Top 7 # Xem Nhiều Nhất Zombie Là Gì Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Sieuphampanorama.com

Định Nghĩa Zombies / Công Ty Zombies Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Zombies là các công ty vẫn tiếp tục hoạt động ngay cả khi chúng vỡ nợ hoặc gần phá sản. Các công ty zombies thường là nạn nhân của các khoản chi phí cao gắn với một số hoạt động nhất định, chẳng hạn như nghiên cứu và phát triển. Hầu hết các nhà phân tích cho rằng các công ty zombie khó có thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của họ.

Còn được gọi là “công ty xác sống” hoặc “cổ phiếu zombie”.

Giải thích

Vì tuổi thọ của một công ty zombie thường không thể đoán trước, cổ phiếu zombie cực kỳ nguy hiểm và không phù hợp cho mọi nhà đầu tư. Ví dụ, một công ty công nghệ sinh học nhỏ có thể gây sức ép rất lớn lên tài chính của họ bằng việc tập trung toàn bộ nguồn lực vào việc nghiên cứu và phát triển với hy vọng tạo ra một loại thuốc bom tấn. Nếu thuốc không thành công, công ty đó có thể bị phá sản trong vòng vài ngày sau khi công bố. Mặt khác, nếu nghiên cứu thành công, công ty này có thể thu lời và trả các khoản nợ vay. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, cổ phiếu zombie không thể vượt qua được những gánh nặng tài chính với tốc độ đốt tiền lớn như vậy và cuối cùng hầu hết đều bị phá sản. Do nhóm này thường không được để ý nên đôi khi có những cơ hội rất hấp dẫn cho các nhà đầu tư có khả năng chịu rủi ro cao và đang tìm kiếm cơ hội đầu cơ.

Định Nghĩa Zombie Bank / Ngân Hàng Zombie Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Zombie Bank là một ngân hàng, hoặc tổ chức tài chính có giá trị tài sản ròng âm. Mặc dù các ngân hàng zombie thường có giá trị tài sản ròng nhỏ hơn 0, chúng vẫn tiếp tục hoạt động do nhận được cứu trợ hoặc bảo lãnh từ chính phủ nên vẫn đảm bảo hoàn thành được các nghĩa vụ nợ và tránh phá sản. Các ngân hàng Zombie thường có một lượng lớn các tài sản không hiệu quả trên bảng cân đối kế toán, điều này khiến thu nhập tương lai của họ trở nên rất khó dự đoán.

Giải thích

Thuật ngữ này được đưa ra lần đầu tiên tại Mĩ vào năm 1987 để giải thích cho các cuộc khủng hoảng tiền tiết kiệm và nợ vay dẫn đến việc rất nhiều tổ chức tài chính tuyên bố phá sản. Thông thường, khi một ngân hàng bị coi là ngân hàng zombie, khách hàng sẽ đổ xô đi rút vốn và khiến tình hình trở nên xấu đi. Điều này đã được kiểm chứng trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, khi mà một số lượng lớn các ngân hàng quốc gia và khu vực rơi vào tình trạng khủng hoảng vỡ nợ, buộc chính phủ Mỹ phải phát hành các gói cứu trợ nhằm cứu nguy cho thị trường tài chính.

Một Quá Trình Zombie Zombie Trên Linux Là Gì? / Làm Thế Nào Để

Nếu bạn là người dùng Linux, bạn có thể đã thấy các quy trình zombie chuyển động xung quanh danh sách quy trình của mình. Bạn không thể giết quá trình zombie vì nó đã chết – giống như một thây ma thực sự.

Zombie về cơ bản là các phần còn lại của các quá trình chết chưa được dọn sạch. Một chương trình tạo ra các quy trình zombie không được lập trình đúng – các chương trình không được phép để các quy trình zombie tồn tại.

Quá trình Zombie là gì?

Để hiểu quy trình zombie là gì và nguyên nhân khiến quy trình zombie xuất hiện, bạn sẽ cần hiểu một chút về cách các quy trình hoạt động trên Linux.

Khi một tiến trình chết trên Linux, nó sẽ không bị xóa khỏi bộ nhớ ngay lập tức – bộ mô tả quá trình của nó nằm trong bộ nhớ (bộ mô tả quá trình chỉ chiếm một lượng bộ nhớ nhỏ). Trạng thái của quy trình trở thành EXIT_ZOMBIE và cha mẹ của quy trình được thông báo rằng quy trình con của nó đã chết với tín hiệu SIGCHLD. Quá trình cha sau đó được cho là thực hiện lệnh gọi hệ thống Wait () để đọc trạng thái thoát của tiến trình chết và các thông tin khác. Điều này cho phép tiến trình cha mẹ lấy thông tin từ tiến trình chết. Sau khi Wait () được gọi, quá trình zombie bị xóa hoàn toàn khỏi bộ nhớ.

Điều này thường xảy ra rất nhanh, vì vậy bạn sẽ không thấy các quá trình zombie tích lũy trên hệ thống của mình. Tuy nhiên, nếu một quy trình cha mẹ không được lập trình đúng cách và không bao giờ gọi chờ (), những đứa trẻ zombie của nó sẽ lưu lại trong bộ nhớ cho đến khi chúng được dọn sạch.

Các tiện ích như Giám sát hệ thống Gnome, hàng đầu lệnh và ps lệnh hiển thị các quá trình zombie.

Nguy hiểm của quá trình Zombie

Quá trình zombie không sử dụng hết tài nguyên hệ thống. (Trên thực tế, mỗi người sử dụng một lượng bộ nhớ hệ thống rất nhỏ để lưu trữ bộ mô tả quy trình của nó.) Tuy nhiên, mỗi quy trình zombie vẫn giữ ID tiến trình (PID). Các hệ thống Linux có số lượng ID quá trình hữu hạn – 32767 theo mặc định trên các hệ thống 32 bit. Nếu zombie đang tích lũy với tốc độ rất nhanh – ví dụ: nếu phần mềm máy chủ được lập trình không đúng cách đang tạo ra các quy trình zombie đang tải – thì toàn bộ nhóm các PID có sẵn cuối cùng sẽ được gán cho các quy trình zombie, ngăn các quá trình khác khởi chạy.

Tuy nhiên, một vài quy trình zombie treo xung quanh không có vấn đề gì – mặc dù chúng chỉ ra lỗi với quy trình cha mẹ của chúng trên hệ thống của bạn.

Thoát khỏi quá trình Zombie

Bạn không thể tiêu diệt các quy trình zombie vì bạn có thể tiêu diệt các quy trình thông thường bằng tín hiệu SIGKILL – các quy trình zombie đã chết. Hãy nhớ rằng bạn không cần phải loại bỏ các quy trình zombie trừ khi bạn có một lượng lớn trên hệ thống của mình – một vài zombie là vô hại. Tuy nhiên, có một vài cách bạn có thể thoát khỏi quá trình zombie.

Một cách là bằng cách gửi tín hiệu SIGCHLD đến tiến trình cha. Tín hiệu này cho biết quá trình cha mẹ thực hiện lệnh gọi hệ thống Wait () và dọn sạch các zombie con của nó. Gửi tín hiệu với giết chết lệnh, thay thế pid trong lệnh bên dưới với PID của tiến trình cha:

giết -s SIGCHLD

Tuy nhiên, nếu quy trình cha không được lập trình đúng và bỏ qua các tín hiệu SIGCHLD, thì điều này sẽ không có ích. Bạn sẽ phải giết hoặc đóng quá trình cha mẹ của zombie. Khi quá trình tạo ra zombie kết thúc, init sẽ thừa hưởng các quá trình zombie và trở thành cha mẹ mới của chúng. (init là quá trình đầu tiên được khởi động trên Linux khi khởi động và được gán PID 1.) init thực hiện cuộc gọi hệ thống Wait () để dọn sạch các zombie con của nó, do đó init sẽ tạo ra các zombie ngắn. Bạn có thể khởi động lại tiến trình cha sau khi đóng nó.

Nếu một quá trình cha mẹ tiếp tục tạo ra thây ma, thì nó nên được sửa để nó gọi Wait () đúng cách để gặt hái những đứa con zombie của nó. Gửi báo cáo lỗi nếu một chương trình trên hệ thống của bạn tiếp tục tạo zombie.

Virus, Worm, Trojan Horse Và Zombie Là Gì?

Posted on by formej

Định nghĩa: Phần mềm phá hoại: bất kỳ phần mềm nào được viết nhằm gây nên những hư hại hay chiếm dụng tài nguyên của máy tính mục tiêu. Phần mềm phá hoại thường được che giấu hay hoá trang như là phần mềm hợp lệ. Trong một vài trường hợp, nó tự lây lan sang những máy tính khác qua thư điện tử hay đĩa mềm đã bị nhiễm. Những loại phần mềm phá hoại gồm có virus, ngựa thành Troa (Trojan horse), sâu (worm) và phần mềm bí mật để khởi động các cuộc tấn công làm quá tải (denial-of-service-DoS)

Một vài khía cạnh bảo mật của máy tính đã bị tai tiếng khi để cho những phần mềm phá hoại lan tràn trên máy tính của người dùng. Virus, sâu, ngựa Troas, bom luận lý, âm binh, đánh cắp mật mã – danh sách này ngày càng dài hơn. Những loại phần mềm phá hoại khác nhau có những phương thức hoạt động và nguy cơ gây hại khác nhau.

Những virus như Chernobyl, Melissa và chương trình chúng tôi đã gây nên những thiệt hại máy tính to lớn sau khi lan tràn trên khắp thế giới qua đường e-mail vào năm ngoái. Kiểu tấn công làm quá tải DoS cũng đánh ngã quỵ nhiều Web site thương mại điện tử quan trọng vào đầu năm nay, được khởi động bằng những phần mềm phá hoại, ẩn nấp trong hàng trăm máy tính kết nối Internet mà chủ nhân của chúng không biết.

Các tổ chức công nghiệp, chuyên gia và người tình nguyện đã nhanh chóng phân loại phần mềm phá hoại, đưa ra những lời cảnh báo và tiếp thị phần mềm được thiết kế để phát hiện, định vị và xoá những chương trình như vậy. Mã chương trình phá hoại xuất hiện hàng tháng, do cộng đồng những lập trình viên giấu mặt tạo ra với động cơ rõ ràng muốn phá hoại, đánh cắp thông tin hay đôi lúc chỉ là muốn chứng tỏ tài năng kỹ thuật.

Mối đe dọa của virus Virus là một loại phần mềm phá hoại nổi tiếng nhất. Những chương trình này đã bí mật tự gắn mình vào các chương trình khác. Điều làm cho chúng trở nên nguy hiểm là trước khi phá hoại theo những gì được lập trình sẵn, chúng sẽ tự sao chép vào những tập tin chương trình khác. Vì vậy, virus máy tính lây nhiễm và nhân bản theo cách gần giống như virus sinh học.

Theo nhận định của giám đốc công ty McAfee thì phạm vi tác hại đã có những thay đổi quan trọng trong vài năm qua. Cách đây 5-6 năm, virus lây lan qua đĩa mềm và sự lây nhiễm mang tính địa phương; tốc độ lây lan cũng chậm hơn ngày nay. Khi có những ứng dụng có macro như Microsoft Outlook hay Word thì cũng xuất hiện vô số virus macro. Năm ngoái xuất hiện Melissa và những virus e-mail, đến cuối năm là virus có tên BubbleBoy có khả năng lây nhiễm khi người dùng chỉ mở e-mail vì nó dùng ngôn ngữ kịch bản Visual Basic trong e-mail này. Virus vẫn là vấn đề lớn nhất về bảo mật máy tính với thực trạng có nhiều virus đang hoành hành và virus mới vẫn tiếp tục xuất hiện hàng ngày.

Thời gian cao điểm xuất hiện virus mới là sau những ngày nghỉ thu và đông – ứng với thời gian nghỉ của các trường học, khi các lập trình viên trẻ tuổi có thời gian để phát triển virus mới.

Macro virus, được kích hoạt bởi các tác vụ chạy tự động bên trong những chương trình như Microsoft Word, hiện là mối đe doạ lớn nhất. Ngoài ra còn có một vài loại tinh vi như các virus đa hình và tàng hình, có khả năng lẩn tránh sự phát hiện bằng cách thay đổi cấu trúc bên trong của chúng.

Những mối đe dọa khác Ngoài virus, còn có những mối đe dọa ngày càng lớn từ những loại phần mềm phá hoại khác gồm ngựa thành Troas, sâu và DoS cũng như các ứng dụng nhúng Java ác ý.

Ngựa thành Troas, tương tự như truyền thuyết gắn với tên này, là một chương trình tỏ ra hợp lệ nhưng lại che giấu chức năng ngầm có khả năng phá hoại. Loại Trojan horse phổ biến thường được phân tán bằng e-mail với mục đích đánh cắp mật mã từ máy tính của nạn nhân và sau đó gửi dữ liệu đánh cắp được đến một người nhận nặc danh qua đường e-mail.

Sâu chiếm dụng tài nguyên của máy tính như bộ nhớ và băng thông mạng, giảm tốc độ của cả PC và server. Không những thế, đôi lúc sâu còn xóa dữ liệu và lây lan nhanh chóng bằng e-mail.

Đối với loại tấn công làm quá tải DoS, những Web site mục tiêu sẽ bị tràn ngập bởi các luồng thông tin Internet cố ý. Cách tấn công này dựa vào việc nạp các chương trình, đôi lúc còn được gọi là zombie, vốn được giấu trước đó trên hàng trăm máy tính kết nối Internet thuộc về những tổ chức thứ ba vốn không bị nghi ngờ như các trường đại học.

Các ứng dụng nhúng Java phá hoại, đánh cắp thông tin hay gây ra những hư hại cho máy tính của người dùng truy cập đến các Web site xấu. Dù các ứng dụng nhúng Java phá hoại chưa phải là vấn đề lớn nhưng các nhà sản xuất trình chống virus cho rằng chúng sẽ là mối đe dọa tiếp theo.

NHỮNG LOẠI PHẦN MỀM PHÁ HOẠI CHÍNH

1. Virus. Phần mềm có khả năng tự gắn nó với chương trình khác. Một khi chương trình ký chủ được khởi động, virus này sẽ được kích hoạt. Virus có thể gây hư hại như xóa chương trình hay dữ liệu nhưng trước tiên nó sẽ lây nhiễm lên máy tính bằng cách gắn bản sao của chính nó vào các chương trình thực thi khác. Một số loại virus có khả năng tự lây lan qua đường e-mail.

2. Macro virus. Loại virus không nằm trong bản thân chương trình thực thi nhưng lại ở trong phần macro của tài liệu như Microsoft Word hay bảng tính Excel.

3. Trojan Horse. Chương trình có vẻ thực hiện một công việc hợp lệ nhưng đồng thời cũng thực hiện một hoạt động gây hại khi được thực thi. Trojan Horse thường được dùng để đánh cắp mật khẩu trong máy tính. Khác với virus, Trojan Horse không tự nhân bản.

4. Worm. Chương trình tự nhân bản trên đĩa cứng, bộ nhớ của máy tính và qua mạng và vì thế chiếm dụng tài nguyên máy tính. Worm khác với virus là không có mục đính “bỏ bom” hay mục đích khác ngoài việc nhân bản. Một số worm có khả năng tự lây lan sang máy tính khác qua e-mail.

5. Zombie. Chương trình bí mật khống chế một máy tính kết nối Internet khác, sau đó dùng máy tính này để bắt đầu những cuộc tấn công mà người ta không thể lần ra được dấu vết của người đã tạo ra zombie này.

Computerworld

Bình chọn

Share this:

Twitter

Facebook

Reddit

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…