Top 10 # Xem Nhiều Nhất Zen Ý Nghĩa Là Gì Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Định Nghĩa Zen Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Zen

Zen là một trường phái Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ và phát triển ở Trung Quốc dưới tên chán. Nó là một dòng điện rất phổ biến trong thế giới phương Tây, mặc dù khái niệm này bao gồm một loạt các thực tiễn và học thuyết khá rộng.

Zen dựa trên việc tìm kiếm sự giác ngộ thông qua các kỹ thuật tránh các sơ đồ khái niệm. Ban đầu, Phật giáo dựa vào một sự tiến triển của các trạng thái thiền khác nhau như một đường dẫn đến độ cao. Đối với Zen, có một quyền truy cập trực tiếp và tự phát đến trạng thái cao hơn trước niết bàn, mà không cần phải trải nghiệm các trạng thái trước đó.

Trường phái Zen tập trung vào thiền định để đạt được sự thức tỉnh tâm linh, khác biệt với các trường khác dành nhiều thời gian để nghiên cứu các văn bản. Với việc mở rộng ra các khu vực khác trên thế giới, Zen đã có được những ảnh hưởng khác nhau và bổ sung nhiều kỹ thuật. Một trong những thay đổi chính xảy ra với sự bùng nổ của nó tại Nhật Bản.

Ở phương Tây, ngày càng có nhiều người quyết định thực hành Thiền vì họ cho rằng đó là công cụ tốt nhất họ có trong tay để tìm sự bình yên, thư giãn và yên bình mà họ cần trong cuộc sống. .

Và đó có phải là một cam kết với Zen mang lại cho nó một số lượng lớn lợi ích trong số đó là: * Có thể cải thiện một cách đáng chú ý sự phối hợp giữa các tế bào thần kinh mà chúng ta có trong não. * Nó là một công cụ rất hữu ích cho tất cả những người mắc bệnh mãn tính và đau đớn vì nó hoạt động như một cơ chế phối hợp. * Nó quản lý để cải thiện tâm trạng. * Nó có lợi thế là nó cho phép bất kỳ người nào cải thiện một cách mạnh mẽ khả năng tập trung của họ là gì. * Nó cho phép chúng ta ngắt kết nối hoàn toàn khỏi cuộc sống của chúng ta và đặt mình vào một mặt phẳng khác. Bằng cách này, chúng tôi sẽ bỏ qua sự căng thẳng và chúng tôi sẽ đặt cược cho hòa bình và thanh thản.

Một trong những thực hành Thiền phổ biến nhất là vị trí trong tư thế hoa sen để thiền. Người đó phải chấp nhận vị trí này, giữ thẳng lưng và nheo mắt, trong khi để suy nghĩ của mình tuôn chảy mà không bám vào bất kỳ ai trong số họ.

Điều quan trọng không chỉ là có được vị trí phù hợp mà còn các yếu tố khác sẽ góp phần đạt được hòa bình nói trên. Đây sẽ là trường hợp, ví dụ, của hơi thở, phải chậm, mềm và sâu.

Cả vị trí và nhịp thở chính xác là hai yếu tố sẽ đạt được hoàn toàn theo thời gian. Do đó, các chuyên gia Zen rõ ràng rằng chìa khóa chính để đạt được rằng ngành học này đạt được các mục tiêu đặt ra là phải thực hành rất nhiều.

Một phương pháp khác của thiền sư được gọi là công án . Công án là những cuộc đối thoại thúc đẩy sự phản ánh từ một câu hỏi không có ý nghĩa rõ ràng (ví dụ: lòng bàn tay phát ra âm thanh gì khi vỗ tay?) Và điều đó buộc sự tập trung của người tập.

Khu vườn zen hay karesansui, cuối cùng, là một không gian chứa cát, đá và các yếu tố khác giúp thiền định.

Tìm Hiểu Về Thiền (Zen)

Tìm hiểu về thiền (Zen)

1. Thiền là gì?

Thiền (tĩnh lặng) là phép tĩnh tâm giúp loại trừ phiền não và khai mở tâm trí con người.

Đức phật ngồi thiền 49 ngày đêm, đến ngày 8/12/94 TCN vào lúc 3h sáng Đức Phật đã chứng ngộ được Tam minh và lục thông.

Tam minh: là ba khả năng của một người đã chứng quả Thánh. Sau khi nhập được vào Tứ thiền hoặc đắc được Đệ tứ Thánh quả thì người đó bắt buộc phải trải qua kinh nghiệm tam minh.

Túc mạng minh: Đầu tiên là nhớ lại toàn bộ quá khứ của mình với từng chi tiết nhỏ.

  • Thiên nhãn minh: Kế đến là thấy sự luân chuyển sinh tử của vô số chúng sinh ở các cõi theo nghiệp duyên thiện ác.

    Lậu tận minh: Cuối cùng là thấy rõ bản chất đau khổ của sinh tử luân hồi, nguyên nhân của đau khổ, bản chất của

    Niết bàn

    , và con đường đưa đến Niết bàn.

    Lục thông: là Sáu phép thần thông, biểu hiện năng lực trí tuệ của chư Phật, Bồ tát và A-la-hán.

    Thân như ý thông, còn gọi là Thần túc thông: Ẩn hiện tuỳ theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, chui vào trong núi… tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề chướng ngại.

    Thiên nhãn thông: Nhìn thấy tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian, nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui của chúng sinh trong

    sáu nẻo luân hồi

    .

    Thiên nhĩ thông: Nghe và hiểu hết mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.

    Tha tâm thông: Biết hết tất cả mọi ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo.

    Túc mệnh thông: Biết được kiếp trước của chính bản thân mình và của chúng sinh trong lục đạo, từ một đời, hai đời cho đến trăm ngàn vạn đời trước đều biết rõ, nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm gì…

    Lậu tận thông: lậu tức là kiến hoặc và tư hoặc trong

    ba cõi.

    Lậu tận thông là dứt trừ toàn bộ kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, không còn sinh tử luân hồi trong ba cõi, được

    giải thoát

    hoàn toàn.

    Căn cứ vào Luận câu xá quyển 27, trong 6 phép thần thông trên, 5 phép thần thông đầu thì mọi người đều có thể đạt được, duy nhất phép thần thông thứ 6 thì chỉ có những bậc thánh mới có thể đạt được.

    2. Sơ lược lịch sử

    Thiền tông, tiếng Nhật: zen-shū là tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ 28 đời Tổ sư Ấn độ và truyền bá lớn mạnh ở Trung Quốc. Thiền tông sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ 6, thứ 7, khi Bồ-đề-đạt-ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Nơi đây, Thiền tông trở thành một tông phái lớn, với mục đích là hành giả trực nhận được bản thể của sự vật và đạt giác ngộ, như Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ-đề. Tông phái này được đưa vào Việt Nam từ Nhật Bản và Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc ở Ấn Độ.

    Thiền tông Trung Quốc được sáng lập trong thời kỳ Phật pháp đang là đối tượng tranh cãi của các tông phái. Để đối lại khuynh hướng “triết lý hoá”, phân tích chi li Phật giáo của các tông khác, các vị Thiền sư bèn đặt tên cho tông mình là “Thiền” để nhấn mạnh tầm quan trọng của phương pháp Toạ thiền để trực ngộ yếu chỉ.

    Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. Thiền tông chỉ khuyên hành giả Toạ thiền để kiến tính, được coi là con đường ngắn nhất, đồng thời cũng là con đường khó nhất. Những nét đặc trưng của Thiền tông có thể tóm tắt được như sau:

    Giáo ngoại biệt truyền: Truyền giáo pháp ngoài kinh điển.

    Bất lập văn tự: Không lập văn tự.

    Trực chỉ nhân tâm: Chỉ thẳng tâm người.

    Kiến tính thành Phật: Thấy chân tính thành Phật.

    Bốn tính chất rất rõ ràng dễ nhập tâm này được xem là do Bồ-đề-đạt-ma nêu lên, nhưng cũng có người cho rằng chúng xuất phát từ Thiền sư đời sau là Nam Tuyền Phổ Nguyện, một môn đệ của Mã Tổ Đạo Nhất. Truyền thuyết cho rằng quan điểm “Truyền pháp ngoài kinh điển” đã do Phật Thích-ca áp dụng trên núi Linh Thứu. Trong pháp hội đó, Ngài im lặng đưa lên một cành hoa và chỉ có Ma-ha-ca-diếp, một đại đệ tử, mỉm cười lĩnh hội ý chỉ của cách “Dĩ tâm truyền tâm”, xem Niêm hoa vi tiếu. Phật Thích-ca ấn chứng cho Ca-diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ. Từ đó, Thiền tông coi trọng tính chất Đốn ngộ, nghĩa là “giác ngộ ngay tức khắc”, trên con đường tu học.

    1. Bồ-đề-đạt-ma

    2. Huệ Khả

    3. Tăng Xán

    4. Đạo Tín

    5. Hoằng Nhẫn

    6. Huệ Năng

    Trong suốt thời gian từ đó đến Lục tổ Huệ Năng, Phật giáo và Lão giáo đã có nhiều trộn lẫn với nhau, nhất là trong phái Thiền đốn ngộ của Huệ Năng, phát triển tại miền Nam Trung Quốc. Một phái Thiền khác ở phía Bắc, do Thần Tú chủ trương, chấp nhận “tiệm ngộ” — tức là ngộ theo cấp bậc — không kéo dài được lâu. Phái Thiền của Huệ Năng phát triển như một ngọn đuốc chói sáng, nhất là trong đời nhà Đường, đầu đời nhà Tống và sản sinh vô số những vị Thiền sư danh tiếng như Mã Tổ Đạo Nhất, Bách Trượng Hoài Hải, Triệu Châu Tòng Thẩm, Lâm Tế Nghĩa Huyền… và truyền ra các nước khác như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc… Thiền phương Nam dần dần chia thành Ngũ gia thất tông, “năm nhà, bảy tông”, đó là những tông phái thường chỉ khác nhau về cách giáo hoá, không khác về nội dung đích thực của Thiền. Ngũ gia thất tông gồm Tào Động tông, Vân Môn tông, Pháp Nhãn tông, Quy Ngưỡng tông, Lâm Tế tông và hai bộ phái của Lâm Tế là Dương Kì phái và Hoàng Long phái.

    Thiền tông tại Nhật Bản

    Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền

    Trong các tông phái này thì có hai tông Lâm Tế và Tào Động du nhập qua Nhật trong thế kỉ 12, đầu thế kỉ 13, đến nay vẫn sinh động và còn ảnh hưởng lớn tới Thiền thời nay. Khoảng đến đời nhà Tống thì Thiền tông Trung Quốc bắt đầu suy tàn và trộn lẫn với Tịnh Độ tông trong thời nhà Minh (thế kỉ 15). Trong thời gian đó, Thiền tông đúng nghĩa với tính chất “dĩ tâm truyền tâm” được xem như là chấm dứt. Lúc đó tại Nhật, Thiền tông lại sống dậy mạnh mẽ. Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền , người đã đưa tông Tào Động qua Nhật, cũng như Thiền sư Minh Am Vinh Tây, Tâm Địa Giác Tâm, Nam Phố Thiệu Minh và nhiều vị khác thuộc phái Lâm Tế đã có công thiết lập dòng Thiền Nhật Bản. Giữa thế kỉ 17, Thiền sư Trung Quốc là Ẩn Nguyên Long Kì sang Nhật thành lập dòng Hoàng Bá, ngày nay không còn ảnh hưởng. Vị Thiền sư Nhật xuất chúng nhất phải kể là Bạch Ẩn Huệ Hạc, thuộc dòng Lâm Tế, là người đã phục hưng Thiền Nhật Bản trong thế kỉ 18.

    Thiền tông tại Việt Nam

    Phật giáo truyền vào Việt Nam từ rất sớm, trước cả Trung Quốc với trung tâm Phật giáo quan trọng tại Luy Lâu. Và theo đó, Thiền tông Ấn Độ cũng được truyền bá vào Việt Nam trước tiên, với các thiền sư như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, nổi danh tại Trung Quốc từ trước thời Bồ-đề-đạt-ma. Họ đều từng có nhiều năm tu tập tại Việt Nam trước khi truyền đạo tại Trung Quốc, chứng minh cho sự phát triển rực rỡ của Thiền tông tại Việt Nam ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3.

    Thiền tông Trung Quốc được truyền sang Việt Nam lần đầu bởi Thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi, vốn đắc pháp nơi Tam tổ Tăng Xán. Sau đó, đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải là Vô Ngôn Thông sang Việt Nam truyền tông chỉ Huệ Năng. Thiền sư Thạch Liêm, tông Tào Động đời thứ 29, là người đầu tiên truyền tông Tào Động sang miền Trung Việt Nam. Người truyền tông chỉ Tào Động sang miền Bắc lần đầu là Thiền sư Thông Giác Thuỷ Nguyệt, pháp hệ 35. Tông chỉ của tông Lâm Tế được Thiền sư Nguyên Thiều truyền sang miền Trung lần đầu, và Chuyết Công Hoà Thượng là người truyền tông Lâm Tế sang miền Bắc. Vân Môn tông được Thiền sư Thảo Đường, đệ tử của Tuyết Đậu Trọng Hiển truyền sang Việt Nam.

    3. Đặc điểm của thiền

    Thiền bắt nguồn từ Ấn Độ nhưng đã trở thành một tông phái độc lập khi được truyền sang Trung Quốc, đặc biệt là sau thời của Lục tổ Huệ Năng. Nơi đây, Thiền tông đã hấp thụ cốt tuỷ của nền văn hoá, triết lý Trung Quốc. Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann viết như sau trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo:

    Thiền, như các vị Thiền sư nhấn mạnh, là trở về với tự nhiên, không hẳn là sự phản đối truyền thống như những học giả sau này thường xác định. Thiền tông phản bác, vứt bỏ những nghi thức rườm rà, những bài luận khó hiểu, bất tận nhưng không phủ nhận nội dung, tinh hoa của chúng. Thiền tông chính là sự tổng hợp độc đáo của hai giáo lý, hai học thuyết nền tảng của Đại thừa Ấn Độ, đó là Trung quán và Duy thức. Người ta có thể hiểu phần nào những hành động, lời nói, phương pháp hoằng hoá “mâu thuẫn”, “nghịch lý” của các vị Thiền sư nếu nắm được giáo lý của Trung quán và Duy thức. Trong các tập công án của Thiền tông, người ta có thể nhận ra hai loại:

    1. Những công án xoay quanh thuyết Thật tướng của Trung quán tông, tức là tất cả đều là Không. Công án danh tiếng nhất với thuyết tính Không là Con chó của Triệu Châu: Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không?” Triệu Châu trả lời: “Không!”.

    2. Những công án với khái niệm “Vạn pháp duy tâm” của Duy thức tông. Một công án danh tiếng theo thuyết Duy thức: Hai ông tăng cãi nhau về phướn (một loại cờ). Một ông nói: “Phướn động”, ông kia nói: “Gió động”, và cứ thế tranh cãi. Lục tổ Huệ Năng liền nói: “Chẳng phải gió, chẳng phải phướn, tâm các ông động”. Nghe câu này, hai vị giật mình run sợ.

    Thiền tông thời cận đại và hiện đại

    Thiền tông chính thức truyền sang Hoa Kỳ do Thiền sư Thích Tông Diễn, cũng được gọi là Hồng Nhạc Tông Diễn vào năm 1893. Người có công rất lớn truyền bá rộng rãi Thiền tông ở các nước phương Tây lại là Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966), môn đệ của Thích Tông Diễn. Bộ “Thiền luận” ba tập do Daisetz Teitaro Suzuki viết đã rất thành công trong hai thập niên 1950 và thập niên 1960. Đến nay, tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có bản dịch tiếng Việt. Hiện bản dịch này của Thích Tuệ Sỹ và Trúc Thiên có thể được tìm thấy trên mạng Internet ở một số website về Phật giáo.

    Các thực nghiệm Thiền cũng đã thay đổi để đáp ứng tư tưởng và bản năng người Tây phương. Khái niệm Zen đối với người Tây phương chẳng những đã không còn xa lạ mà còn thâm nhập cả vào nếp sinh hoạt. Hàng trăm tác phẩm văn hóa, khoa học, nghệ thuật, triết lý và thiết kế đã đặt thêm chữ “Zen” vào trong tựa đề.

    Tuy không trở lại thời vàng son của thế kỉ thứ 7, thứ 8, Thiền tông vẫn luôn luôn gây được một sức thu hút mãnh liệt nơi tín đồ Phật giáo và đóng một vai trò quan trọng trong nghệ thuật Đông Á.

    Danh từ Thiền tông 

    Trong đạo Phật, dù là Nguyên thủy hay Ðại thừa cũng đều có áp dụng pháp Thiền vì đó là một đặc tính quan trọng của đạo Phật. Thiền tông tuy cũng áp dụng pháp Thiền như các tông khác trong đạo Phật, nhưng đã phát triển theo một đường lối riêng nên trở thành một tông phái riêng biệt trong 10 tông phái của đạo Phật là: Câu xá tông, Thành thiệt tông, Luật tông, Pháp tướng tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Thiên thai tông, Thiền tông, Mật tông, và Tịnh độ tông (theo: Phật giáo khái luận). Có khi Thiền tông còn được gọi bằng những tên khác như: Thiền Như Lai Tối Thượng, Thiền Như Lai Thanh Tịnh, Thiền Tổ Sư, Thiền Ðốn Ngộ, Thiền Ðạt Ma, Thiền Tự Tánh Thanh Tịnh, Tâm Tông … Ðặc điểm của Thiền tông là: “Thiền tông lấy phương diện hoạt động hiện thực làm chủ nghĩa để phát khởi. Ðó là đặc sắc rất lớn của Ðạt Ma Thiền, đã từ các Thiền phái làm nổi bật một sắc thái riêng để rồi không bao lâu đã trở thành một phái độc lập”. (Trích: Ðại thừa Phật giáo Tư tưởng luận). Ðể chỉ về Thiền tông thì các tác giả Trung Hoa dùng danh từ “Chan”, các sách bằng Anh ngữ dùng danh từ Zen (tiếng Nhật), như vậy rất rõ ràng và phân biệt được đối với các pháp Thiền khác. Nếu chúng ta dùng danh từ Zen để chỉ Thiền tông thì tránh được những lẫn lộn với những pháp Thiền khác.

     Ðường lối Thiền tông

    Ðặc điểm của Thiền tông có thể được thu gọn trong bốn câu của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật.” (Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Ðường lối tu hành của Thiền tông rất là độc đáo, tuy thật là đơn giản nhưng cũng khó hiểu. Ðơn giản là vì phương pháp tu chỉ là “thấy Tánh”. Chính vì đơn giản nên gây nhiều điều khó hiểu. Chúng ta thử làm quen thẳng với những điều khó hiểu của Thiền tông. Câu chuyện nổi tiếng về Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma : “Tăng Thần Quang hỏi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma: – Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm. – Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho. – Con tìm tâm không được. – Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” (trích: Tổ Thiền tông) Ngay đó Thần Quang được khế ngộ. Sau này Tổ đổi tên ngài Thần Quang là Huệ Khả, tức là vị Tổ thứ hai tại Trung Hoa. Trong cuốn “Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng” chúng ta gặp rất nhiều những lời đối đáp tương tự cho thấy phương pháp chỉ dạy của Thiền tông rất là khó hiểu, các Tổ thường không có giảng giải chi tiết nhiều, lắm khi lại còn không nói một câu mà lại dùng tiếng hét, hoặc những hành động như giơ cây phất trần, giơ một ngón tay, dương cung, bóp mũi … 

    Ðó chính là áp dụng câu “bất lập văn tự”, tránh những lời nói nhiều, đôi khi cũng phải dùng văn tự để giáo hóa nhưng mục đích vẫn là làm cho người học hỏi không bị vướng mắc vào văn tự mà phải quay vào chính mình để tìm cho ra chân lý. Cho nên khi tổ Huệ Khả xin tổ Bồ Ðề Ðạt Ma chỉ cho phương pháp “an tâm” thì tổ chỉ nói: ” Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho” , thay vì giảng rõ ràng thế nào là tâm, tu hành thế nào để an được tâm đó, đây cũng là áp dụng câu “giáo ngoại biệt truyền”. Câu đó khiến cho tổ Huệ Khả phải đi tìm coi cái tâm đó ra sao, nó từ đâu mà có, biến chuyển ra sao và khi đã thấy rằng tâm đó chỉ là cái tâm vọng, huyễn hóa, không có một thực thể, nên mới có thể trả lời rằng: “Con tìm tâm không được”. Chính khi đã hiểu được thực tánh của cái tâm vọng đó là đã thấy được phương pháp an tâm rồi. 

    Theo Thiền tông, sự hiểu biết do thực tự mình suy ra mới thật là của mình, mới có ảnh hưởng thâm sâu, còn nếu được nghe giảng giải, hoặc đọc hiểu kinh điển lầu lầu thì tuy thuộc lòng đó nhưng rồi chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan “giận mình từ vô thủy đến nay, một bề học rộng, nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực” (trang 11) nên việc tu hành chưa được kết quả nào và bị dâm nữ Ma Ðăng Già quyến rũ. Cái “thấy”, thấy biết, của người tự mình tìm ra khác rất xa với cái “thấy” của những người nghe người khác nói hoặc theo sách vở. Muốn “thấy Tánh” (kiến Tánh) chỉ có cách là phải tự mình “thấy”, nương theo lời chỉ dẫn và thực nghiệm cho đúng, chứ nếu chỉ nhớ xuông, thuộc cho kỹ, nói thao thao, chỉ là cái hiểu, cái thấy “vay mượn”. Kinh nghiệm thực tế là khi chúng ta còn ở nhà trường, nếu chúng ta tự giải được một bài toán thì đó là đã hiểu, còn nếu thầy giáo giải sẵn cho ta thì tuy hiểu đó nhưng sau này gặp bài toán tương tự cũng khó mà giải nổi. Cho nên có Thiền sư đã nói: những gì từ ngoài đem vào, không phải là của báu của mình. Ðó cũng có khi được so sánh như “mặc áo của hàng xóm”, hoặc nói theo thời nay “mặc áo thuê”, cũng có khi nói “đếm tiền cho ngân hàng”, vì đếm cả ngàn, cả triệu đồng rồi khi về nhà vẫn hoàn tay không. 

    Cái hiểu biết do vay mượn từ lời nói, chữ nghĩa không thể có tác dụng bền vững, khi gặp duyên thì “thấy”, khi duyên hết thì nó cũng hết theo, hoàn toàn có tính cách vô thường. Thiền sư Hoàng Bá (?-850) có lần gọi một vị tăng là “người chỉ biết giảng nghĩa theo văn” mà thực sự chẳng đạt được gì. Thiền sư Hoàng Bá còn nói “kẻ cầu tri kiến (biết, thấy) thì rất nhiều, kẻ ngộ đạo thì rất ít”. 

    Đặc sắc của thiền tông 

    Sở dĩ nói đặc sắc Thiền tông, chính là đặc sắc của Phật giáo, là do chịu ảnh hưởng bối cảnh văn hóa Trung Quốc. Nhìn chung, bối cảnh văn hóa Trung Quốc có hai dòng tư tưởng cổ đại đó là: Nho giáo và Lão giáo. Nho giáo thì chú trọng sự quan hệ luân thường đạo lý giữa người với người trong xã hội; còn Lão giáo thì chú trọng giữa con người và tự nhiên phải điều hòa thống nhất.

    Sự hưng khởi và phạm vi hoạt động của Nho giáo phần lớn là ở vùng Hoàng Hà khí hậu khắc nghiệt trải dài đến phương Bắc. Còn cái nôi của Lão giáo là ở phương Nam Trung Quốc khí hậu tương đối ôn hòa, có sản vật phong phú và phong cảnh núi sông hữu tình. Do được vun đắp từ 2 bối cảnh sinh hoạt bất đồng nên mới hình thành hai nền văn hóa cũng hoàn toàn khác nhau.

    Lại do nền tảng kinh tế xã hội Trung Quốc từ xưa đến nay ngoài những thành phần một số ít là quan chức, công thương doanh nghiệp, đại đa số đều là sống nhờ vào nông nghiệp. Tuy nhiên, còn có bộ phận là những bậc cao nhân ẩn sĩ, thế thì cũng sống bằng phương pháp tự mưu sinh trồng trọt ở vùng rừng núi.

     4. Một số phương pháp thiền 

    4.1. Ngồi thiền như thế nào cho đúng cách, đúng phương pháp 

    Tọa thiền cần một căn phòng yên tĩnh. Ăn uống chừng mực, giảm thiểu những mối giao tiếp thế sự. Chớ tính toán nghĩ suy phải quấy, tốt xấu, cũng không theo bên này chống bên kia. Hãy dừng lại mọi tạo tác vận hành của tâm thức, ngay cả ý niệm muốn thành Phật cũng nên dập tắt. Điều này vẫn đúng không chỉ trong thời tọa thiền mà suốt mọi động tác trong ngày.

    Bạn nên bắt đầu tọa thiền vào buổi sáng sớm thức dậy, trước khi tập thể dục và ăn sáng. Nếu bạn chọn thực tập trước khi ngủ sẽ bất lợi vì bạn sẽ dễ bị cơn buồn ngủ lôi kéo hoặc suốt một ngày làm việc tồn đọng lại trong đầu bạn biết bao tạp niệm chưa giải quyết. Bạn nên mặc quần áo bằng vải mềm, rộng rãi.

    Trước hết trải một tấm nệm vuông dày khoảng 2 inches (toạ cụ), ngay giữa đặt lên trên một cái gối ngồi nhỏ (bồ đoàn) để ngồi. Nếu không có bồ đoàn bạn có thể dùng một cái gối thường gấp đôi lại. Nửa mông sau đặt trên bồ đoàn và ngồi ngay thẳng vững vàng. Có nhiều cách ngồi, nhưng với những người mới bắt đầu có thể ngồi kiểu Miến Điện hay ngồi bán kiết già. Những người thường mặc Âu phục rất khó ngồi bán kiết già hay toàn kiết già, có thể ngồi thiền trên ghế hay ngồi theo kiểu Nhật Bản.

    Ngồi kiểu Miến Điện

    Cách thứ nhất và đơn giản nhất là cách ngồi kiểu Miến Điện (Burmese position), cả hai chân xếp chéo nhau đặt đều trên đệm:

    Ngồi Bán Kiết Già (Half Lotus position)

    Tư thế bán kiết già là đặt chân trái lên đùi phải. Tuy nhiên có thể thay đổi, chân trái có thể đặt dưới và chân phải đặt trên đùi trái.

    Ngồi Toàn Kiết Già (Full Lotus position)

    Tư thế toàn kiết già là hai chân được khoá vào nhau, trước hết đặt bàn chân phải lên đùi trái rồi đem bàn chân trái đặt lên đùi phải. Kéo sát chân vào trong thân để ngồi được lâu hơn. Còn bàn tay trái để lên bàn tay phải, hoặc ngược lại. Hai bàn tay để lên hai lòng bàn chân, những ngón tay chồng lên nhau, hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau nằm ngay chiều rốn, cùi chõ vừa ôm hông là được .

    Xương sống hoàn toàn thẳng đứng, không nghiêng bên trái cũng không ngả bên phải, không cúi tới trước cũng không ngả về phía sau, lỗ tai thẳng với vai và lỗ mũi ngay nơi rốn. Lưỡi chạm hàm trên, miệng ngậm, mắt hé mở. Đây là tư thế toạ thiền đúng cách, vững chãi và hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất của tọa thiền là tâm toạ.

    Ngồi kiểu Nhật Bản (Seiza position)

    Tư thế ngồi này là ngồi trên một ghế nhỏ, hai chân để dưới chân ghế. Cũng có thể dùng một cái gối nhỏ đặt lên trên hai chân và mông ngồi trên đó.

    Ngồi Trên Ghế (Chair position)

    Sau cùng là cách ngồi trên ghế với hai bàn chân đặt trên mặt thảm. Cũng có thể ngồi trên bồ đoàn đặt trên ghế. Tư thế lưng cũng giống như các thế ngồi trên.

    Nên chú ý bất cứ kiểu ngồi thiền nào thì xương sống cũng phải hoàn toàn ở vị thế thẳng đứng, không nghiêng bên trái cũng không ngả bên phải, không cúi tới trước cũng không ngả về phía sau, lỗ tai thẳng với vai và lỗ mũi ngay nơi rốn.

    Chiều chóp mũi ngay đầu ngón tay cái, hai trái tay đối xứng hai bả vai, mắt mở 1/3 nhìn không quá 5 tấc với một góc độ vừa phải (45 độ) (nếu mắt nhắm hoàn toàn sẽ dễ bị ngủ, còn mở rộng quá thì sẽ dễ bị toán loạn vì nhìn thấy ngoại cảnh). Gương mặt bình thản, miệng hơi mỉm để cho các cơ bắp trên mặt được giãn ra. Điều này rất cần thiết cho hệ thần kinh.

    Thở Vào Ra Trong Lúc Toạ Thiền

    Hít sâu bằng mũi đầy bụng rồi thở ra bằng miệng nhẹ nhàng. Miệng ngậm lại, môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để lên trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều, nhè nhẹ không cố gắng.

    Điều quan trọng của toạ thiền là tâm tọa tức là làm thế nào để tâm không còn đi dong duổi ta bà, hết nơi này đến chốn khác. Nhưng muốn tâm toạ chúng ta phải làm thế nào? Trên nguyên tắc, chúng ta phải giảm thiểu từ từ những ý nghĩ miên man trong đầu, mới bắt đầu từ nhiều niệm về ít niệm rồi về một niệm và sau cùng là không còn một niệm nào. Từ từ, tâm chúng ta được trong sáng hơn và từ sự vắng bặt niệm, tự nhiên bộc phát sự hiểu biết sáng suốt. Không một niệm trong đầu chính là đối tượng của thiền. Có rất nhiều phương pháp khác nhau và Pháp Thở là bước căn bản, là bài học vỡ lòng của các pháp thiền tập.

    Bước đầu tiên là phải đếm hơi thở để trú tâm nơi hơi thở

    Hòa thượng Giới Đức dạy như sau: “Khi hơi thở hít vô rồi thở ra, đếm 01. Hơi thở hít vô, thở ra, đếm 02… Đếm cho đến 10. Đếm 10 xong trở lại đếm 01, 02 rồi đến 10. Cứ trở lui, trở tới con số 01 đến 10 ấy. Đừng xem thường, hãy chú tâm liên tục mà đếm, nó dễ quên lắm đấy. Có người vừa mới đếm 3,4 hơi thở là cái tâm đã chạy đi đâu mất tiêu! Đếm đúng và nhớ số đếm liên tục, đừng quên. Khó lắm đấy, đừng xem thường. Lưu ý, là đếm theo “hơi thở thực”, chứ không phải đếm theo “quán tính”. Đếm theo hơi thở thực là khi đếm, cái tâm nó gắn khít với hơi thở. Đếm theo quán tính là đếm một cách máy móc, đếm theo tưởng của mình chứ không liên hệ gì với hơi thở thực cả. Hai các hoàn toàn khác nhau đấy! Đếm theo hơi thở thực mới đúng. Nhớ là khi quên chỗ nào, lầm lộn chỗ nào thì phải trở lại từ đầu. Mục đích của đếm hơi thở là cột tâm vào số đếm, vào hơi thở ấy để cho tâm khỏi chạy nhảy lung tung.

    Cứ đếm đến 10, trở lại 01 đến 10 hoài như vậy cho đến lúc thấy rõ ràng mình không còn quên số đếm thì tâm đã bắt đầu an trú. Vậy là chúng ta đã thành công giai đoạn một, nghĩa là đã bước qua Sổ Tức Môn để bắt đầu đi vào Tuỳ Tức môn.  Sau khi thành công, chúng ta bước qua giai đoạn kế tiếp là theo dõi hơi thở.

    Thở là sự sống, là năng lực sống còn, là tâm điểm các hoạt động của cơ thể chúng ta. Tâm và hơi thở của chúng ta là một: khi chúng ta tức bực, hơi thở trở nên hổn hển, khi tâm chúng ta cảm thấy an lạc thoải mái, hơi thở trở nên điều hoà, dễ chịu. Vì thế chúng ta cần điều hoà hơi thở một cách tự nhiên qua lỗ mũi và chú tâm vào cảm thọ về hơi thở nơi đan điền (phần bụng dưới rốn), hoặc là hơi thở vào ra nơi hai lỗ mũ (chỉ nên chọn một). Cảm thọ này là mục đích thiền tập cơ bản của chúng ta. Khi tâm chúng ta nghĩ chuyện khác, chúng ta nên tức khắc gọi nó trở về với hơi thở vào ra. Thân ở đâu thì tâm ở đó.

    Do vì mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng khó nói có một pháp tu nào áp dụng chung cho tất cả mọi người được, vì vậy đức Phật đã chỉ dạy nhiều pháp khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng. Một số những pháp môn này như sau:

    – Quán tưởng: chú tâm quán sát sâu xa về một đề mục rút trong giáo lý. – Trì chú: chú tâm tụng niệm những câu chú gồm những chữ bí ẩn. – Niệm Phật: chú tâm niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà. – Tham thiền: chú tâm tham một công án hoặc một thoại đầu.

    Chúng tôi liệt kê chi tiết một số pháp môn thiền hiện hành như sau:

    – Thiền Tại Hiện (Here and Now Meditation) – Thiền Niệm Phật – Thiền Tây Tạng – Thiền Minh Sát: Mahasi Sayadaw – Thiền Quán: Ajahn Chah – Thiền Tào Động (Mặc Chiếu) – Thiền Công Án – Thiền Thoại Đầu ..

    Nhưng, dù là pháp nào chăng nữa thì việc thực hành cũng là trình tự đưa tâm từ trạng thái nhiều vọng tưởng về trạng thái ít vọng tưởng rồi về nhất tâm, về sau từ từ đạt đến vô tâm, rồi liễu tâm, ngưng dứt dòng suy nghĩ miên man, liên tục của ý thức. Nhà Phật quan niệm rằng sự suy nghĩ liên tục, miên man, của ý thức, còn gọi là “tâm viên ý mã”, tức là tâm ý vọng tưởng chạy nhảy như con vượn, con ngựa, có tác hại là đã che mờ mất Chân Tâm, Trí Tuệ Bát Nhã.

    4.2. Phương pháp Thiền định Anapanasati

    Từ Anapanasati trong tiếng Pali có nghĩa là đem toàn bộ sự chú ý và tỉnh thức vào hơi thở tự nhiên, nhẹ nhàng của chính mình.

    “ ana … có nghĩa là … ‘hít vào’ “

    “ pana … có nghĩa là … ‘thở ra’ “ “ sati … có nghĩa là … ‘hợp nhất với hơi thở’ “

    Sự chú ý của tâm trí phải luôn được đặt vào hơi thở nhẹ nhàng và tự nhiên. Nhiệm vụ đơn giản chỉ là tận hưởng và tỉnh  thức với hơi thở.

    Không có bất kỳ câu thần chú nào, không tụng niệm, không có bất kỳ vị Thánh nào trong tâm trí. Không cố ý hít thở cũng chẳng có bất kỳ tư thế uốn éo nào cả…

    Ngồi ở bất kỳ tư thế nào cảm thấy thoải mái nhất. Càng thoải mái càng tốt. Đan các ngón tay lại. Mắt phải nhắm.

    Điểm then chốt là làm cho tạp niệm lắng xuống, dừng các suy nghĩ lan man. Đừng quan tâm đến bất kỳ điều gì. Nếu có điều gì tự nhiên đến hãy để nó tự nhiên đi bằng cách quay về quan sát hơi thở của chính mình.

    “Khi chúng ta dõi theo hơi thở, tâm trí sẽ trở nên gần như trống rỗng. Và, một nguồn năng lượng vũ trụ to lớn sẽ tràn vào cơ thể. Dần dần, con mắt thứ 3 sẽ được khai mở. Các trải nghiệm của sự tỉnh thức toàn thể vũ trụ sẽ đến”.

       

    4.3. Thiền Vipassana

    Phương Pháp

    Vipassana, nghĩa là thấy sự việc đúng như thật, là một trong những pháp môn thiền cổ xưa nhất tại Ấn độ. Phương pháp này được Đức Phật Gotama tái phát hiện cách đây hơn 2500 năm và được Ngài giảng dạy như một liều thuốc chung chữa trị những bệnh chung cho nhân loại, nghĩa là, một Nghệ Thuật Sống.

    Phương pháp không tông phái này nhằm để diệt trừ những bất tịnh tinh thần và đưa đến hạnh phúc cao cả nhất của sự hoàn toàn giải thoát. Mục đích của nó là để chữa trị, không chỉ riêng bệnh tật, nhưng cốt yếu là để chữa trị khổ đau của con người.

    Vipassana là đường lối tự chuyển hóa bằng tự quan sát. Nó chú trọng đến sự tương quan mật thiết giữa tâm và thân, là điều có thể cảm nghiệm được trực tiếp bằng cách chú tâm đến những cảm giác thực thụ trên thân, nó luôn luôn liên hệ và chi phối tâm. Căn cứ vào sự quan sát này, và hành trình tự khám phá đi vào gốc rễ chung của tâm và thân để xóa bỏ những bất tịnh tinh thần, đưa đến một tâm quân bình tràn đầy tình thương và lòng từ bi.

    Những định luật khoa học chi phối ý nghĩ, cảm tưởng, phán đoán, và cảm giác của con người trở nên rõ ràng. Qua trực nghiệm, trạng thái làm sao ta tiến bộ hoặc thoái hóa, làm sao ta bị khổ hay làm cho ta hết khổ sẽ được hiểu rõ. Cuộc đời được xác định bằng cách gia tăng ý thức, không ảo tưởng, tự chế và an lạc.

    Truyền Thống

    Khóa Thiền

    Phương pháp thiền được giảng dạy trong những khoá thiền nội trú mười ngày trong đó người tham dự tuân theo Nội Quy của Khóa Thiền, học hỏi những căn bản của phương pháp, và thực tập nghiêm chỉnh để đạt được kết quả hữu ích.

    Khóa thiền gồm có ba giai đoạn:

    Giai đoạn thứ nhất, trong suốt khóa thiền, tránh không giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, và say sưa. Điều lệ giản dị về đạo đức này dùng để an tâm, nếu không tâm sẽ quá vọng động để làm công việc tự quan sát.

    Giai đoạn kế tiếp là để phát triển việc làm chủ được tâm bằng cách giữ sự chú ý vào một thực thể tự nhiên thay đổi không ngừng của làn hơi thở vào ra nơi lỗ mũi. Vào ngày thứ tư tâm được an tĩnh và chăm chú hơn, để có thể thực tập Vipassana một cách dễ dàng hơn: quan sát cảm giác trên khắp cơ thể, hiểu được bản chất của cảm giác, và phát triển được sự bình tâm bằng cách biết không phản ứng lại cảm giác.

    Sau hết, trong suốt ngày cuối cùng, thiền sinh học phương pháp thiền từ tâm và thiện chí đối với mọi người, trong đó sự thanh tịnh phát triển trong khóa thiền được san sẻ với mọi chúng sinh.

      

    Nguồn:

    1. https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%81n_t%C3%B4ng

    2. http://tuvien.com/to_su_thien/show.php?get=1&id=tamthai-thien-tt

    3. http://vnbet.vn/cac-tong-phai-dao-phat/thien-tong-lich-su-6917.html

    4. http://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbthn079.htm

    5. http://chuahoiphuoc.net/tu-sach/thien-va-thien-tong/-

    CHIA SẺ BÀI VIẾT

  • Phong Cách Nội Thất Zen Nhật Bản

    Hiện nay các phong cách nội thất ngày một đa dạng và nâng cấp, trong đó có phong cách , phong cách Bắc Âu – , phong cách thiết kế nội thất đương đại – , phong cách hoài cổ – , phong cách du mục – ,…

    Phong cách Zen là gì?

    Zen trong tiếng Nhật có nghĩa là “Thiền”, có nguồn gốc từ chữ Phạn. Zen là một hình thái của đạo Phật, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới lối sống của người Nhật. Zen là một trang thái tinh khiết và tập trung cao độ khi tâm trí xuôi chảy không gì ngăn trở, hoàn toàn đắm mình trong ý thức vũ trụ. Trang trí nội thất phong cách Zen đôi khi còn được gọi là phong cách trang trí nội thất Nhật Bản hiện đại (Modern Japanese Style).

    Phòng thư giãn mang phong cách Zen

    Phong cách Zen sử dụng các vật liệu tự nhiên, ánh sáng tự nhiên, mọi thứ tối giản và không gian ngăn nắp. Zen là một phong cách mang tính cá nhân mạnh mẽ, đề cao sự đơn giản trong thiết kế. Trong thiết kế nội thất, Zen phản ánh sự cân bằng, hài hòa và thư giãn.

    Đường nét tối giản là ảnh hưởng rõ ràng của nội thất truyền thống Nhật Bản trên không gian đương đại

    Đặc điểm của phong cách Zen

    Sự yên bình được mang lại từ cây xanh

    Một trong những vật liệu trang trí phổ biến nhất của phong cách Zen là – mang thiên nhiên vào trong nhà. Thực vật có tác dụng làm dịu thông qua màu xanh của chúng và bằng cách cung cấp oxy. Tuy nhiên, tránh những loại cây bảo dưỡng khó khăn hoặc có thể tỏa ra mùi hương khó chịu. Cây bonsai hoặc hồ cạn treo là một lựa chọn tốt và thường được sử dụng trong trang trí Zen.

    Cây Phát tài mang biểu tượng may mắn thường được gia chủ sử dụng trong nhà

    Cây không khí – một loài cây dễ trồng mang ý nghĩa hạnh phúc

    Mẫu trang trí tiểu cảnh sen đá

    Các vật liệu trang trí

    Các vật liệu tự nhiên cao cấp thường được sử dụng là gỗ, tre, thuỷ tinh, đá tự nhiên,…

    Gỗ là vật liệu dễ truyền đạt sự tự nhiên nhất. Bạn có thể chọn một loại gỗ sáng màu cho sàn nhà, kết hợp nó với đồ nội thất màu tối hơn, để có một sự tương phản tinh tế. Ngoài ra, gỗ màu nâu sẫm hoặc đen trên sàn mang đến không khí sáng sủa, thanh lịch theo phong cách Zen cho khung cảnh.

    Sự tương phản mượt mà giữa màu của sàn nhà và màu của chiếc giường

    Tre có vai trò rất lớn trong phong cách Zen.Vật liệu linh hoạt này có thể được sử dụng để tạo sự tương phản giữa các bức tường đơn giản và thêm kết cấu cho thiết kế tổng thể.

    Yếu tố hương thơm

    Nến, sáp ong và tinh dầu là những cách tự nhiên để tăng cường mùi hương tươi mát cho căn phòng của bạn, không những giúp ngủ ngon mà còn tiếp thêm sinh lực khi đến giờ thức dậy.

    Trang trí bằng vài cây nến đem lại cảm giác yên bình cho căn phòng

    Loại bỏ sóng điện tử

    Các thiết bị điện tử thường là một nguồn gây xao lãng và do đó không thích hợp với phong cách chúng tôi nhiên, nếu bạn cần đặt TV trong phòng ngủ, hãy đảm bảo TV ở khu vực riêng biệt hoặc giấu nó trong tủ được thiết kế đặc biệt.Đồng thời, đảm bảo bạn ẩn tất cả các dây điện và cáp có thể làm biến dạng không khí thanh bình của căn nhà.

    Căn phòng tuy không có bất kỳ một thiết bị điện tử nào nhưng vẫn làm tâm trạng thoải mái khi nhìn vào

    Màu sắc

    Phong cách Zen được truyền tải qua các gam màu nhẹ nhàng và mềm mại như trắng, xám, màu be, nâu vàng, nâu ấm, cam sậm, màu hổ phách, xanh nhạt, xanh navi,…. Không gian yên tĩnh và hài hòa nhất là khi chúng có màu sắc tự nhiên như ánh sáng mặt trời, đó chính là do các gam màu đem lại.

    Chất liệu nội thất phong cách Zen

    Sàn nhà

    Sàn nhà phong cách Zen thường sử dụng những loại vật liệu tự nhiên như sàn gỗ, tre, đá, bê tông, gạch sứ, đá phiến. Bạn cũng có thể sử dụng vải lông, thảm tuy nhiên hãy chú ý tới hoa văn họa tiết trên đó.

    Phong cách Zen đem đến sự gần gũi thiên nhiên nhờ vật liệu nội thất thô mộc như tre, gỗ

    Tường

    Hãy để bức tường đơn giản nhất có thể, bạn có thể trang trí thêm các bức ảnh nghệ thuật ở những nơi tầm nhìn tốt. Sử dụng loại sơn nhẵn, mang lại cảm giác mịn màng cho kết cấu.

    Đường nét tối giản là ảnh hưởng rõ ràng của nội thất truyền thống Nhật Bản trên không gian đương đại

    Bạn cũng có thể sử dụng giấy dán tường tuy nhiên vật liệu này sẽ làm tăng thêm chi tiết cho căn phòng. Vậy nên hãy cẩn thẩn khi lựa chọn mẫu giấy dán tường.

    Các mẫu nội thất phong cách Zen

    Phòng khách

    Phòng khách sử dụng những gam màu phổ biến của phong cách Zen

    Sự kết hợp giữa những tone màu thư giãn, đồ nội thất mang nét hòa hợp và không gian yên bình khiến Zen trở thành phong cách nội thất dành cho sức khỏe. Nghệ thuật phong thủy thường được áp dụng cho phong cách này, bạn nên nhờ chuyên gia giúp đỡ mình sau khi đã có ý tưởng về nội thất.

    Không gian phòng khách mở, mang thiên nhiên vào trong căn nhà của bạn

    Thiết kế Zen đem đến cho bạn cảm giác mềm mại, thư giãn trong khi ngồi thưởng thức những tách trà nóng ngay trong phòng khách

    Cách sắp đặt đối xứng nhau rất chỉnh chu trong Zen

    Văn hóa Nhật Bản luôn hướng đến cái gọi là thu nhỏ thiên nhiên và mang nó vào không gian sống. Để duy trì kết nối với tự nhiên, Zen đem vào trong căn nhà của bạn một không gian gần gũi với cây xanh hay những cánh cửa rộng thu mọi tầm nhìn thiên nhiên vào trong mắt. Khung cửa sổ gỗ tự nhiên là yếu tố lý tưởng cho nhà Zen.Chúng mang lại năng lượng tích cực cũng như sự đơn giản cho không gian bên trong.

    Phòng bếp

    Đa số phòng bếp phong cách Zen thường sử dụng đảo bếp tích hợp bàn ăn và nơi nấu ăn

    Zen bổ sung cho những không gian mộc mạc, tạo rasự rung cảmsang trọng mộc mạc. Một cái gì đó đơn giản như tông màu đất nhẹ mang lại cho không gian cảm giác Zen tự nhiên, nhẹ nhàng. Phong cách kết hợp tốt với các yếu tố mộc mạc như dầm lộ, sàn gỗ kết cấu và nghệ thuật chạm khắc.

    Mọi thứ đều được đơn giản hóa, lộn xộn không có trong từ điển của phong cách Zen

    Phòng ngủ

    Các phòng ngủ kiểu châu Árõ ràng là sự lựa chọn phổ biến nhất cho những chủ nhà muốn nắm lấy cái nhìn cảm hứng từ Zen.Điều này cho phép bạn cân bằng tất cả các yếu tố mà phong thủy nói về, và sự cân bằng thực sự là một khía cạnh quan trọng của bất kỳ nội thất nào muốn toát lên vẻ thanh thản này.

    Phòng ngủ Zen sẽ thay đổi lối sống của bạn, giúp bạn thoải mái và biến mọi khoảnh khắc trong phòng ngủ thành một sự trẻ hóa, thư giãn và hướng nội.

    Phòng ngủ Nhật Bản tuyệt vời toát lên sự đĩnh đạc và tinh tế

    Phòng ngủ Zen là sự cân bằng tuyệt đẹp của các yếu tố

    Không giống các ngôi nhà hiện đại, phòng ngủ Zen đòi hỏi một tone màu ấm hơn, tràn ngập các tone màu gỗ nhẹ nhàng. Cố gắng tránh xa các tone màu lạnh như xanh và tím bởi vì chúng không hấp dẫn thị giác. Phòng theo phong cách zen cần tạo được sự hợp nhất giữa ngoài nhà và bên trong nhà vì tự nhiên và thiết kế của Zen đi đôi với nhau.

    Tone màu gỗ nhẹ nhàng và vật liệu tự nhiên mang đến cho phòng ngủ một góc nhìn yên tĩnh

    Phòng tắm và nhà vệ sinh

    Vẻ đẹp của phòng tắm Zen tuyệt đẹp không chỉ ở ý nghĩa tối giản và đơn giản, mà thiết kế công năng của nó dường như kết hợp các yếu tố tự nhiên, yên tĩnh giúprửa sạch mọi mệt nhọc của bạn một cách nhẹ nhàng và hiệu quả.

    Phòng tắm đơn giản nhưng tinh tế với bồn tắm ở giữa làm điểm nhấn

    Bồn tắm thư giãn có trang trí thêm cây xanh

    Hãy nhớ rằng, mục tiêu của các yếu tố thiết kế Zen là thêm cảm giác bình yên vào không gian sống của bạn, vì vậy hãy cố gắng đừng căng thẳng khi bạn quyết định áp dụng nó!Có rất nhiều sự lựa chọn để thực hiện phong cách này, cho dù căn nhà của bạn nhỏ hay lớn

    Với 17 năm kinh nghiệm và có xưởng trực tiếp sản xuất không qua trung gian nên giá cả thấp hơn 30% thị trường. Nội thất Mạnh Hệ đã hoàn thiện nhiều công trình phòng ngủ, phòng khách, bếp của chung cư, nhà phố, biệt thự, chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng. Hãy liên hệ với chúng tôi để nhận tư vấn và sớm nhất.

    chúng tôi

    Ý Nghĩa Của Id Là Gì ?

    Với thời đại ngày càng phát triển, con người hầu như đang dần phụ thuộc vào công nghệ. Chỉ một thứ nhỏ bé người ta cũng sẽ lấy điện thoại thông minh hay các phương tiện smart khác để tìm kiếm. Chính vì thế mà các thông tin cá nhân rất dễ bị đánh cắp trên các thiết bị mà bạn hay dùng. Để thông tin không bị người xấu lấy cắp thì người ta đã thiết lập ra một mật mã cá nhân giúp người dùng có thể bảo mật thông tin của mình. Vậy đó là gì? Đó chính là ID.

    Ứng dụng ID trong cuộc sống

    Ứng dụng của ID thì chúng ta đã bắt gặp rất nhiều nhưng hầu như mọi người không để ý đến như: số CMTND là một mã ID mà khi chúng ta nhìn vào đó sẽ biết được mình là ai và mã này tự động được sinh ra trên hệ thống phần mềm chung duy nhất và bảo đảm không bao giờ có sự trùng lặp.

    Tác dụng của ID

    Các trung tâm với các chuyên ngành đào tạo tiếng anh, đào tạo seo,… hay trung tâm dạy học và đặc biệt tại các trường học trên cả nước muốn quản lý thông tin học viên sẽ thường phải sử dụng các phần mềm quản lý để đánh số học viên theo số ID nhất định nhằm đảm bảo rằng thông tin học viên sẽ được quản lý một cách chính xác không nhầm lẫn và trùng lặp với các học viên khác. ID được cho là giải pháp tốt nhất mà con người đã từng nghĩ ra để loại bỏ tình trạng trùng lặp dữ liệu giúp việc quản lý được dễ dàng hơn, thuận tiện hơn.ID được áp dụng lên tất cả những thực thể như: con người, sản phẩm, đồ vật,… đều được gắn một mã ID khi chúng cần được quản lý.

    ID hiện nay được coi là một cuộc cách mạng trong việc quản lý cũng như lưu trữ mọi thứ trở nên dễ dàng chỉ cần có ID là có thể biết mọi thông tin về các thực thể đó.

    Ví dụ về ID

    Nếu bạn đang bán hàng online trên mạng thì chắc chắn bạn đang làm việc nhiều với rất nhiều ID về sản phẩm đó vì hàng ngày bạn đăng rất nhiều sản phẩm trên web và ID chính là cái để bạn quản lý sản phẩm một cách dễ dàng hơn.

    Khách hàng đang trên web của bạn và họ chỉ cần đọc ID sản phẩm mà họ đang xem thì bạn check ID thì bạn biết khách hàng của bạn đang quan tâm sản phẩm gì. Chính vì vậy mọi việc sẽ trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết nhờ vào tác dụng ID.

    Vậy ID tuy chỉ là 1 con số hoặc một đoạn mã duy nhất không trùng lặp nhằm xác định một thực thể nào đó nhưng nó lại có tác dụng rất nhiều. Như các bạn đã biết trong các hệ thống phần mềm, hay những hệ thống quản lý thông tin con người hiện nay như: quản lý hộ khẩu, giấy tờ tùy thân hay bất kể một thực thể cần được quản lý để không gây trùng lặp thì đều được cấp một mã ID hoặc một con số ID nhất định.

    Apple ID là gì?

    Cách tạo Apple ID?

    Việc đăng ký tài khoản Apple ID là hoàn toàn miễn phí. Trước khi tạo một tài khoản Apple ID, bạn phải lưu ý rằng nếu muốn sử dụng tài khoản Apple ID để thanh toán các đơn hàng từ gian hàng trực tuyến của Apple thì bạn sẽ phải khai báo thẻ thanh toán quốc tế có chức năng thanh toán trực tuyến trong hoặc sau khi tạo tài khoản Apple ID. Nếu không thì bạn có thể lựa chọn None để từ chối khai báo thông tin thẻ thanh toán. Để tạo một tài khoản Apple ID các bạn làm theo các bước sau: – Tải và cài đặt phần mềm iTunes trên máy tính, điện thoại, máy tính bảng Apple. – Tiếp theo bạn gõ chữ free vào ô Search để liệt kê tên một số ứng dụng miễn phí. – tiếp đến bạn chọn một ứng dụng miễn phí trong danh sách tìm thấy, lúc này sẽ có một bảng thông báo hiện ra yêu cầu bạn tạo tài khoản Apple ID mới hoặc đăng nhập nếu có tài khoản. Khi đó bạn hãy nhấn vào chữ Create New Account để tạo tài khoản Apple ID mới, sau đó nhấn Continue tại cửa sổ chào mừng đến với gian hàng iTunes. – Đọc các điều khoản sử dụng Apple đưa ra và nhấn chấp nhận, và tiếp tục nhấn nút Continue. – Bạn phải khai báo tất cả các thông tin yêu cầu để tạo tài khoản Apple ID mới, cần lưu ý mật khẩu phải dài trên 8 ký tự có chứa cả chữ hoa, chữ thường và cả số. – Trong phần yêu cầu lựa chọn phương thức thanh toán, hãy chọn None và khai báo đủ các thông tin cá nhân yêu cầu bên dưới. – Sau khi nhập đầy đủ thông tin ỷeu cầu thì tài khoản Apple ID của bạn đã được tạo thành công.

    Phân biệt tài khoản iCloud và Apple ID

    Với các thông tin bên trên bạn đã hiểu về Apple ID là gì và iCloud chính là một dịch vụ của Apple với mục đích lưu trữ các dữ liệu và đồng bộ dữ liệu trên các thiết bị cùng đăng kí một Apple ID và giúp người dùng bảo mật cho thiết bị mà họ đang dùng.

    Tại sao mọi người hay bị nhầm lẫn giữa iCloud và Apple ID đó là khi bạn muốn sử dụng tính năng iCloud và tìm từ khóa tạo tài khoản iCloud họ thường hướng dẫn bạn từ đầu là đăng kí Apple ID thông qua dịch vụ iCloud.

    – Các bạn vào mục iCloud để đăng nhập vào iCloud bằng Apple ID. – Tiếp theo vào mục Setting sử dụng email mà bạn đã đăng kí làm Apple ID để đăng nhập vào iCloud để sử dụng tài khoản iCloud trên Apple ID.

    iCloud và Apple ID quan trọng như thế nào

    Nếu như không có tài khoản Apple ID thì bạn không thể sử dụng bất cứ dịch vụ nào của Apple. Tài khoản iCloud ngoài khả năng đồng bộ dữ liệu từ máy lên dịch vụ điện toán đám mây nó còn đồng bộ dữ liệu với các thiết bị cùng sử dụng chung 1 Apple ID. Dịch vụ iCloud còn có khả năng bảo mật rất cao:

    + Back up: bảo mật dữ liệu khi cài đặt hoặc đặt lại thiết bị + Với ứng dụng Find My iPhone: dịch vụ nhằm hỗ trợ tìm kiếm, khóa và xóa tài khoản khi thiết bị của bạn bị đánh cắp. Các thiết bị bị khóa khi bị đánh cắp sẽ không sử dụng được nếu không có ID và mật khẩu được đăng kí trên máy trước đó.

    Chính vì tầm quan trọng của chúng mà bạn cần phải bảo mật thông tin tài khoản và mật khẩu Apple ID thật cẩn thận. Nếu bất cẩn bạn quên mật khẩu thì bạn cũng sẽ không thể truy cập lại dịch vụ iCloud. Với các đời iOS cao như iOS 7 và iOS 8, khi các bạn restore máy yêu cầu mật khẩu nếu như bạn không nhập đúng mật khẩu có nghĩa bạn không thể sử dụng thiết bị của mình nữa. Hãy ghi nhớ mật khẩu cẩn thận hoặc sử dụng câu hỏi bảo mật để phòng khi quên có thể lấy lại mật khẩu.