Top 10 # Xem Nhiều Nhất Zombie Là Ai Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Định Nghĩa Zombies / Công Ty Zombies Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Zombies là các công ty vẫn tiếp tục hoạt động ngay cả khi chúng vỡ nợ hoặc gần phá sản. Các công ty zombies thường là nạn nhân của các khoản chi phí cao gắn với một số hoạt động nhất định, chẳng hạn như nghiên cứu và phát triển. Hầu hết các nhà phân tích cho rằng các công ty zombie khó có thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của họ.

Còn được gọi là “công ty xác sống” hoặc “cổ phiếu zombie”.

Giải thích

Vì tuổi thọ của một công ty zombie thường không thể đoán trước, cổ phiếu zombie cực kỳ nguy hiểm và không phù hợp cho mọi nhà đầu tư. Ví dụ, một công ty công nghệ sinh học nhỏ có thể gây sức ép rất lớn lên tài chính của họ bằng việc tập trung toàn bộ nguồn lực vào việc nghiên cứu và phát triển với hy vọng tạo ra một loại thuốc bom tấn. Nếu thuốc không thành công, công ty đó có thể bị phá sản trong vòng vài ngày sau khi công bố. Mặt khác, nếu nghiên cứu thành công, công ty này có thể thu lời và trả các khoản nợ vay. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, cổ phiếu zombie không thể vượt qua được những gánh nặng tài chính với tốc độ đốt tiền lớn như vậy và cuối cùng hầu hết đều bị phá sản. Do nhóm này thường không được để ý nên đôi khi có những cơ hội rất hấp dẫn cho các nhà đầu tư có khả năng chịu rủi ro cao và đang tìm kiếm cơ hội đầu cơ.

Ngân Hàng Zombie (Zombie Bank) Là Gì? Ví Dụ Về Ngân Hàng Zombie

Khái niệm

Ngân hàng zombie trong tiếng Anh là Zombie Bank.

Ngân hàng zombie là một định chế tài chính mất khả năng thanh toán mà chỉ có thể tiếp tục hoạt động nhờ sự giúp đỡ ngầm hoặc công khai của chính phủ. Các tổ chức này có rất nhiều tài sản không hiệu quả trên bảng cân đối kế toán và được giữ cho không phá sản nhằm mục đích tránh gây ra hoảng loạn lan tới các ngân hàng khác.

Ngân hàng zombie được sinh ra từ sự áp chế tài chính. Khi các khoản vay trở nên tồi tệ, một cuộc tháo chạy vốn diễn ra, giá trị tài sản giảm mạnh, đôi khi các ngân hàng trung ương quyết định giữ cho các ngân hàng, doanh nghiệp hay các hộ gia đình đầy nợ nần khỏi phá sản.

Trước đây, các ngân hàng bị bỏ mặc để phá sản. Chính phủ bắt đầu can thiệp khi thấy rằng các tổ chức tài chính gặp khó khăn sẽ kích động sự hoảng loạn trong nền kinh tế.

Các nhà hoạch định chính sách muốn tránh những tổ chức tài chính lành mạnh hơn bị cuốn vào rắc rối và quyết định hành động. Kể từ đó, các cuộc tranh luận đã nổ ra về thời điểm thích hợp để ngừng sự trợ giúp này.

Hạn chế của ngân hàng zombie

Việc đóng cửa các ngân hàng gặp khó khăn có thể kích động sự hoảng loạn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các bằng chứng thực tế cho thấy rằng việc cho phép chúng tiếp tục hoạt động cũng có một số nhược điểm. Việc khôi phục ngân hàng có thể tiêu tốn hàng trăm tỉ đô la và cản trở tăng trưởng kinh tế.

Do tài sản của các ngân hàng zombie không bị phát mại hay thanh lí, vốn của các nhà đầu tư bị mắc kẹt, thay vì được thu hồi để sử dụng hiệu quả hơn. Ngoài ra, thay vì củng cố các công ty lành mạnh và hỗ trợ phục hồi kinh tế, các ngân hàng zombie giúp duy trì các tập đoàn mục nát.

Với việc bóp méo cơ chế thị trường, việc phân bổ nguồn lực sai làm suy yếu toàn bộ hệ thống tài chính.

Ví dụ về ngân hàng zombie

Tại Nhật Bản, khi bong bóng bất động sản sụp đổ vào năm 1990, nước này đã duy trì các ngân hàng mất khả năng thanh toán thay vì tái cấp vốn hoặc để chúng phá sản.

Gần 30 năm sau, các ngân hàng zombie của Nhật Bản vẫn có một lượng lớn các khoản nợ xấu trên sổ sách của họ. Thay vì giúp kinh tế Nhật Bản phục hồi, các ngân hàng này đã khóa chặt nền kinh tế nước này vào một cái bẫy giảm phát mà nước này chưa bao giờ thoát ra được.

(Theo investopedia)

Hằng Hà

Định Nghĩa Zombie Debt / Nợ Khó Đòi – Nợ Zombie Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Zombie Debt là loại nợ xấu tồn đọng quá lâu khiến thậm chí con nợ quên mất mình còn nợ khoản đó. Các khoản nợ này gần như đã bị các công ty loại khỏi danh sách phải thu. Nợ khó đòi sẽ đeo đuổi con nợ nếu nó được mua lại bởi một công ty mua bán nợ (ví dụ một công ty quản lý tài sản) với giá rẻ trong nỗ lực thu hồi vốn của chủ nợ ban đầu. 

Giải thích

Nếu một người bị những kẻ đòi nợ truy thu các khoản nợ khó đòi đã thanh toán hết hoặc chưa hề phát sinh, họ hoàn toàn có thể phản ứng lại. Theo đạo luật thi hành thu hồi nợ của Mĩ (Fair Debt Collection Practices Act), một người có thể viết thư cho chủ nợ yêu cầu dừng việc thu hồi nợ. Khi đó, chủ nợ có thể liên lạc với các con nợ để thông báo rằng họ sẽ chấm dứt việc đòi nợ hoặc sẽ có những hành động cụ thể khác.

Lưu ý rằng nếu bạn còn nợ tiền, chủ nợ vẫn có quyền đưa bạn ra tòa để thu hồi lại các khoản nợ này, với điều kiện thời hạn cho lần thanh toán cuối cùng chưa vượt quá thời gian quy định trong luật.

Doanh Nhân Là Ai? Ai Là Doanh Nhân !

Theo định nghĩa thông dụng, kinh doanh là hoạt động mưu cầu lợi nhuận (nói “mưu cầu” bao quát hơn “làm ra” vì có khi kinh doanh bị lỗ). Nội hàm này thể hiện trong định nghĩa của Từ điển tiếng Việt 1997 do Hoàng Phê chủ biên: “Kinh doanh là tổ chức việc sản xuất, buôn bán sao cho sinh lợi”.

Luật Doanh nghiệp định nghĩa dài dòng hơn:

“Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.

Từ điển Thuật ngữ kinh doanh (Dictionary of business terms – tiếng Anh) năm 1987 do Jack P. Friedman chủ biên, định nghĩa “Kinh doanh (business) là nghề nghiệp hoặc hoạt động thương mại mưu cầu lợi nhuận bằng việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ. Kinh doanh do các doanh nhân (entrepreneur) bỏ vốn cho một hoạt động chịu rủi ro để kiếm lợi nhuận. Cơ sở kinh doanh được gọi là doanh nghiệp. Quy mô của nó từ hộ kinh doanh của chủ sở hữu cá thể đến công ty, tập đoàn quốc tế có vốn hàng tỉ USD và sử dụng hàng nghìn lao động” (trong tiếng Anh entrepreneur nhấn mạnh khía cạnh người bỏ vốn đầu tư, còn từ này trong tiếng Pháp lại chú trọng khía cạnh quản lý, như định nghĩa của Từ điển Larousse 2002: “Entrepreneur là người đứng đầu một doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xây nhà hoặc xây dựng công trình công cộng. Về luật pháp, entrepreneur là người trong một hợp đồng kinh doanh cam kết thực hiện một công việc cho người chủ công trình (tiếng Việt gọi là thầu khoán hoặc nhà thầu)”.

Từ các định nghĩa trên, có thể nói kinh doanh gồm hai việc:

– Bỏ vốn đầu tư kinh doanh;

– Quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp.

Doanh nhân hay nhà kinh doanh là người thực hiện cả hai việc hoặc một trong hai việc ấy?

Có ý kiến cho rằng khi chủ doanh nghiệp trực tiếp giữ vị trí chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc một doanh nghiệp thì họ là doanh nhân vì họ trực tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp; còn nếu chủ doanh nghiệp thuê giám đốc để điều hành doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp là doanh nhân, còn giám đốc chỉ là người làm thuê, không phải là doanh nhân. Nói như vậy chưa thoả đáng vì quản lý, điều hành doanh nghiệp, dù là làm thuê cũng có chức năng và mục tiêu hoạt động là tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp bằng việc cung cấp cho xã hội sản phẩm hoặc dịch vụ; thêm vào đó, ngày càng có nhiều người trong số này trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Họ có vai trò quan trọng trong kinh doanh, phải có kiến thức và văn hoá kinh doanh, nên không thể loại họ ra ngoài hàng ngũ doanh nhân, kể cả khi họ chỉ làm thuê cho chủ doanh nghiệp.

Nói tóm lại, có thể coi doanh nhân là những người làm cả hai việc nêu trên hoặc một trong hai việc. Về việc bỏ vốn đầu tư thì phải phân tích sâu hơn: đối với các công ty cổ phần gồm nhiều cổ đông, thì chỉ cổ đông chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối, có vai trò quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp mới được coi là doanh nhân, vì những cổ đông khác tuy có tham gia (hoặc cử đại diện tham gia) đại hội cổ đông, được bỏ phiếu về một số vấn đề của doanh nghiệp nhưng không có tiếng nói trong hoạt động thường xuyên của doanh nghiêp, nghĩa là không trực tiếp làm công việc kinh doanh. Về người quản lý kinh doanh, có ý kiến cho rằng đối với các doanh nghiệp lớn, ngoài tổng giám đốc phải coi giám đốc kinh doanh, giám đốc tài chính v.v… cũng đích thực là doanh nhân; tuy nhiên điều này phụ thuộc vào quy chế về chức năng và trách nhiệm của từng doanh nghiệp đối với các giám đốc điều hành từng lĩnh vực.

Những người chủ doanh nghiệp và người giám đốc doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập theo luật Doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã) là lực lượng chủ yếu trong tầng lớp doanh nhân vì đó là những người kinh doanh có vai trò quyết định trong việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như trong việc sử dụng lao động. Theo Niên giám thống kê 2008, tính đến cuối năm 2007 cả nước có 155.771 doanh nghiệp, sử dụng 7.382.160 lao động (chiếm 16,7% tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế; riêng trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng thì số lao động trong các doanh nghiệp chiếm 58,6%), tạo ra khoảng trên một nửa tổng sản phẩm trong nước(GDP). Như vậy trong các doanh nghiệp thành lập theo luật có khoảng 300.000 doanh nhân.

Ở nước ta, tầng lớp doanh nhân phải kể cả những người kinh doanh dưới hình thức hộ cá thể (như định nghĩa của Dictionary of business terms). Trong các ngành phi nông nghiệp, có những hộ kinh doanh cá thể sử dụng hàng trăm lao động nhưng vì nhiều lý do, họ chưa đăng ký thành doanh nghiệp. Trong loại hình này, người bỏ vốn đầu tư thường trực tiếp quản lý kinh doanh, nên với 3.748.138 hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp có đến cuối năm 2007 (theo Niên giám thống kê 2008), nước ta có xấp xỉ 4 triệu doanh nhân cá thể (hiện tại con số này lớn gấp nhiều lần).

Trong nông nghiệp, theo Niên giám thống kê cách đây 10 năm 2008, có 116.222 trang trại và những người chủ trang trại mang đầy đủ tính cách của doanh nhân. Ngoài ra, những hộ nông dân cá thể mà toàn bộ hoặc hầu hết sản phẩm làm ra để bán trên thị trường nên rất cần kiến thức kinh doanh và thông tin thị trường, cũng phải được coi là doanh nhân, mặc dù tính cách và năng lực kinh doanh còn có hạn. Chưa có con số thống kê nhưng phải tính tới vài triệu doanh nhân trong hơn 10 triệu hộ nông dân cá thể. Những con số chỉ để chứng minh ai là doanh nhân chứ chưa bàn về sự phát triển đội ngũ này qua từng giai đoạn lịch sử.

Như vậy, tầng lớp doanh nhân nước ta rất đông đảo, gồm nhiều loại ở nhiều tầm cỡ và trình độ khác nhau (chưa kể các hộ kinh doanh nông nghiệp cá thể thì đến nay đã có xấp xỉ 5 triệu doanh nhân). Tầng lớp này đang tiếp tục phát triển về số lượng và cần nâng cao chất lượng cả về trình độ, năng lực kinh doanh và trách nhiệm xã hội, xứng đáng là một thành phần liên kết với công nhân, nông dân và trí thức để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Đông đảo là vậy nhưng để thực sự trở thành doanh nhân đúng nghĩa cần hội đủ các tiêu chí như đạo đức, kiến thức, văn hóa… vì thế dân gian mới chia ra người giàu với trọc phú.

HG