Cập nhật nội dung chi tiết về Truyền Thuyết Là Gì? I.khái Niệm Về Truyền Thuyết : 1.Khái Niệm :… mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Truyền thuyết là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
2.Phân biệt truyền thuyết với thần thoại và cổ tích : a. Truyền thuyết và thần thoại :
Tiêu chí nhân vật chính:
Nhân vật chính trong thần thoại là thần hoặc bán thần. Nhân vật chính trong truyền thuyết giàu nhân tính hơn.
Tiêu chí nội dung:
Thần thoại nêu lên khát vọng hiểu biết, khám phá những hiện tượng của vũ thụ, loài người mang tính suy nguyên. Truyền thuyết thuyết tập trung vào những vấn đề xã hội.
Thời kỳ ra đời:
Thần thoại ra đời từ thời nguyên thủy. Truyền thuyết ra đời ở xã hội giai đọan sau.
b.Truyền thuyết và cổ tích Về cốt truyện và nhân vật:
Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện và nhân vật cổ tích là tính hư cấu, tưởng tượng. Cốt truyện và nhân vật truyền thuyết có xu hướng bám sát lịch sử.
Về nội dung:
Truyện cổ tích phản ánh những xung đột trong gia đình và xã hội, đặc biệt là trong gia đình phụ quyền và xã hội phong kiến. Truyền thuyết hướng về đề tài lịch sử, nhân vật lịch sử.
Về kết thúc truyện:
Truyện cổ tích kết thúc có hậu hoặc không có hậu , nhân vật chính mãi mãi hạnh phúc hoặc trở thành biểu tượng của nhân phẩm. Truyền thuyết thường kết thúc mở, nhân vật vẫn tồn tại và sẽ tham gia vào những sự kiện mới của lịch sử.
3.Phân kỳ truyền thuyết :
Cơ sở để phân kỳ truyền thuyết : Dựa vào sự phân kỳ lịch sử xã hội và đặc điểm nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết. Cần chú ý phân biệt truyền thuyết về một thời kỳ và truyền thuyết của một thời kỳ. Việc xác định truyền thuyết về một thời kỳ có thể dựa vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyền thuyết. Muốn biết truyền thuyết của một thời kỳ nào cần phải biết thời điểm ra đời của tác phẩm. Ðiều nầy là rất khó đối với chúng ta ngày nay.
Truyền thuyết Việt Nam gồm các thời kỳ sau : Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang, truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc, truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ, truyền thuyết về thời kỳ Pháp thuộc.
II.NỘI DUNG TRUYỀN THUYẾT :1.Truyền thuyết về họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang :
Họ Hồng Bàng mở đầu thời kỳ lập quốc của dân tộc ta kéo daì 2622 năm (2879tcn-258tcn) , từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân và các đời Hùng Vương. Theo Ðaị Việt sử ký toàn thưcủa sử thần Ngô Sĩ Liên, cho đến thời vua Hùng cương vực nước Văn Lang traỉ rộng , phía đông giáp Nam Haỉ, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Ðộng Ðình, phía nam giáp nước Hồ Tôn ( nước Chiêm Thành).
Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng là hệ thống truyền thuyết mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các nhân vật Vua Hùng, Sơn Tinh ( Thần Tản Viên) Phù Ðổng Thiên Vương là những biểu tượng của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ đang lớn mạnh Hình tượng Lạc Long Quân-Âu Cơ có ý nghĩa khái quát hoá cho công cuộc chinh phục tự nhiên mở mang bờ coĩ của người Văn Lang.
Những truyền thuyết tiêu biểu trong chuỗi truyền thuyết về thời các vua Hùng : Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.
2.Truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc :
Nhân vật Hùng Vương không phải là nhân vật chính của từng truyện riêng nhưng lại là nhân vật nổi bật trong hệ thống truyện. Vua Hùng ( Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám, Hùng Vương nói chung) là người đứng đầu quốc gia,vị vua có uy tín với con người, tiếp cận với thần linh, là biểu trưng của sức mạnh và tinh thần Văn Lang.
Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257tcn-208tcn) .Sở dĩ ta gắn thời kỳ Âu Lạc vào thời Bắc thuộc vì lịch sử Âu Lạc cũng như truyền thuyết An Dương Vương mang tính chất bi hùng. Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ(207tcn-938) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu dành độc lập của dân tộc ta.Trong hơn một ngàn năm bị nô lệ, dân tộc ta đã không bị đồng hoá hay bị diệt vong như nhiều dân tộc trên thế giới, đó là điều hết sức phi thường.
Truyền thuyết thời kỳ này đã phản ánh và chứng minh được sức sống và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Nhờ có sức sống mãnh liệt và bản lĩnh cao, dân tộc ta đã vượt qua thời kỳ bị uy hiếp và thử thách gay go, lâu dài.
Truyền thuyết phản ánh cả lịch sử chiến thắng và lịch sử chiến bại của dân tộc. Nhiều truyền thuyết thời kỳ nầy mà trong đó truyện An Dương Vương là tiêu biểu, có kết cấu hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại.
3.Truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ :
Truyền thuyết phản ánh được tất cả các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc Thuộc (Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí …).
Truyền thuyết thời kỳ này cho thấy tác giả dân gian nhận thức được dân tộc, nhận thức được bản chất kẻ thù ( chẳng hạn như bản chất tàn bạo, âm mưu thâm độc của các tên quan đô hộ như Tô Ðịnh, Mã Viện, Cao Biền…)ì và ngày càng đi sát lịch sử hơn (Bám sát lịch sử về nội dung cũng như hình thức biểu hiện : tên người, sự kiện …). Yếu tố thần kỳ tuy có giảm so truyền thuyết giai đoạn trước nhưng vẫn còn khá đậm đặc trong truyền thuyết giai đoạn nầy( An Dương Vương được Rùa Vàng giúp trừ ma quỷ ở núi Thất Diệu…,Hai Bà Trưng bay lên trời…)
Về phương diện lịch sử, thời kỳ phong kiến tự chủ từ TK X đến TKXIX có những nét lớn như sau:
Từ TK.X đến chúng tôi giai cấp phong kiến Việt Nam xây dưng một quốc gia thống nhất,gìn giữ, củng cố nền độc lập dân tộc.
Từ TK. XVI đến TKXIX: sự suy sụp của các triều đại phong kiến và cuối cùng đi đến tan rã quốc gia phong kiến trước thế lực phương Tây.
Trong suốt chặng daì lịch sử nêu trên, dân tộc ta đã làm nên những chiến tích: nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên-Mông, Lê Lợi quét sạch quân Minh ra khỏi cõi, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh ở phía Bắc và quân Xiêm ở phía Nam. Bên cạnh đó còn phải kể đến các cuộc nội chiến giữa những tập đoàn phong kiến và các phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình.
Truyền thuyết thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây: Truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm ( Truyền thuyết về Yết Kiêu, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi…),truyền thuyết về danh nhân văn hóa (Truyền thuyết về Chu Văn An, Trạng Trình…),truyền thuyết về lịch sử địa danh ( Sự tích Hồ Gươm, Sự tích núi Ngũ Hành…),truyền thuyết về anh hùng nông dân (Truyền thuyết về Chàng Lía, Quận He, Ba Vành…)
4.Ý nghĩa của truyền thuyết :
So với truyền thuyết thời kỳ trước, yếu tố hoang đường kỳ diệu trong truyền thuyết thời kỳ nầy giảm đi một mức đáng kể. Ðặc biệt, có những truyền thuyết về anh hùng nông dân không có yếu tố thần kỳ(Truyền thuyết về Hầu Tạo, Chàng Lía, Lê Văn Khôi…).
Hai nhóm truyền thuyết nổi bật của thời kỳ này là: truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm và truyền thuyết về anh hùng nông dân. Nhân vật anh hùng có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc, giàu lòng thương yêu nhân dân. Ðây là những nhân vật có tài năng phi thường, mang vẻ kỳ vĩ, siêu nhiên.
Về mặt lịch sư:Truyền thuyết là cơ sở cho các nhà sử học tham khảo về các giai đoạn lịch sử dân tộc.
III.MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỀN THUYẾT : 1.Cốt truyện và nhân vật:
Về mặt ý thức xã hộiTruyền thuyết giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.
Về mặt văn học nghệ thuật: Truyền thuyết là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nhà thơ sáng tác.
Truyền thuyết không có kiểu cốt truyện hay như cổ tích. Cốt truyện thường gồm ba phần: hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính, sự nghiệp của nhân vật, chung cục thân thế của nhân vật.
2.Lời kể trong truyền thuyết:
Nhân vật trong truyền thuyết là nhân vật lịch sử được tái tạo. Tác giả dân gian hư cấu, sáng tạo trên nền lịch sử (thường là lý tưởng hóa những sự kiện, con người mà họ ca ngợi)
Nhân vật trong truyền thuyết cũng là hành động của nó như trong cổ tích và có số phận không thể đảo ngược so với sự thật lịch sử. Nhân vật chính có thể là nhân vật trung tâm của một truyện hoặc một chuỗi truyện.
Nhìn chung, lời kể trong truyền thuyết Việt Nam chưa có giá trị nghệ thuật cao như trong cổ tích và sử thi. Lời kể của một số truyền thuyết rút ra từ thần tích không còn giữ được chất dân gian.
Phần thực hành : (Bài tập dành cho sinh viên)
Phân tích một truyền thuyết (An Dương Vương, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Sự tích Hồ Gươm …).
Khái Niệm Về Truyền Thuyết St
– Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có vô vàn những tác phẩm có giá trị văn hóa, truyền thống, lịch sử sâu sắc, đó là những truyền thuyết, những câu chuyện cổ, những câu ca dao được lưu truyền từ đời này qua đời khác như một thứ tài sản tinh thần vô giá.
–Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinhlà một trong những truyền thuyết có xuất xứ lâu đời nhất, thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm.
– Cuộc chiến của hai vị thần:
+ Thủy Tinh hô mưa gọi gió làm ngập lụt khắp nơi, dân chúng lầm than
+ Sơn Tinh dời núi, bốc đồi, đắp thành lũy ngăn nước, nước dâng cao bao nhiêu Sơn Tinh nâng núi cao bấy nhiêu.
– Hàng năm vẫn gây thiên tai, bão lũ để đánh Sơn Tinh, nhưng không được mấy thắng lại thua cuộc bỏ về.
3. Kết bài
– Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ly kỳ hấp dẫn, có nhiều yếu tố kỳ ảo.
– Hình tượng hóa nhân vật, đại diện cho sức mạnh con người và thiên nhiên
– Khao khát, niềm tin chế ngự và chiến thắng thiên nhiên của nhân dân ta.
TOP 2 BÀI VĂN HAY PHÂN TÍCH TRUYỀN THUYẾT SƠN TINH, THỦY TINHPHÂN TÍCH TRUYỀN THUYẾT SƠN TINH, THỦY TINH -MẪU SỐ 1:
Truyền thuyết Việt Nam là bức tranh đẹp đẽ về đời sống, về trí tưởng tượng tài hoa của ông cha xưa. Trong kho tàng ấy có biết bao câu chuyện làm say đắm các thế hệ người nghe, người đọc và một trong những tác phẩm đó là truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh. Tác phẩm là một thần thoại cổ đã được lịch sử hóa khi gắn với thời đại Hùng Vương và trở thành truyền thuyết trong thời đại các vua Hùng.
Tác phẩm tập trung thể hiện hai nội dung chính: cuộc giao tranh của Sơn Tinh và Thủy Tinh để giải thích hiện tượng mưa bão hàng năm và sự việc Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh phản ánh khát vọng chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta.
Câu chuyện được bắt đầu bằng việc vua Hùng kén rể cho người con gái yêu của mình là nàng Mị Nương. Trong vô vàn những người kiệt xuất, ưu tú thì Sơn Tinh và Thủy Tinh là hai chàng trai xuất sắc nhất. Sơn Tinh là thần núi Tản Viên, có nhiều phép lạ “vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi”, Thủy Tinh cũng không hề kém cạnh, chàng là chúa vùng nước thẳm cũng có những tài năng kì lạ “gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về”. Quả thực tài năng hai người ngang tài ngang sức nhau, trước tình thế đó vua Hùng không biết lựa chọn ai, bèn đưa ra sính lễ: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”, ai mang đến sớm vua Hùng sẽ gả con gái yêu của mình cho người đó. Nhìn vào số đồ sính lễ này ta có thể dễ dàng nhận ra ưu thế đang nghiêng về chàng Sơn Tinh, và bất lợi đang nghiêng về phía chàng Thủy Tinh, đồ sính lễ đều thuộc địa phận cai quản của Sơn Tinh. Và kết quả Sơn Tinh mang sính lễ đến trước và rước được Mị Nương về.
Thủy Tinh vô cùng giận dữ đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh, cuộc giao tranh diễn ra vô cùng quyết liệt. Thần nước “hô mưa gọi gió, làm thành dông bão, rung chuyển cả đất trời” nước mỗi ngày một dâng cao nhằm đánh bại Sơn Tinh. Nhưng trước sự hung hãn của Thủy Tinh, Thần núi vẫn không hề nao núng, Sơn Tinh “bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ”. Cuối cùng Thủy Tinh yếu thế đành phải rút lui. Cuộc giao tranh giữa hai vị thần không đơn thuần là cuộc giao tranh để đòi lại người đẹp (Mị Nương) mà nó còn phản ánh sức mạnh của dân tộc ta trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, bão lụt. Thủy Tinh đại diện cho sức mạnh của thiên nhiên hung bạo, Sơn Tinh đại diện cho sức mạnh quật cường của dân tộc Việt. Trước những thiên tai bão lũ dân tộc ta không chịu lùi bước, luôn kiên cường chống đỡ. Đồng thời bằng trí tưởng tượng của mình, các tác giả dân gian còn dùng cuộc đấu tranh giữa hai vị thần về hiện tượng mưa bão, lũ lụt hàng năm.
Tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm ta không thể không kể đến sự góp công của các yếu tố nghệ thuật. Trước hết là việc xây dựng cốt truyện với tình huống truyện gay cấn, sự kiện sinh động. Không chỉ vậy, xây dựng các nhân vật với tài năng phi thường, các yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Ngoài ra còn phải kể đến sự kết hợp hài hòa giữa các yêu tố tưởng tượng kì ảo với yếu tố hiện thực lịch sử. Tất cả các yếu tố đó đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm này.
Sơn Tinh, Thủy Tinh là một truyền thuyết lí thú trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Truyện vừa thể hiện cách giải thích của nhân dân ta về hiện tượng mưa bão hàng năm nhưng đồng thời cũng phản ánh sức mạnh, mơ ước chế ngự thiên tai, bảo vệ và xây dựng cuộc sống của nhân dân ta.
PHÂN TÍCH TRUYỀN THUYẾT SƠN TINH, THỦY TINH -MẪU SỐ 2:
Vua Hùng thứ XVIII có nàng công chúa tên là Mị Nương, mình ngọc, mặt hoa, đẹp tuyệt trần. Vua cha muốn kén được một chàng rể tài giỏi, nhưng chưa có một chàng trai nào thật xứng đáng.
Một hôm, cùng một lúc, bỗng có hai vị thần cùng xuất hiện tại cung điện và xin cầu hôn. Một người tự xưng là Sơn Tinh có tài dời non lấp bể, dựng núi xây đồi. Một người tự xưng là Thuỷ Tinh có phép lạ như dâng nước, hô mây, gọi gió, nổi sóng, gây mưa… Vua Hùng băn khoăn ngẫm nghĩ, rồi phán: Cả hai thẩn rất tài giỏi, thật vừa ý ta. Nhưng… ta chỉ có một ái nữ, biết gả cho thần nào? Thôi thì ngày mai, hễ ai đem sính lễ đến trước, ta khắc cho làm rể và cưới con gái ta….
Mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đến trước mang theo voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi, kèm theo một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng… Vua Hùng vui vẻ nhận lời, rồi cho phép Sơn Tinh làm lễ cưới, rước Mị Nương về núi.
Thuỷ Tinh chậm chân đến sau, không lấy được Mị Nương, đùng đùng nổi giận. Thần lập tức hô mưa, gọi gió, giông bão mịt mù, dâng nước lên đánh Sơn Tinh, quyết dành lại người đẹp. Cả một vùng Phong Châu rộng lớn chìm trong biển nước. Thuỷ Tinh dâng nước lên cao hao nhiêu thì Sơn Tinh lại hoá phép nâng núi lên cao bấy nhiêu. Hai bên kịch chiến suốt ngày đêm. Núi Tản Viên, sông Đà trở thành bãi chiến trường ác liệt, cây đổ, đất đá ngổn ngang, xác ba ba, thuồng luồng, rắn rết bị giết chết nổi đầy sông. Đánh mãi không được, Thuỷ Tinh hậm hực rút quân về.
Từ đó, Thuỷ Tinh ôm mối hận thù khôn nguôi. Năm nào cũng vậy, cứ đến tháng 7 tháng 8 ta, Thuỷ Tinh lại đem quân đánh Sơn Tinh để rửa hận, gây ra cảnh mưa gió, bão lụt khắp nơi…
Truyện Sơn Tinh – Thuỷ Tinh mượn chuyện hai thần tranh giành người đẹp để giải thích hiện tượng giông bão, lũ lụt hàng năm xảy ra trên vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc nước ta. Sơn Tinh đã đánh thắng Thuỷ Tinh. Điều đó nói lên ước mơ và khát vọng của người Việt cổ xưa muôn có sức mạnh thần kì, vô địch đế đẩy lùi và chế ngự thiên tai lũ lụt, để bảo vệ và phát triển nghề trồng lúa nước lâu đời.
Hình tượng Sơn Tinh hoá phép nâng núi lên cao, lên cao mãi để chiến thắng Thuỷ Tinh là một trong những hình ảnh thần kì tráng lệ trong truyện cổ dân gian Việt Nam.
***
Thể Loại Truyền Thuyết: Khái Niệm, Đặc Trưng, Phân Loại
Truyền thuyết là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
2. Phân biệt truyền thuyết với thần thoại và cổ tích :
a. Truyền thuyết và thần thoại :
Nhân vật chính trong thần thoại là thần hoặc bán thần. Nhân vật chính trong truyền thuyết giàu nhân tính hơn.
Thần thoại nêu lên khát vọng hiểu biết, khám phá những hiện tượng của vũ thụ, loài người mang tính suy nguyên. Truyền thuyết thuyết tập trung vào những vấn đề xã hội.
Thần thoại ra đời từ thời nguyên thủy. Truyền thuyết ra đời ở xã hội giai đọan sau.
b. Truyền thuyết và cổ tích
Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện và nhân vật cổ tích là tính hư cấu, tưởng tượng. Cốt truyện và nhân vật truyền thuyết có xu hướng bám sát lịch sử.
Truyện cổ tích phản ánh những xung đột trong gia đình và xã hội, đặc biệt là trong gia đình phụ quyền và xã hội phong kiến. Truyền thuyết hướng về đề tài lịch sử, nhân vật lịch sử.
Truyện cổ tích kết thúc có hậu hoặc không có hậu , nhân vật chính mãi mãi hạnh phúc hoặc trở thành biểu tượng của nhân phẩm. Truyền thuyết thường kết thúc mở, nhân vật vẫn tồn tại và sẽ tham gia vào những sự kiện mới của lịch sử.
a. Cơ sở để phân kỳ truyền thuyết:
– Dựa vào sự phân kỳ lịch sử xã hội và đặc điểm nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết. Cần chú ý phân biệt truyền thuyết về một thời kỳ và truyền thuyết của một thời kỳ.
– Việc xác định truyền thuyết về một thời kỳ có thể dựa vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyền thuyết. Muốn biết truyền thuyết của một thời kỳ nào cần phải biết thời điểm ra đời của tác phẩm. Ðiều nầy là rất khó đối với chúng ta ngày nay.
b. Truyền thuyết Việt Nam gồm các thời kỳ sau:
+ Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang.
+ Truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc.
+ Truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ
+ Truyền thuyết về thời kỳ Pháp thuộc.
II. NỘI DUNG TRUYỀN THUYẾT :
1. Truyền thuyết về họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang :
– Họ Hồng Bàng mở đầu thời kỳ lập quốc của dân tộc ta kéo dài 2622 năm (2879 TCN – 258 TCN), từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân và các đời Hùng Vương. Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên, cho đến thời vua Hùng cương vực nước Văn Lang trảỉ rộng, phía đông giáp Nam Haỉ, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Ðộng Ðình, phía nam giáp nước Hồ Tôn (nước Chiêm Thành).
– Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng là hệ thống truyền thuyết mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các nhân vật Vua Hùng, Sơn Tinh (Thần Tản Viên) Phù Ðổng Thiên Vương là những biểu tượng của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ đang lớn mạnh Hình tượng Lạc Long Quân – Âu Cơ có ý nghĩa khái quát hoá cho công cuộc chinh phục tự nhiên mở mang bờ coĩ của người Văn Lang.
– Những truyền thuyết tiêu biểu trong chuỗi truyền thuyết về thời các vua Hùng: Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.
– Nhân vật Hùng Vương không phải là nhân vật chính của từng truyện riêng nhưng lại là nhân vật nổi bật trong hệ thống truyện. Vua Hùng (Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám, Hùng Vương nói chung) là người đứng đầu quốc gia, vị vua có uy tín với con người, tiếp cận với thần linh, là biểu trưng của sức mạnh và tinh thần Văn Lang.
2. Truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc:
– Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257 TCN – 208 TCN). Sở dĩ ta gắn thời kỳ Âu Lạc vào thời Bắc thuộc vì lịch sử Âu Lạc cũng như truyền thuyết An Dương Vương mang tính chất bi hùng. Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ (207 TCN – 938 SCN) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu giành độc lập của dân tộc ta. Trong hơn một ngàn năm bị nô lệ, dân tộc ta đã không bị đồng hoá hay bị diệt vong như nhiều dân tộc trên thế giới, đó là điều hết sức phi thường.
– Truyền thuyết thời kỳ này đã phản ánh và chứng minh được sức sống và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Nhờ có sức sống mãnh liệt và bản lĩnh cao, dân tộc ta đã vượt qua thời kỳ bị uy hiếp và thử thách gay go, lâu dài.
3. Truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ :
– Về phương diện lịch sử, thời kỳ phong kiến tự chủ từ TK X đến TKXIX có những nét lớn như sau:
+ Từ TK X đến TK XV: giai cấp phong kiến Việt Nam xây dưng một quốc gia thống nhất,gìn giữ, củng cố nền độc lập dân tộc.
+ Từ TK. XVI đến TK XIX: sự suy sụp của các triều đại phong kiến và cuối cùng đi đến tan rã quốc gia phong kiến trước thế lực phương Tây.
– Truyền thuyết thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây: Truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm (Truyền thuyết về Yết Kiêu, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi…), truyền thuyết về danh nhân văn hóa (Truyền thuyết về Chu Văn An, Trạng Trình…), truyền thuyết về lịch sử địa danh (Sự tích Hồ Gươm, Sự tích núi Ngũ Hành…), truyền thuyết về anh hùng nông dân (Truyền thuyết về Chàng Lía, Quận He, Ba Vành…)
4. Ý nghĩa của truyền thuyết :
– Về mặt lịch sử: Truyền thuyết là cơ sở cho các nhà sử học tham khảo về các giai đoạn lịch sử dân tộc.
III. MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỀN THUYẾT
– Truyền thuyết không có kiểu cốt truyện hay như cổ tích. Cốt truyện thường gồm ba phần: hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính, sự nghiệp của nhân vật, chung cục thân thế của nhân vật.
– Nhân vật trong truyền thuyết là nhân vật lịch sử được tái tạo. Tác giả dân gian hư cấu, sáng tạo trên nền lịch sử (thường là lý tưởng hóa những sự kiện, con người mà họ ca ngợi)
– Nhân vật trong truyền thuyết cũng là hành động của nó như trong cổ tích và có số phận không thể đảo ngược so với sự thật lịch sử. Nhân vật chính có thể là nhân vật trung tâm của một truyện hoặc một chuỗi truyện.
2. Lời kể trong truyền thuyết:
Nhìn chung, lời kể trong truyền thuyết Việt Nam chưa có giá trị nghệ thuật cao như trong cổ tích và sử thi. Lời kể của một số truyền thuyết rút ra từ thần tích không còn giữ được chất dân gian.
Lý Thuyết Các Khái Niệm Cơ Bản Trong Di Truyền Sinh 12
Tính trạng là một đặc điểm về hình thái, cấu tạo, sinh lí … của cơ thể.
Tính trạng trội là tính trạng biểu hiện khi có kiểu gen ở dạng đồng hợp tử trội hoặc dị hợp tử.
Tính trạng lặn là tính trạng chỉ xuất hiện khi kiểu gen ở trạng thái đồng hợp lặn.
Cặp tính trạng tương phản: hai hay nhiều trạng thái khác nhau của cùng một tính trạng.
Dòng thuần: đặc điểm di truyền đồng nhất (kiểu gen và kiều hình) thế hệ sau không phân li kiểu hình.
Gen trội/lặn:
Gen trội: trường hợp dị hợp tử, alen (hay gen) này thể hiện ra bên ngoài. Trong biểu đồ gen, những gen trội đều được thể hiện bằng chữ hoa.
Gen lặn: trường hợp dị hợp tử, alen (hay gen) này bị lấn át và không thể hiện ra bên ngoài. Trong biểu đồ gen, những gen lặn đều được thể hiện bằng chữ thường.
Thể đồng hợp là cơ thể có kiểu gen chứa cặp gen gồm 2 gen tương ứng giống nhau (AA, aa, BB…).
Thể dị hợp là cơ thể có kiểu gen chứa cặp gen gồm 2 gen tương ứng khác nhau (Aa, Bb…).
Alen là các trạng thái khác nhau của cùng một gen cùng quy định một tính trạng (A, a, B, b…).
: các trạng thái khác nhau của cùng 1 gen tồn tại trên 1 vị trí nhất định (locut) của cặp NST tương đồng có thể giống hoặc khác nhau về số lượng, thành phần, trình tự phân bố các nuclêôtit.
Gen không alen : là các trạng thái khác nhau của các cặp gen không tương ứng tồn tại trên các NST không tương đồng hoặc nằm trên cùng 1 NST thuộc 1 nhóm liên kết.
Gen đa alen: gen có nhiều hơn 2 alen.
Đồng trội: Hai alen có vai trò ngang nhau → thể dị hợp xuất hiện kiểu hình mới khác với kiểu gen đồng hợp ( : Nhóm máu do 3 alen A , O, B quy định, trong đó A, B đồng trội và trội hoàn toàn so với O: AA, và AO → quy định nhóm máu A; BB và BO quy định nhóm máu B; AB quy định nhóm máu AB; OO quy định nhóm máu O).
: Giao tử là tế bào sinh dục có chứa bộ nhiễm sắc thể đơn bội (n) được hình thành từ quá trình giảm phân của tế bào sinh giao tử (2n) có khả năng thụ tinh tạo ra hợp tử.
– Có 2 loại giao tử: giao tử đực còn được gọi là tinh trùng và giao tử cái còn được gọi là trứng
Giao tử thuần khiết: là hiện tượng khi phát sinh giao tử, mỗi giao tử chỉ chứa một nhân tố di truyền trong cặp nhân tố di truyền tương ứng và chỉ một mà thôi.
là tổ hợp toàn bộ các gen trong tế bào của cơ thể thuộc 1 loài sinh vật.
: là tập hợp toàn bộ các tính trạng của cơ thể. Kiểu hình thay đổi theo giai đoạn phát triển va` điều kiện của môi trường. Trong thực tế khi đề cập tới kiểu hình người ta chỉ quan tâm tới 1 hay một số tính trạng.
Biến dị tổ hợp : Là những biến dị xuất hiện do sự tổ hợp lại vật chất di truyền ở bố và mẹ dẫn tới sự tổ hợp lại các tính trạng đã có ở bố mẹ hoặc làm xuất hiện tính trạng mới.
Lai phân tích: là phép lai giữa cá thể mang tính trạng trội với cá thể mang tính trạng lặn để xác định kiểu gen của các thể mang tính trạng trội (đồng hợp hay dị hợp).
Nếu cá thể trội mang kiểu gen đồng hợp → con lai đồng tính
Nếu cá thể trội mang kiểu gen dị hợp → con lai phân tính
Lai thuận nghịch là phép lai thay đổi vị trí của bố mẹ (khi thì dùng dạng này làm bố, khi lại dùng dạng đó làm mẹ) để xác định vị trí của gen quy định tính trạng trong tế bào.
Lai thuận giống lai nghịch → gen nằm trên NST thường
Lai thuận khác lai nghịch, phân li tính trạng không xuất hiện đều ở hai giới → gen nằm trên NST giới tính.
Lai thuận khác lai nghịch, đời con có kiểu hình giống cơ thể mẹ → gen ngoài nhân (ty thể, lạp thể, plasmid).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Truyền Thuyết Là Gì? I.khái Niệm Về Truyền Thuyết : 1.Khái Niệm :… trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!