Cập nhật nội dung chi tiết về Truyền Máu Khối Lượng Lớn mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bs Trần Thị Thảo – Khoa Nội thận – Nội tiết
Định nghĩa
Truyền máu khối lượng lớn (TMKLL) được định nghĩa dựa trên thể tích máu mất hoặc thể tích máu được truyền.
Có nhiều định nghĩa về TMKLL. Trước đây, người trưởng thành được truyền 10 đơn vị hồng cầu lắng trong vòng 24 giờ để đối phó với chảy máu nặng và không kiểm soát được gọi là TMKLL [2], [14]. Tuy nhiên, để điều trị nhanh chóng và hiệu quả hơn, định nghĩa này đã thay đổi như truyền 3 đơn vị hồng cầu lắng quá 1 giờ do mất máu không kiểm soát được [9]. Một số định nghĩa khác như truyền một nửa thể tích máu trong vòng 4 giờ, hoặc truyền hơn một lần thể tích máu trong vòng 24 giờ (thể tích máu người trưởng thành khoảng 70 ml/kg), hay mất máu nhiều hơn 150 ml/phút [2], [14].
Trẻ em có những đặc điểm khác biệt quan trọng so với người lớn như thể tích máu, khả năng chịu đựng khi mất máu, mức độ hemoglobin và hematocrit thay đổi theo tuổi. Vì vậy, TMKLL được định nghĩa ở đối tượng này là sự truyền nhiều hơn 40 mL máu/kg (thể tích máu bình thường ở trẻ em khoảng 80 mL/kg) [14].
Dịch tễ và nguyên nhân
Trong nghiên cứu của Mitra & cs (2014) ở những bệnh nhân chấn thương lớn từ năm 2006 đến 2011, những người trên 65 tuổi TMKLL chiếm 16,4%; trong đó 39,2% tử vong, cao hơn có ý nghĩa so với những người trẻ (21.1%) [12].
Nguyên nhân TMKLL: Đa thương (chấn thương ≥ hai hệ thống cơ quan trong cơ thể), vỡ gan, vỡ lách…; phẫu thuật nguy cơ xuất huyết cao: phình bóc tách động mạch chủ, ghép gan…; phẫu thuật phức tạp: tim, mạch máu…; chảy máu đường tiêu hoá; chảy máu trong sản khoa: thai ngoài tử cung, vỡ tử cung, rối loạn đông máu thứ phát sau thuyên tắc dịch ối…
Trong nghiên cứu của Halmin & cs (2016), chỉ định thường gặp nhất của TMKLL là phẫu thuật lớn (61,2%), sau đó là chấn thương (15,4%). Tỷ lệ tử vong toàn bộ 5 năm cao (54,6%), tuy nhiên có sự khác biệt lớn giữa các nhóm, từ 91,1% truyền máu trong bệnh ác tính đến 1,7% do chảy máu sản khoa [7].
Các chế phẩm trong truyền máu khối lượng lớn
Chỉ định truyền máu
Không có chỉ định rõ ràng TMKLL trong nhiều trường hợp.
Chỉ định: Choáng mất máu hay chảy máu đang tiến triển.
Quyết định truyền máu ở bệnh nhân đa chấn thương hay một số trường hợp khác phụ thuộc:
+ Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân
+ Bằng chứng mất một lượng máu lớn
+ Khả năng mất máu tiến triển
Không có điều kiện đơn độc nào được sử dụng để chỉ định truyền máu, mà sự kết hợp tình trạng lâm sàng bệnh nhân và nhu cầu phân phối Oxy cần được xem xét [5].
Truyền hồng cầu lắng (pRBC: packed red blood cells)
Mục đích cơ bản: cải thiện và duy trì sự oxy hoá mô.
Truyền hồng cầu được chỉ định cho những bệnh nhân choáng mất máu, có thể được chỉ định cho những bệnh nhân mất máu cấp hay huyết động không ổn định hoặc phân phối Oxy không đầy đủ.
Truyền huyết tương tươi đông lạnh (FFP: fresh frozen plasma)
Mục đích cơ bản: phục hồi đông máu hiệu quả.
Nên bắt đầu sớm ngay khi truyền hồng cầu để bù các yếu tố đông máu thiếu hụt.
Liều: 15 – 20 mL/kg [4].
Truyền tiểu cầu (PLT: platelets) và kết tủa lạnh (cryoprecipitate)
Truyền tiểu cầu được khuyến cáo để duy trì tiểu cầu ≥ 50 x 109/L; và cao hơn trong tổn thương não (≥ 100 x 109/L).
Fibrinogen là hợp chất bắt buộc trong con đường đông máu. Truyền kết tủa lạnh hay fibrinogen đông khô được khuyến cáo khi fibrinogen dưới 1,5 – 2 g/L.
Nếu truyền FFP đơn thuần, thì 10 – 15 mL/kg FFP chỉ làm tăng fibrinogen huyết tương lên 0.4 g/L. Nếu tăng FFP lên 30 mL/kg có thể tăng fibrinogen lên 1 g/L [5].
Lựa chọn đơn vị máu phù hợp miễn dịch
Hệ ABO
Đối với máu toàn phần, hồng cầu lắng, các chế phẩm tiểu cầu và bạch cầu hạt đã loại bỏ huyết tương nguyên thủy, nhóm máu O có thể cho tất cả các nhóm máu, và nhóm máu AB có thể nhận từ tất cả các nhóm máu còn lại.
Đối với huyết tương tươi đông lạnh, các chế phẩm tiểu cầu và bạch cầu hạt còn huyết tương nguyên thủy, nhóm máu AB có thể cho tất cả các nhóm máu, và nhóm máu O có thể nhận từ tất cả các nhóm máu còn lại.
Có thể truyền tủa lạnh không hoà hợp nhóm hệ ABO cho người bệnh nhận máu với liều lượng truyền không vượt quá 10 ml/kg cân nặng cơ thể trong khoảng thời gian 12 giờ [1].
Hệ Rhesus
Người có Rh (D) dương có thể nhận máu từ Rh (D) âm và Rh (D) yếu. Nhưng người có Rh (D) âm và Rh (D) yếu chỉ nhận được máu Rh (D) âm.
Bảo đảm hòa hợp miễn dịch trong trường hợp cấp cứu
Trong trường hợp cấp cứu, không kịp làm đầy đủ xét nghiệm sàng lọc hay không xác định được nhóm máu người bệnh hoặc không lựa chọn được đơn vị máu, chế phẩm máu phù hợp, nếu được sự đồng ý bằng văn bản của bác sĩ điều trị có thể cấp phát như sau:
Truyền thay khối hồng cầu nhóm O cho người bệnh có chỉ định truyền khối hồng cầu
Truyền khối hồng cầu nhóm O, Rh(D) âm cho người bệnh nhóm máu Rh(D) âm hoặc không xác định nhóm Rh(D)
Truyền huyết tương nhóm AB cho người bệnh có chỉ định truyền huyết tương.
Chỉ truyền máu nhóm Rh(D) dương cho người nhận mang nhóm Rh(D) âm trong trường hợp đe dọa đến tính mạng người bệnh và có đủ các điều kiện sau:
+ Người bệnh là nam giới
+ Trong trường hợp người bệnh là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ: cân nhắc lợi ích điều trị hiện tại và nguy cơ tai biến cho thai nhi nếu người bệnh mang thai trong tương lai
+ Xét nghiệm hòa hợp miễn dịch sử dụng huyết thanh chống globulin ở nhiệt độ 37oC cho kết quả âm tính
+ Có sự đồng ý bằng văn bản trong kết quả hội chẩn giữa người phụ trách hoặc người được ủy quyền của đơn vị phát máu, bác sĩ điều trị và được sự đồng ý của người bệnh hoặc người nhà của người bệnh [1].
Tỷ lệ giữa các chế phẩm máu
Trong nghiên cứu của Jang-Cun Yang & cs trên 1048 BN được TMKLL ở 20 bệnh viện được chia thành 3 nhóm dựa theo tỷ lệ FFP:pRBC: thấp (<1:2,3), trung bình (1:2,3-0,75) và cao (≥1:0,75). Tỷ lệ tử vong trong 24 giờ ở nhóm trung bình là 9,31% thấp hơn so với nhóm thấp (11,83%) và cao (11,44%) (p=0,477). Tỷ lệ tử vong trong 72 giờ ở nhóm trung bình là 7,25% cũng thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm thấp (10,39%) và cao (13,65%) (p=0,007) [8].
Trong nghiên cứu của Karen & cs năm 2009 trên 466 bệnh nhân chấn thương cần TMKLL, kết luận sự truyền sớm tỉ lệ cao FFP và PLT cải thiện tỉ lệ sống còn và giảm tổng lượng RBC cần truyền. Sự khác biệt lớn về tỉ lệ tử vong xảy ra trong suốt 6 giờ sau nhập viện gợi ý rằng sự truyền sớm FFP và PLT rất quan trọng [10].
[Truyền pRBC:FFP:PLT theo tỷ lệ 1:1:1 tức là truyền theo đơn vị.
pRBC có thể tích trung bình là 310 mL (dao động từ 270 – 350mL).
FFP trung bình là 225mL (từ 200 – 275 mL).
PLT có thể tích là 50mL, 1 pool PLT có 6 đơn vị PLT.
Kết tủa lạnh có thể tích 15mL (từ 10 – 20 mL), chứa 100UI yếu tố VIII và von Willebrand, 150 – 250 mg fibrinogen]
Biến chứng truyền máu khối lượng lớn
Biến chứng cấp
Biến chứng muộn
Phản ứng tán huyết cấp
Phản ứng sốt không do truyền máu
Tổn thương phổi cấp do truyền máu (TRALI)
Quá tải tuần hoàn do truyền máu (TACO)
Phản ứng quá mãn
Nhiễm trùng huyết
Hạ thân nhiệt
Hạ Canxi máu.
Hạ Magne máu
Tăng/hạ Kali máu
Nhiễm toan
Hạ thân nhiệt
Bệnh đông máu do pha loãng
Giảm tiểu cầu do pha loãng
Phản ứng tán huyết muộn
Bệnh mảnh ghép chống chủ (GvHD) sau truyền máu
Bệnh lây truyền do truyền máu
Xuất huyết sau truyền máu
Vòng xoắn trong truyền máu khối lượng lớn
TMKLL có thể dẫn đến tam chứng chí mạng (lethal triad) bao gồm: rối loạn đông máu, hạ thân nhiệt và nhiễm toan chuyển hóa [11].
Rối loạn đông máu
Giảm phản ứng đông máu thường gặp ở bệnh nhân chấn thương và có thể là hậu quả của nhiều yếu tố: rối loạn đông máu do pha loãng (truyền dịch tinh thể và dung dịch cao phân tử) , giảm tiểu cầu và yếu tố đông máu do pha loãng, đông máu rải rác nội mạch (DIC), hạ thân nhiệt, nhiễm toan.
Giảm tiểu cầu do pha loãng
Giảm tiểu cầu là bất thường đông cầm máu phổ biến nhất xảy ra trong và sau truyền máu khối lượng lớn. Dẫn đến chảy máu từ vi mạch như chảy máu từ niêm mạc, vết thương và các vị trí bị đâm thủng. Số lượng tiểu cầu 50 G/L khi chảy máu là đủ cho việc đông máu bình thường với điều kiện chức năng tiểu cầu còn nguyên vẹn.
Giảm yếu tố đông máu do pha loãng
Người trưởng thành có khoảng 10% những protein đông máu giảm khi có mỗi 500mL máu mất được thay thế. Hơn nữa, sự chảy máu chỉ do pha loãng có thể xảy ra khi những protein này giảm 25% của giá trị bình thường.
Đông máu rải rác nội mạch (DIC)
DIC xảy ra ở 5 -30% bệnh nhân chấn thương và có tỷ lệ tử vong cao.
+ Bệnh nhân có tình trạng giảm oxy kéo dài và giảm thể tích máu.
+ Bệnh nhân có tổn thương cơ quan nhiều.
+ Bệnh nhân hạ thân nhiệt sau khi truyền dịch cấp cứu lạnh.
DIC được nghi ngờ ở những bệnh nhân chảy máu rỉ rả ở các mạch máu nhỏ, kéo dài PT và aPTT quá mức hơn so với kéo dài do pha loãng, kết hợp với sự giảm tiểu cầu có ý nghĩa, giảm mức fibrinogen và tăng D-Dimer.
Hạ thân nhiệt
Hạ thân nhiệt làm giảm hoạt động enzym của những protein đông máu huyết tương, nhưng sự ảnh hưởng lớn nhất là ngăn chặn sự hoạt hoá tiểu cầu theo con đường gắn với phức hợp GPIb/IX/V, và có thể giảm đến 50% chức năng tiểu cầu ở nhiệt độ 30º C.
Trong chấn thương, nhiều yếu tố góp phần làm hạ thân nhiệt như truyền dịch lạnh và các chế phẩm máu, mở các khoang cơ thể, giảm sản xuất nhiệt và rối loạn điều hoà nhiệt của thần kinh trung ương.
Hạ thân nhiệt còn làm giảm chuyển hoá citrate, giảm cung cấp oxy cho mô.
Truyền máu có thể làm trầm trọng thêm tình trạng hạ thân nhiệt sẵn có. Vì vậy có thể làm ấm máu khi truyền.
Nhiễm toan
Sự đảo ngược nhiễm toan bằng các tác nhân kiềm (muối bicarbonate) nên dùng ở những bệnh nhân nhiễm toan nặng, và huyết động không ổn định, hoặc rối loạn chức năng thận.
Nhiễm toan làm nặng thêm bệnh lý đông máu do làm giảm hoạt động của những enzym yếu tố đông máu. Ví dụ, giảm pH từ 7,4 xuống 7,0, hoạt động của yếu tố VIIa giảm hơn 90%, phức hợp yếu tố VIIa/yếu tố mô giảm 55%, và phức hợp Xa/Va giảm 70%. Vì vậy ở những trường hợp xuất huyết nặng nên đưa pH ≥ 7.2.
Những bệnh nhân suy chức năng gan cũng sản xuất lactate, vì vậy làm xấu hơn vấn đề này.
Giảm 2,3-DPG (Diphosphorylglycerate)
Oxy được giải phóng bởi hồng cầu được truyền vào giảm hơn so với hồng cầu bình thường do sự lưu trữ làm giảm nồng độ 2,3-DPG.
Hạ Canxi máu
Hạ Canxi máu khi nồng độ Canxi toàn phần < 8,8 mg/dL (2,2 mmol/L) hay nồng độ Canxi ion hoá < 4,7 mg/dl (1,17 mmol/L).
Nguyên nhân: do sự truyền nhanh những chế phẩm máu gây quá tải citrate (mỗi túi hồng cầu lắng chứa xấp xỉ 3mg citrate).
Ở người khoẻ mạnh, gan chuyển hoá 3mg citrate mỗi 5 phút. Truyền máu tốc độ cao hơn 1 đơn vị mỗi 5 phút hay suy chức năng gan có nguy cơ hạ canxi máu.
Trẻ sơ sinh và những bệnh nhân có bệnh lý gan trước đó có nguy cơ hạ Canxi máu. Vì vậy, cần theo dõi nồng độ Canxi ion hoá và điều chỉnh thích hợp.
Triệu chứng của hạ Canxi máu bao gồm tăng tính kích thích thần kinh cơ (như tetany, dấu hiệu Chvostek, dấu hiệu Trousseau hay co thắt phế quản), thay đổi ECG (khoảng QT dài) và co giật…
Hạ Magne máu
Hạ Magne máu khi nồng độ Magne < 1,7 mg/dL (0,7 mmol/L)
Nguyên nhân: do lượng lớn thể tích dịch nghèo Magne và quá tải citrate. Cần theo dõi nồng độ Magne ion hoá và điều chỉnh nếu cần thiết.
Triệu chứng gồm triệu chứng thần kinh cơ (yếu cơ, run cơ, co giật, Nystagmus…) và thay đổi ECG (thay đổi không đặc hiệu sóng T, khoảng QT dài, ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất đơn hình thái, xoắn đỉnh, rung thất)…
Xử trí: Bổ sung Magne đường uống hay đường tĩnh mạch.
Tăng Kali máu
Nguyên nhân: do hồng cầu tán huyết trong quá trình lưu trữ, chiếu xạ hay cả hai.
Trẻ sơ sinh và những bệnh nhân có bệnh tim mạch và thận trước đó có nguy cơ cao tăng Kali máu.
Cần theo dõi Kali máu và điều chỉnh nếu cần thiết.
Hồng cầu tươi (< 5-10 ngày), hồng cầu chiếu xạ < 24 giờ trước truyền hay hồng cầu rửa có thể làm giảm nguy cơ này.
Triệu chứng thường không đặc hiệu như liệt, khó thở, hồi hộp ngực, đau ngực…
Hạ Kali máu
Sự tái hoạt động của bơm ATPase màng hồng cầu làm hấp thu Kali vào lại trong hồng cầu.
Giải phóng aldosterole, ADH và catecholamines.
Nhiễm kiềm chuyển hoá (từ citrate truyền vào chuyển hoá thành bicarbonat).
Truyền các chất dịch nghèo Kali, gồm dịch tinh thể, tiểu cầu, và FFP.
Các phương pháp điều tri khác ngoài chế phẩm máu trong truyền máu khối lượng lớn
Tranexamic acid
Trong nghiên cứu CRASH-2 năm 2010 trên hơn 20.000 bệnh nhân, Tranexamic acid (liều tải 1g trong 10 phút, sau đó truyền 1g quá 8 giờ) đã giảm có ý nghĩa tất cả nguyên nhân tử vong trong 4 tuần sau chấn thương (14,5% vs 16%, p=0,0035), và nguy cơ tử vong do chảy máu (4,9% vs 5,8%, p=00077) [6].
Yếu tố VIIa tái tổ hợp (rFVIIa: activated recombinant factor VII)
rFVIIa không được khuyến cáo dùng thường quy cho những bệnh nhân chấn thương.
Liều ban đầu 90µg/kg. Liều lặp lại cách liều ban đầu khoảng 2 – 3 giờ. Thời gian điều trị và khoảng cách giữa các liều có thể thay đổi tuỳ theo tình trạng lâm sàng và các thủ thuật được thực hiện.
Nghiên cứu của Kenneth & cs kết luận: trong chấn thương đụng dập, truyền pRBC giảm có ý nghĩa với rFVIIa (ước tính giảm 2,6 đơn vị pRBC, p=0,02) và sự cần truyền máu khối lượng lớn cũng giảm (14% vs 33% bệnh nhân, p=0,03) [3].
Điều trị khác
Warfarin: Vitamin K 10mg tiêm tĩnh mạch; PCC (Prothrombin complex concentrate: 75 – 100 U/kg mỗi 8 – 12 giờ, tối đa: 200U/kg/ngày).
Heparin: Protamine 1mg IV mỗi 100U heparin.
Xét nghiệm theo dõi trong truyền máu khối lượng lớn
Huyết học:
+ CTM
+ INR/PT, aPTT, Fibrinogen,
+ TEG, ROTEM (Đo đàn hồi cục máu đồ)
Sinh hóa: Ion đồ, BUN, Creatinin, Ca2+ ion hoá, lactac, Khí máu động mạch…
Không có xét nghiệm đông máu nào đơn độc có khả năng cung cấp thông tin đầy đủ.
Khó có sự tương quan trực tiếp giữa biểu hiện lâm sàng chảy máu và sự kéo dài của INR và aPTT cũng như fibrinogen, là những yếu tố phụ thuộc vào thuốc thử và nhiệt độ. Xét nghiệm đông máu thường thực hiện ở 370C hơn là ở nhiệt độ cơ thể bệnh nhân. Hơn nữa, những xét nghiệm này không phát hiện được một số bất thường cầm máu như rối loạn chức năng tiểu cầu, tiêu sợi huyết quá mức và thiếu yếu tố XIII. Đồng thời chúng cũng không xác định số lượng đóng góp tương đối của các yếu tố tiền đông máu và chống đông.
Một số lưu đồ hướng dẫn trong truyền máu khối lượng lớn
National Blood Authority (2011), “Critical Bleeding/Massive Transfusion”, In: Patient Blood Management Guidelines.
Bouglé et al (2013), Resuscitative strategies in traumatic hemorrhage shock, Annals of Intensive Care, 3:1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Thông tư số 26/2013/TT-BYT ngày 16/09/2013 Hướng dẫn hoạt động truyền máu
Tiếng Anh
1. Adele Visser et al (2011), “Blood product utilisation during massive transfusions: audit and review of literature”, SA orthopeadic Journal, 10(4), pp:2309-8309.
2. Boffard KD et al (2005), “Recombinant Factor VIIa as Adjunctive Therapy for Bleeding Control in Severely Injured Trauma Patients: Two Parellel Randomized, Placebo-Controlled, Double-Blind Clinical Trials”, Journal Trauma, 59(1), pp:8-15.
3. Bouglé et al (2013), “Resuscitative strategies in traumatic hemorrhage shock”, Annals of Intensive Care, 3(1), pp:1-9.
4. Critical practice guideline: RBC transfusion in adult trauma and critical care, Crit Care Med 2009, 37(12)
5. Faraoni D and Van Der Linden P (2014), “A systematic review of antifibrinolytics and massive injury”, Minerva Anestesiol, 80(10), pp:1115-22.
6. Halmin et al (2016), “Epidemiology of Massive Transfusion: A Binational Study From Sweden and Denmark”, Crit Care Med, 44 (3), pp:468-77.
7. Jang -Cun Yang et al (2015), “Balenced ratio of plasma to packed red blood cells improves outcomes in massive transfusion: A large multicenter study”, Experimental and Therapeutics Medicine, 10(1), pp:37-42.
8. John R Hess (2016), “Massive blood transfusion”, from https://www.uptodate.com.
9. Karent et al (2009), “A high ratio of plasma and platelets to packed red blood cells in the first 6 hours of massive transfusion improves outcomes in a large multicenter study”, The American Journal of Surgery, 197(5), pp:565–570.
10. Kristen et al (2009), “Massive Transfusion”, Chest journal, 136(6), pp:1654-1667
11. Mitra et al (2014), “Massive blood transfusions post trauma in the elderly compared to younger patients”, Injury, 45(9), pp:1296-300.
12. Murphy et al (2015), “Massive transfusion red blood cell to plasma and platelet unit ratios for resuscitation of massive hemorrhage”, Current opinion in Hematology, 22(6), pp:533-539.
13. National Blood Authority (2011), “Critical Bleeding/Massive Transfusion”, In: Patient Blood Management Guidelines.
Các Nguy Cơ, Biến Chứng Của Truyền Máu Khối Lượng Lớn
Truyền máu là liệu pháp điều trị hữu hiệu và thường xuyên được chỉ định cho các bệnh nhân thiếu máu ở tất cả các khoa khám bệnh, đặc biệt là bệnh nhân mất máu cấp. Trong một số trường hợp như tai biến sản khoa hay phẫu thuật ngoại khoa thì chỉ định truyền máu số lượng lớn là cần thiết nhưng cũng đem lại những nguy cơ và biến chứng truyền máu nhất định.
Truyền máu khối lượng lớn là sự truyền thể tích máu lớn trong một thời gian ngắn ở bệnh nhân xuất huyết nặng hoặc không kiểm soát được chảy máu. Đối với người lớn, truyền máu khối lượng lớn là khi truyền một lượng máu tương đương với thể tích máu của bệnh nhân trong 24 giờ hoặc truyền hơn hoặc từ 10 đơn vị hồng cầu khối trong 24 giờ. Ngoài ra còn có các định nghĩa như truyền từ 4 đơn vị hồng cầu khối trong 1 giờ và dự đoán cần tiếp tục truyền hoặc truyền thay thế hơn 50 % tổng thể tích máu của bệnh nhân trong 3 giờ
Truyền máu khối lượng lớn mặc dù có thể giúp bệnh nhân vượt qua khỏi giai đoạn nguy kịch nhưng vẫn tiềm tàng nhiều nguy cơ và biến chứng truyền máu nguy hiểm cần phải được xử trí kịp thời.
Nguyên nhân phổ biến nhất của chảy máu sau truyền máu khối lượng lớn là sự giảm thể tích tiểu cầu và các yếu tố đông máu do pha loãng máu. Tuy nhiên không phải sự giảm tiểu cầu luôn xảy ra sau khi thay thế hoàn toàn một thể tích máu mà thường chỉ xảy ra khi thay thế 1,5-2 lần thể tích máu. Chảy máu thường xảy ra do giảm tiểu cầu kết hợp với rối loạn chức năng tiểu cầu do bệnh gan hay đông máu nội mạch rải rác và thiếu yếu tố đông máu. Thiếu yếu tố đông máu sau truyền máu khối lượng lớn là do máu dự trữ ít yếu tố đông máu, rối loạn càng nặng hơn khi có hạ thân nhiệt, toan máu hoặc sốc, nhiễm trùng
Xử trí: Truyền khối tiểu cầu và plasma tươi, plasma tươi đông lạnh
Biến chứng nhiễm độc citrat và hạ canxi
Citrat là một phần quan trọng trong dung dịch bảo quản máu do đó khi truyền máu khối lượng lớn có thể gây ra biến chứng nhiễm độc citrat nhưng không phải do ion citrat mà do citrat gắn với canxi
Canxi khi gắn nhiều với citrat làm giảm đáng kể lượng ion canxi trong máu do đó các biểu hiện của nhiễm độc citrat thực tế chính là triệu chứng của hạ canxi máu gây hạ huyết áp, mạch yếu, áp lực cuối tâm trương trong tâm thất và áp lực tĩnh mạch trung tâm tăng
Xử trí: Truyền tĩnh mạch dung dịch clorua canxi hoặc gluconat canxi (thường dùng clorua canxi hơn vì gluconat canxi sẽ khiến gan phải chuyển hóa gluconat nước
Có thể xảy ra khi truyền lượng máu lớn được bảo quản ở nhiệt độ 4 ± 2 °C hoặc khi thân nhiệt giảm dưới 30 °C có thể gây rung thất và ngừng tim, khi thân nhiệt giảm dưới 35 °C có thể làm tăng nguy cơ rối loạn đông máu.
Đề phòng biến chứng này có thể bằng cách làm ấm máu lên đến nhiệt độ cơ thể trước khi truyền cho bệnh nhân, các thiết bị làm ấm dịch truyền và máu nên được sử dụng kết hợp với các thiết bị làm ấm bệnh nhân
Biến chứng rối loạn thăng bằng acid- base
Nguyên nhân là do pH của hầu hết môi trường chất dự trữ máu rất toàn nên khi đưa dung dịch này vào 1 đơn vị máu tươi vừa rút ra có thể làm pH máu giảm xuống 7-7,1. Sự tích lũy acid lactic và pyruvic bởi sự chuyển hóa hồng cầu và sự thủy phân glucose khiến pH máu tiếp tục giảm đến khoảng 6,9 sau 21 ngày dự trữ
Truyền máu khối lượng lớn có thể gây toan chuyển hóa sớm ngay khi bắt đầu
Xử trí: Điều trị sốc mất máu bằng tăng huyết áp và tưới máu tổ chức có thể điều chỉnh được tình trạng nhiễm toan
Do quá trình bảo quản máu từ ngày 15 trở đi có thể xuất hiện vỡ hồng cầu gây ra giải phóng kali, do đó truyền máu khối lượng lớn có nguy cơ tăng kali máu cho người bệnh
Truyền máu khối lượng lớn có thể gây quá tải tuần hoàn mà nguy hiểm nhất là phù phổi cấp, vì vậy truyền dịch nên được thực hiện dựa vào việc theo dõi lưu lượng nước tiểu và áp lực tĩnh mạch trung tâm
Để tránh các biến chứng truyền máu khối lượng lớn thì việc lựa chọn máu và các sản phẩm máu phù hợp là rất quan trọng và cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Đảm bảo tối ưu về phù hợp nhóm máu hệ ABO và Rh giữa người cho và người nhận và thực hiện chứng nghiệm phù hợp trên từng đơn vị truyền máu
Nhóm máu O có hiệu giá kháng thể thấp có thể sử dụng thay thế trong trường hợp không có máu đồng nhóm
Trường hợp sử dụng máu toàn phần khác nhóm để truyền cho bệnh nhân và không có khối hồng cầu nhóm O thì phải tìm mọi cách đảm bảo nhóm máu đó suốt thời gian cấp cứu cho bệnh nhân
Máu truyền cần đảm bảo ở nhiệt độ 37 độ C bằng các phương tiện ủ ấm máu
Máu sử dụng để truyền khối lượng lớn tốt nhất nên được lưu trữ trong 72 giờ hoặc không quá 5 ngày. Nếu dài ngày hơn cần phối hợp sử dụng huyết tương tươi đông lạnh hoặc phối hợp khối hồng cầu và huyết tương đông lạnh.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia, bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm trong khám điều trị bệnh, người bệnh hoàn toàn có thể yên tâm thăm khám và điều trị tại Bệnh viện.
Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY.
XEM THÊM
Nghiên Cứu Nồng Độ Hemoglobin Tự Do Trong Huyết Tương Của Bệnh Nhân Ngoại Khoa Truyền Máu Khối Lượng Lớn
Hemoglobin là thành phần cấu tạo của hồng cầu (HC), chúng được giải phóng từ sự ly giải của hồng cầu. Trong quá trình bảo quản, khi màng bị tổn thương, HC sẽ biến dạng, vỡ, làm giải phóng Hb vào dung dịch bảo quản. Có tới khoảng 1% HC bị li giải, và ở ngày thứ 35 lượng hemoglobin (Hb) huyết tương tăng từ 2,5 đến 138 mg/dl [3].
Truyền máu khối lượng lớn (TMKLL – Massive Blood Transfusion) hay truyền máu ồ ạt được định nghĩa là truyền thay thế một lượng máu tương đương hoặc lớn hơn thể tích máu cơ thể trong vòng 24 giờ [2, 3,5].
Truyền máu lưu trữ chứa đựng Hb tự do và những hồng cầu dễ vỡ, sẽ làm tăng lượng Hb tự do trong máu bệnh nhân. Trong cơ thể, Hb tự do kết hợp với haptoglobin và phức hợp này sẽ được chuyển hoá ở gan. Tuy nhiên, nếu truyền với khối lượng lớn thì lượng haptoglobin sẽ giảm đến cạn kiệt và hậu quả là Hb tự do sẽ không được vận chuyển và đào thải. Ngoài ra, chấn thương tổ chức lớn cũng có thể gây tan máu, góp phần làm cho Hb tự do tăng lên, ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan nhất là thận. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu:
Tìm hiểu nồng độ hemoglobin tự do trong huyết tương bệnh nhân ngoại khoa sau truyền máu khối lượng lớn.
Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở giúp cho công tác điều trị bệnh nhân.
I.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
– Loại trừ ra khỏi nghiên cứu những bệnh nhân tử vong trong và ngay sau mổ, những bệnh nhân bị bệnh máu (Hemophilia, leucemie, tan máu…), bệnh nhân có biểu hiện rối loạn đông máu (ĐMRRTLM), và suy thận, suy gan trước mổ.
2.Phương pháp nghiên cứu
Mô tả tiến cứu, tự đối chứng.
-Tất cả các bệnh nhân chọn vào nghiên cứu đều được lấy máu làm xét nghiệm tìm hemoglo- bin (Hb) tự do trong huyết tương tại các thời điểm trong và sau khi TMKLL.
-16 bệnh nhân được theo dõi nồng độ Hb tự do huyết tương đọc tại 3 thời điểm: Sau truyền 1500 ml, sau 2000 ml, và sau 3000 ml.
Xét nghiệm thực hiện trên hệ thống máy quang phổ Express Plus ở bước sóng 540 nm, tại bộ môn Hóa sinh, trường ĐHY Hà Nội. Bình thường, Hb tự do huyết tương 10 – 40 mg/l [4].
Trên chương trình SPSS, sử dụng test t – Student để so sánh giá trị của một số chỉ số nghiên cứu giữa các thời điểm, xác định mối tương quan giữa 2 đặc tính định lượng bằng hệ số tương quan r (p < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê; rx/y= 0: không có tương quan; – 1 < r < 0: tương quan nghịch; 0 < r < 1 tương quan thuận).
Khối Lượng(Khối Lượng Quán Tính,Khối Lượng Hấp Dẫn) (Vật Lý)
Khối lượng vừa là một đặc tính của cơ thể vật lý vừa là thước đo khả năng chống lại Trong vật lý Newton, khối lượng có thể được khái quát như lượng vật chất trong một vật thể. Tuy nhiên, ở tốc độ rất cao, thuyết tương đối đặc biệt nói rằng động năng của chuyển động của nó trở thành một nguồn khối lượng bổ sung đáng kể. Do đó, bất kỳ vật thể đứng yên nào có khối lượng đều có một năng lượng tương đương, và tất cả các dạng năng lượng đều chống lại gia tốc bằng một lực và có lực hấp dẫn. Trong vật lý hiện đại, vật chất không phải là một khái niệm cơ bản vì định nghĩa của nó đã được chứng minh là khó nắm bắt.
vừa là một đặc tính của cơ thể vật lý vừa là thước đo khả năng chống lại gia tốc của nó (sự thay đổi trạng thái chuyển động của nó) khi một lực ròng được áp dụng. Nó cũng xác định sức mạnh của lực hấp dẫn lẫn nhau của nó đối với các cơ thể khác. Đơn vị khối lượng SI cơ bản là kilôgam (kg). Trong vật lý, khối lượng không giống như trọng lượng, mặc dù khối lượng thường được xác định bằng cách đo trọng lượng của vật bằng thang đo lò xo, thay vì cân bằng so sánh trực tiếp với khối lượng đã biết. Một vật thể trên Mặt trăng sẽ nặng hơn Trái đất vì trọng lực thấp hơn, nhưng nó vẫn có cùng khối lượng. Điều này là do trọng lượng là một lực, trong khi khối lượng là tài sản (cùng với trọng lực) quyết định sức mạnh của lực này.Trong vật lý Newton, khối lượng có thể được khái quát như lượng vật chất trong một vật thể. Tuy nhiên, ở tốc độ rất cao, thuyết tương đối đặc biệt nói rằng động năng của chuyển động của nó trở thành một nguồn khối lượng bổ sung đáng kể. Do đó, bất kỳ vật thể đứng yên nào có khối lượng đều có một năng lượng tương đương, và tất cả các dạng năng lượng đều chống lại gia tốc bằng một lực và có lực hấp dẫn. Trong vật lý hiện đại, vật chất không phải là một khái niệm cơ bản vì định nghĩa của nó đã được chứng minh là khó nắm bắt.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Truyền Máu Khối Lượng Lớn trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!