệ luyến ái của một xu hướng tính dục, thậm chí bị sai lệch nghĩa trong trường hợp Vô tính luyến ái (theo định nghĩa là không có ham muốn tình dục, không bị hấp dẫn tình dục, chứ không là không có giới tính). Nên phải đi kèm từ “luyến ái” để bổ nghĩa cho nội hàm thuật ngữ tương xứng với định nghĩa trong tiếng Anh. Như ở tiếng Trung sẽ có các từ “luyến”, “hướng”, “ái” đi kèm để bổ nghĩa.

Heterosexuality, Homosexuality, Bisexuality, Asexuality là những danh từ phái sinh từ tính từ Heterosexual, Homosexual, Bisexual, Asexual bằng cách gắn thêm tiếp vĩ ngữ “-ity” nhằm thể hiện một trạng thái, một tính chất phù hợp với đặc tả của tính từ tương ứng.

Như vậy, xét về ngữ nghĩa xã hội học, các danh từ Heterosexuality, Homosexuality, Bisexuality, Asexuality và các tính từ tương ứng Heterosexual, Homosexual, Bisexual, Asexual có thể dịch tương ứng là: (sự) Dị tính luyến ái, (sự) Đồng tính luyến ái, (sự) Song tính luyến ái, (sự) Vô tính luyến ái; cũng có thể viết tắt (không khuyến khích) thành: (sự) Dị tính, (sự) Đồng tính, (sự) Song tính, (sự) Vô tính. Nhưng Heterosexual, Homosexual, Bisexual, Asexual ở dạng danh từ, theo các định nghĩa của Wiktionary lại chỉ về người sở hữu xu hướng tính dục tương ứng, nên phải dịch thành: Người dị tính luyến ái, Người đồng tính luyến ái, Người song tính luyến ái, Người vô tính luyến ái; cũng có thể viết tắt thành: Người dị tính, Người đồng tính, Người song tính, Người vô tính.

Có thể tạm ổn về mặt nghĩa xã hội học, nhưng một số thuật ngữ trong chùm thuật ngữ trên lại có thêm ngữ nghĩa sinh học.

Xét Bisexual/Bisexuality trong nghĩa thực vật học, có nghĩa “có cả bộ phận hay chức năng đặc trưng của giống cái và giống đực trên cùng một cơ thể”. Hiện đang được dịch là Bisexual (tính từ): lưỡng tính / Bisexual (danh từ): thực vật/nấm/bộ phận lưỡng tính / Bisexuality (danh từ): tính lưỡng tính. Nghĩa này không liên hệ gì đến nghĩa xã hội học.

Xét Asexual/Asexuality trong nghĩa sinh học, có nghĩa “không có giới tính phân biệt, không có cơ quan sinh dục, không có hành động tình dục”. Hiện được dịch là Asexual (tính từ): vô tính / Asexual (danh từ): loài vô tính (theo định nghĩa) / Asexuality (danh từ): (tính) vô tính. Nghĩa này không liên hệ gì đến nghĩa xã hội học.

@ P.T.Đ: bạn ơi, bisexual/bisexuality là song tính, tức là nam yêu cả nam nữ hoặc nữ yêu cả nam nữ, chứ không phải 2 bộ phận nam nữ, nếu bạn nói lưỡng tính có 2 bộ phận nam nữ thì phải là sinh vật lưỡng tính hoặc liên giới tính

Liệu có thể dịch tên cho bài này là “Xu hướng vô tính dục”, thế là khỏi cần tranh cãi luôn? Meigyoku Thmn ( 💬🧩) 10:04, ngày 10 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Song tính/Song tính luyến ái:

Vô tính/vô tính luyến ái:

Vô tính (Asexual) Trang chú giải i, “GIÁO VIÊN NÓI TÔI BỊ BỆNH”, HRW

Vô tính (Asexual) Science Glossary, trang 2

Vô tính (Asexual) Chiến lược LGBTIQA+, NDIS.GOV.AU

Rất tiếc tôi chưa thấy tài liệu hàn lâm nào dịch “asexuality” là “vô tính luyến ái” cả? Một điều tôi khá ngạc nhiên là tại sao từ bisexual lại bị dịch thành “song tính luyến ái” rất nhiều tài liệu? Nếu theo chiếu theo đó để dịch thành “vô tính luyến ái” liệu có hợp lý khi chưa có tài liệu nào dịch như vậy hay bạn muốn Wikipedia chúng ta là nơi tiên phong?

A l p h a m a Talk 11:35, ngày 10 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Nào tập 2, tôi nghĩ cụm từ “asexual”, “bisexual”,.. chỉ là tính từ của danh từ tương ứng “asexuality”, “bisexuality” chứ không hai từ không có tách biệt nhau. A l p h a m a Talk 11:42, ngày 10 tháng 9 năm 2020 (UTC)

“x tính luyến ái” có vẻ như được dịch từ tiếng Trung “x tính luyến” rồi thêm “ái” vào cho dễ hiểu. Nếu “vô tính luyến ái” vẫn chưa phổ biến trong các tài liệu hàn lâm (các dẫn chứng ở trên cho thấy “vô tính” hiện tại vẫn phổ biến hơn) thì nên giữ tên gọi vô tính. KhủngLong (tám) 🌴🦕🦖– 09:47, ngày 11 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Tôi cũng không có ý kiến gì thêm, những phân tích có thể trình bày đã được viết ra, mọi người có thể đọc, cũng như căn cứ thêm quy định để đưa ra quyết định. Tôi chỉ đính chính lại chỗ tiếng Trung.

Ở phía trên, nhận định “Như ở tiếng Trung sẽ có các từ “luyến”, “hướng”, “ái” đi kèm để bổ nghĩa” là có phần nhầm lẫn. Thực chất thì trong tiếng Trung, cấu trúc ngữ pháp chủ yếu là phụ trước-chính sau, khác với tiếng Việt. Xét thuật ngữ “vô tính luyến” thì thực chất, “vô tính” là định ngữ có chức năng tu sức (bổ nghĩa) cho trung tâm ngữ là “luyến”. Như vậy, “luyến” mới đóng vai trò chủ đạo, còn “vô tính” chỉ là từ bổ nghĩa để làm rõ tính chất của thuật ngữ. Điều này cũng hợp lý với bản thân định nghĩa của thuật ngữ. Do đó, nếu chỉ để “vô tính” (không nói đến trường hợp viết tắt) như trong một số tài liệu tiếng Việt thì cơ bản là sai lệch hoặc thiếu ý nghĩa so với định nghĩa gốc (xét trong ngữ cảnh xã hội học, không nói về sinh học). Một ví dụ khác như 无性生殖 (vô tính sinh thực), thì “vô tính” là từ bổ nghĩa cho “sinh thực”, chứ không phải ngược lại, cụm từ tương đương trong tiếng Việt là “sinh sản vô tính”.

Quan điểm của tôi, Alphama

Trước hết, tôi ghi bối cảnh cho các bạn hiểu. Wikipedia thông thường sẽ tổng hợp hay viết lại những gì mà báo chí, khoa học đã nêu. Tức là, Wikipedia luôn đi sau mọi vấn đề trong xã hội. Theo Wikipedia:Những gì không phải là Wikipedia thì “Wikipedia không phải là nhà xuất bản những ý tưởng chưa công bố”. Tức là nếu không có nguồn chứng minh thì sẽ khó ghi vào đây. Tuy nhiên, tôi gặp không hiếm trường hợp Wikipedia là nơi tiên phong, thậm chí phát minh ra các cụm từ mới, nhất là tên các loài sinh vật học. Theo những gì P.T.Đ phân tích, tôi thấy có lý do hợp lý để chia các cụm từ này thành 2 mảng theo ý nghĩa khác nhau:

mảng xã hội học

mảng sinh học

Như vậy nếu dịch theo mảng xã hội học thì có lẽ tên bài này “vô tính luyến ái” theo đúng nghĩa của nó. Tuy nhiên chúng ta gặp 2 vấn đề:

Tài liệu hàn lâm đề cập vấn đề này rất lung tung, mâu thuẫn. Điều đó có thể cho thấy trình độ nghiên cứu học thuật của người Việt nói chung chưa đủ mạnh và sâu rộng.

Không có nguồn chứng minh cho cụm từ đó dịch như vậy.

Xét thấy, có lẽ đây là 1 trong những trường hợp “bất đắc dĩ” và Wikipedia phải chấp nhận là “người khai phá thông tin”. Tôi miễn cưỡng đồng ý với tên bài này là “vô tính luyến ái”. Tuy nhiên, đây là cá nhân tôi, nếu có ai đó thắc mắc có lẽ lúc đó sẽ có cuộc tranh luận và tìm đồng thuận mới. Nếu các bạn đồng ý quan điểm của tôi về tên bài thì ghi ở dưới. A l p h a m a Talk 15:52, ngày 10 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Chưa đồng ý Một số bài sinh vật có tên tự chế vì không có tài liệu hàn lâm tiếng Việt nào về nó cả. Còn “vô tính” và “vô tính luyến ái” đều có tài liệu hàn lâm tiếng Việt, với “vô tính” có vẻ phổ biến hơn như các bạn đã chỉ ra cho nên chúng ta vẫn nên dùng “vô tính” cho đến khi có thay đổi trong cộng đồng học thuật KhủngLong (tám) 🌴🦕🦖– 09:56, ngày 11 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Mình không có kiến thức về mảng xã hội học này nên chỉ góp ý thêm là trong Tiếng Anh có hiện tượng danh từ hóa thậm chí là dùng tính từ như danh từ mà không có sự biến đổi hình thức nào cả, cho nên mới có Asexual là tính từ với nghĩa “có tính vô tính dục [luyến ái]” nhưng cũng được dùng để chỉ luôn người asexual hay “người vô tính dục [luyến ái]”. Khá tương đồng với hiện tượng dùng động từ như danh từ trong Tiếng Việt, ví dụ “bảo vệ” ám chỉ luôn “người bảo vệ”. Meigyoku Thmn ( 💬🧩) 05:16, ngày 12 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Chà, vậy tìm đồng thuận ở đây khó hơn tôi tưởng. Có lẽ khó là trường hợp, nếu phân định rạch ròi thì đỡ, đằng này tên bài cứ bát nháo. A l p h a m a 07:46, ngày 12 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Đồng ý Xem xét hết các thông tin, dẫn chứng nêu trên, tôi thiên về cách dùng “vô tính luyến ái” hơn. ~ Violet (talk) ~ 07:58, ngày 12 tháng 9 năm 2020 (UTC)

@ Khủng Long: Khủng Long cho ý kiến thêm đi bạn để chúng ta có thể tìm đồng thuận sớm. Nếu không cần xem xét lại toàn bộ. A l p h a m a Talk 23:32, ngày 14 tháng 9 năm 2020 (UTC) Nếu không ai phản hồi nữa thì tạm để tên bài là “Vô tính luyến ái” cho đến khi tìm đồng thuận mới. A l p h a m a Talk 12:45, ngày 19 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Thống nhất tên bài

Vô tính Vô tính luyến ái Tên gọi khác Không phải cái gì cũng rập khuôn như vậy. A l p h a m a 15:52, ngày 10 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Có vẻ đã đồng thuận ở trên. A l p h a m a Talk 12:45, ngày 19 tháng 9 năm 2020 (UTC)

Nội dung không rõ nguồn gốc

Đồng Tính Luyến Ái Và Cuộc Cách Mạng Tình Dục Mới

Brandon Ambrosino

BBC Future

Giống như mọi hiện tượng khác của con người, hoạt động tình dục đến từ đâu đó.

Chúng ta đã đạt đến các cách thực hành tình dục cùng thái độ và chuẩn mực đạo đức tình dục qua một hành trình dài và quanh co từ các loài động vật đã tồn tại trước chúng ta, một hành trình ngược về thời điểm vũ trụ mới bắt đầu hình thành sự sống.

Thế nào là tự nhiên?

Tôi từng nghe một nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ lên án đồng tính luyến ái với những điều mà giáo phận của ông dường như sẽ coi như một lời nói đùa hài hước.

“Ta không cần phải nhắc nhở các người rằng hai người đàn ông là không nên chung sống với nhau. Ngay cả lũ động vật sống quanh quẩn trong trang trại cũng biết điều đó!” Vị mục sư này lập luận rằng quan hệ tình dục đồng tính là điều phi tự nhiên, và đó là lý do tại sao động vật không thực hiện hành vi đó.

Ngoại trừ việc trong thực tế, chúng có thực hiện. Khỉ đuôi dài macaca Nhật Bản, ruồi giấm, bọ cánh cứng, hải âu, cá heo mũi chai – đó chỉ là vài ví dụ trong hơn 500 loài có quan hệ tình dục đồng tính.

Động vật thì không được xác định là đồng tính, nhưng cũng không được xác định là không phải đồng tính. Điều này đưa chúng ta đến một thực tế cực kỳ rõ ràng nhưng hiếm khi được suy ngẫm đến – rằng con người, ít nhất là trong thế kỷ trước, đã tự xác định mình dựa trên giới tính mà họ có.

Quan hệ tình dục dị tính có ý nghĩa gì đó. Cụ thể, ý nghĩa của nó đã được xây dựng để đối lập với tình dục đồng tính.

Nếu bạn muốn hiểu ý nghĩa đó là gì, thì bạn có thể bắt đầu bằng cách đặt cho mình câu hỏi mà Jonathan Ned Katz đã nêu ra trong bài viết: Sự phát minh ra dị tính: “Việc phân chia thế giới thành dị tính luyến ái và đồng tính luyến ái là vì lợi ích của ai?”

Như tôi đã từng bị, bất kỳ đứa trẻ nào bị trêu chọc vì trông có vẻ như người đồng tính đều biết rằng sự phân chia đó được đưa ra hoàn toàn không phải vì lợi ích của chúng.

Quả là thú vị khi xem xét xem ranh giới giữa dị tính và đồng tính sẽ tiếp tục duy trì trong bao lâu.

Thay đổi trong khuynh hướng tình dục hay trong nhận thức về tình dục?

Một cuộc khảo sát do YouGov thực hiện năm 2019 cho thấy gần bốn trong số 10 người thuộc thế hệ thiên niên kỷ không coi mình là một người “hoàn toàn dị tính luyến ái”.

Điều đó có lẽ phản ánh rằng ít có sự thay đổi về khuynh hướng tình dục nhưng lại có nhiều thay đổi hơn về ý nghĩa của các khuynh hướng tình dục đó.

Nói một cách đơn giản thì ngày nay, có lẽ việc xác định bản sắc của một người dựa trên hoạt động tình dục của người đó thì không mang tầm quan trọng to tát như so với ba thập kỷ trước.

Trong một thế giới nơi khuynh hướng và hoạt động tình dục đồng giới được chấp nhận rộng rãi là một hình thức sinh hoạt tình dục tự nhiên và lành mạnh của con người, thì việc hình thành một bản sắc công khai dựa trên thói quen tình dục không còn là chuyện quá quan trọng.

Có lẽ chúng ta càng tách rời tình dục với lý do tại sao thì mọi người sẽ càng ít nghĩ tới việc những hành vi tình dục có thể có ý nghĩa gì và những điều đó có thể đem lại những gì cho việc định danh một cá nhân.

Câu hỏi về mục đích của tình dục không phải là trở ngại đối với văn hóa đồng tính mà chính là văn hóa dị tính. Một số trong đó là tình huống: bởi không có khả năng mang thai sinh học và (cho đến tận gần đây) hôn nhân là để ràng buộc nhau, những người đồng tính có thể tự do quan hệ tình dục với mục đích duy nhất là chỉ để quan hệ tình dục.

Tôi không có ý cho rằng tình dục đồng tính diễn ra mà không cần tới lý do: nó có thể có nhiều lý do, mà tất nhiên trong đó bao gồm cả tình yêu.

Nhưng về mặt lịch sử, văn hóa đồng tính đã cởi mở hơn với ý tưởng rằng quan hệ tình dục không phải lúc nào cũng có lý do để xảy ra, và nó không phải lúc nào cũng cần phải có lý do.

Tất nhiên, điều đó dường như sẽ đả kích những ý tưởng và đạo đức văn hóa lâu đời về tình dục, thứ vốn được dùng để lý giải những định kiến ​​mang tính lịch sử đối với người đồng tính.

Đồng tính luyến ái trong các chuẩn mực cũ

Giống như nhiều đứa trẻ khác, tôi được dạy để ra phán xử đạo đức đối với một cuộc hoan ái hoàn toàn chỉ dựa trên việc liệu nó có xảy ra trong một mối quan hệ gắn bó, một vợ một chồng hay không.

Nhưng cuối cùng, tôi bắt đầu đặt câu hỏi về tiêu chuẩn này – đặc biệt bởi vì chính những người đã dạy nó cho tôi cũng dạy tôi rằng nhân loại là do Chúa tạo ra cách đây vài ngàn năm.

Tôi nhận ra rằng lập luận mà họ đưa ra thì không hữu ích về mặt đạo đức cho những người đồng tính, những người vốn không có khả năng mang thai, sinh con khi làm tình.

Nói một cách nhẹ nhàng nhất, thì sẽ là không thành thật, mà nói một cách phũ phàng nhất, thì sẽ là thật độc ác khi cổ suý cho tiêu chuẩn tình dục mà một lượng người đáng kể trong toàn bộ dân số thế giới không bao giờ đạt được.

Hầu hết các hành vi quan hệ tình dục dị giới không dẫn đến sinh con. Thế nhưng vì một lý do nào đó mà việc quan hệ tình dục dị giới không vì mục đích sinh sản lại không bao giờ bị lên án là phi tự nhiên, trong lúc việc quan hệ tình dục đồng giới không vì mục đích sinh sản lại thường bị lên án.

Rất may, sự phản đối đồng tính luyến ái nhìn chung đang tiếp tục giảm xuống.

Một nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Williams tại Trường Luật thuộc Đại học California UCLA đã xem xét sự thái độ thay đổi của mọi người trên 141 quốc gia.

Có 80 nước, chiếm 57%, trong số các quốc gia đó chứng kiến ​​sự gia tăng mức độ chấp nhận người LGBT trong khoảng thời gian từ năm 1981 đến 2014.

Nhưng không phải mọi tin tức đều tốt lành: trong khi các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng trong lúc các quốc gia có truyền thống chấp nhận vấn đề đồng tính luyến ái (Iceland, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Andorra và Na Uy) trở nên khoan dung hơn theo thời gian, thì các quốc gia khắt khe hơn trong vấn đề này (Azerbaijan, Bangladesh, Georgia, Ghana) thậm chí còn trở nên càng khắt khe hơn.

Tuy thái độ bài xích đồng tính luyến ái là điều không nên bị coi nhẹ, nhưng điều quan trọng cần nhớ là tại phần lớn các quốc gia được nghiên cứu, kết quả tìm hiểu cho thấy người dân đang ngày càng có thái độ khoan dung hơn đối với đồng tính luyến ái.

Có nhiều lý do khiến đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi, bao gồm cả việc truyền thông đăng tải những thông tin tích cực về người LGBT, sự hỗ trợ công khai của các tổ chức y tế và các tổ chức tâm lý, và thực tế là hầu hết mọi người ai cũng quen biết một người LGBT nào đó. (Thật khó để tin rằng những người đồng tính muốn phá hủy nền văn minh nhân loại khi họ là giáo viên piano, hoặc người bán hoa, hoặc giáo sĩ, hoặc lính cứu hỏa địa phương.)

Phải nói rằng người đồng tính – mà trong bài này tôi sẽ tập trung vào đàn ông, vì đó là phần mà tôi hiểu rõ nhất – không phải luôn là những ví dụ nguyên sơ về đạo đức tình dục đã được điều chỉnh hài hoà.

Các cộng đồng đồng tính nam tiếp tục tôn sùng các mẫu hình cơ thể nhất định nào đó (chẳng hạn như cuồn cuộn cơ bắp, hoặc gầy thanh mảnh), và điều đó gửi ra thông điệp rằng những ai không đạt các tiêu chuẩn thẩm mỹ đó (mà hầu hết chúng ta đều không đạt) thì không đáng giá bằng những người đạt.

Các tiêu chuẩn độc quyền này trở nên phổ biến hơn nhờ những công nghệ như Grindr, nơi hình ảnh người đàn ông được giản lược bớt đi, chỉ còn lại hình ảnh các bộ phận cơ thể, và những phần cơ thể không được đẹp như mong muốn sẽ nhanh chóng bị che đi.

Một cuộc khảo sát năm 2005 cho thấy 40% các cặp đồng tính tán thành mối quan hệ mở, trong khi con số này ở các cặp vợ chồng dị tính chỉ là 5%. Nếu những loại trải nghiệm tình dục này thực sự trở thành chuẩn mực – như một số người gợi ý – thì chính là những người đồng tính đã mở ra cánh cửa đó.

Brandon Ambrosino từng viết cho New York Times, Boston Globe, The Atlantic, Politico, Economist, và các ấn phẩm khác. Ông sống ở Delaware. Bài viết của cùng tác giả:

Tải Bài Hát Yêu Đương Gì Tầm Này Em Ơi

Lời Bài Hát Yêu Đương Gì Tầm Này Em Ơi

Yêu là gì ? Mà sao khiến cho cả hai phải mang đớn đauPhải ôm nỗi suy tư hằng đêmMong bình yên hãy tới bên tôiYêu …. Là gìĐến với nhau dù đã rất lâuRồi vội cách xa nhau thật mauĐành quên hết yêu thương đậm sâuThì ra tình yêu là vậyNhững phút giây hạnh phúc được baoGiờ đã chia xaRồi ôm đơn đauĐành thôiYêu đương gì tầm này em ơiYêu chỉ mang chỉ toàn niềm đauYêu nhau làm gìYêu chi tầm nàyCon tim sẽ được bình yênSẽ đến khi 1 ngày nào đóHạnh phúc sẽ qua dành tặng em đóEm hãy yên tâmQuên đi chuyện buồnThôi không muộn phiền sầu loHuhYêu là gì ?Mà sao khiến cho cả hai phải mang đớn đauPhải ôm nỗi suy tư hằng đêmMong bình yên hãy tới bên tôiYêu …. Là gìĐến với nhau dù đã rất lâuRồi vội cách xa nhau thật mauĐành quên hết yêu thương đậm sâuThì ra tình yêu là vậyNhững phút giây hạnh phúc được baoGiờ đã chia xaRồi ôm đơn đauĐành thôiYêu đương gì tầm này em ơiYêu chỉ mang chỉ toàn niềm đauYêu nhau làm gìYêu chi tầm nàyCon tim sẽ được bình yênSẽ đến khi 1 ngày nào đóHạnh phúc sẽ qua dành tặng em đóEm hãy yên tâmQuên đi chuyện buồnThôi không muộn phiền sầu loHuhuThôi yêu thương chi muộn phiềnVà hãy yêu bản thân mình hơnQuên đi quá khứ khờ dạiVì tình yêu nó là như thếYêu đương gì tầm này em ơiYêu chỉ mang chỉ toàn niềm đauYêu nhau làm gìYêu chi tầm nàyCon tim sẽ được bình yênSẽ đến khi 1 ngày nào đóHạnh phúc sẽ qua dành tặng em đóEm hãy yên tâmQuên đi chuyện buồnThôi không muộn phiền sầu loEm ơi..Thôi không muộn phiền sầu lo

Tải bài hát Yêu Đương Gì Tầm Này Em Ơi miễn phí về điện thoại, thẻ nhớ, usb cực nhanh và dễ dàng, tai bai Yêu Đương Gì Tầm Này Em Ơi, download nhac Yêu Đương Gì Tầm Này Em Ơi, Yêu Đương Gì Tầm Này Em Ơi mp3.