Cập nhật nội dung chi tiết về Vật Lí Lượng Tử Tốc Hành (Phần 5) mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Vật lí Lượng tử Tốc hành (Phần 5)
Thảm họa miền tử ngoại
Vào cuối thế kỉ 19, các nhà vật lí nghiên cứu hành trạng của “vật đen” ở những nhiệt độ khác nhau cảm thấy họ phải đối mặt trước một vấn đề: các mô hình của họ về mối liên hệ giữa nhiệt độ của một vật đen và sự phân bố bức xạ phát ra từ bề mặt của nó không còn đúng ở những bước sóng tử ngoại. Vấn đề này về sau được gọi là “thảm họa miền tử ngoại”.
Tìm cách giải quyết vấn đề trên, vào khoảng năm 1900 nhà vật lí Đức Max Planck tìm thấy hai liên hệ tách biệt mô tả những phần khác nhau của phân bố năng lượng đó. Một gần đúng được Wilhelm Wien rút ra vào năm 1896 mô tả chính xác bức xạ vật đen ở nhiệt độ cao, còn định luật Rayleigh-Jeans (rút ra vào năm 1900) cho biết ở đầu nhiệt độ thấp của quang phổ, năng lượng phát ra bởi một vật đen tỉ lệ với nhiệt độ chia cho bước sóng lũy thừa bốn. Lúc này Planck đối mặt trước thử thách phải dung hòa hai mối liên hệ độc lập biểu kiến này.
Lượng tử
Đối mặt trước vấn đề giải thích bức xạ vật đen ở nhiệt độ cao, cuối cùng Max Planck phát hiện ông có thể giải thích phân bố thực của bức xạ nếu ông giả sử rằng năng lượng không được giải phóng theo những lượng liên tục, mà thay vậy nó được phát ra theo những xung rời rạc hay những gói năng lượng mà ông gọi là lượng tử.
Planck nhận thấy có một mối liên hệ giữa năng lượng và tần số của bức xạ vật đen, được xác định bởi phương trình đơn giản bên dưới. Ở đây, E là năng lượng, f là tần số và h là một hằng số tỉ lệ ngày nay gọi là hằng số Planck (với giá trị 6,626 ´ 10-34 Js). Planck giả sử rằng sự lượng tử hóa của ánh sáng bằng cách nào đó là một hệ quả của cách các hạt trong một vật đen dao động. Tuy nhiên, mãi đến năm 1905 Albert Einstein mới thông qua ý tưởng lượng tử hóa, ông cho rằng bức xạ về cơ bản được phân chia thành những gói lượng tử hóa gọi là photon. Khám phá của Planck và của Einstein cùng nhau đánh dấu sự ra đời của vật lí lượng tử.
Nếu thấy thích, hãy Đăng kí để nhận bài viết mới qua email
Vật Lí Học Và Phương Pháp Khoa Học Vật Lí
Nếu bạn thả rơi chiếc giày của bạn và một đồng tiền sát bên nhau, chúng sẽ chạm đất cùng một lúc. Tại sao chiếc giày không rơi xuống trước, vì lực hấp dẫn hút nó mạnh hơn mà ? Làm thế nào thủy tinh thể của mắt bạn hoạt động được, và tác dụng cơ mắt của bạn phải nén thủy tinh thể của nó thành những hình dạng khác nhau để hội tụ các vật ở gần hay ở xa ? Đây là những loại câu hỏi mà các nhà vật lí đã cố gắng trả lời về hành vi của ánh sáng và vật chất, hai thứ cấu thành nên vũ trụ.
(1) Khoa học là một chu trình của lí thuyết và thực nghiệm. Các lí thuyết khoa học được đưa ra để giải thích kết quả thí nghiệm tạo ra dưới những điều kiện nhất định. Một lí thuyết thành công cũng sẽ đưa ra những tiên đoán mới về những thí nghiệm mới dưới những điều kiện mới. Tuy vậy, cuối cùng, điều luôn xảy ra là một thí nghiệm mới xuất hiện, cho thấy dưới những điều kiện nhất định, lí thuyết đó không hẳn là một sự gần đúng tốt hay thậm chí không còn giá trị nữa. Quả bóng khi đó được đá trở lại sân của các nhà lí thuyết. Nếu một thí nghiệm không ăn khớp với lí thuyết hiện tại, thì lí thuyết đó phải thay đổi, chứ không phải thí nghiệm.
a/ Khoa học là một chu trình của lí thuyết và thực nghiệm
(2) Lí thuyết phải vừa có tính tiên đoán vừa có tính giải thích. Yêu cầu của sức mạnh dự đoán có nghĩa là một lí thuyết sẽ chỉ có đầy đủ ý nghĩa nếu như nó có khả năng tiên đoán cái gì đó có thể kiểm tra trên cơ sở các phép đo thực nghiệm mà lí thuyết đó không với tới ngay. Nghĩa là, một lí thuyết phải có thể kiểm tra được. Giá trị giải thích có nghĩa là nhiều hiện tượng phải được xem xét đối với vài nguyên lí cơ bản. Nếu bạn trả lời mỗi câu hỏi “tại sao” rằng “bởi vì nó là như thế” thì lí thuyết của bạn không có giá trị giải thích. Sưu tập nhiều số liệu mà không có khả năng tìm ra bất kì nguyên lí nền tảng cơ sở nào thì không phải là khoa học.
(3) Các thí nghiệm phải có thể lặp lại được. Một thí nghiệm sẽ bị xem xét với sự hoài nghi nếu như nó chỉ hoạt động đối với một người, hoặc chỉ hoạt động trong một bộ phận của thế giới. Bất kì ai có kĩ năng và trang thiết bị cần thiết đều có thể thu được kết quả như nhau từ những thí nghiệm như nhau. Điều này ngụ ý rằng nền khoa học vượt qua ranh giới quốc gia và tôn giáo; bạn có thể chắc chắn rằng chẳng có ai đang làm khoa học thật sự khi họ khẳng định công việc của họ là “Aryan, không phải Do Thái,” “mác-xít, không phải tư bản,” hay “Công giáo, không phải vô thần”. Một thí nghiệm không thể tái dựng lại được nếu như nó là bí mật, cho nên khoa học nhất thiết phải là một sự nghiệp chung.
b/ Hình vẽ châm biếm phòng làm việc của một nhà giả kim thuật. H. Cock, vẽ lại theo Peter Brueghel (thế kỉ 16)
Một thí dụ của chu trình lí thuyết và thực nghiệm, một bước tiến cần thiết đến nền hóa học hiện đại là quan sát thực nghiệm cho thấy các nguyên tố hóa học không thể chuyển hóa lẫn nhau, chẳng hạn như chì không thể biến thành vàng. Điều này dẫn tới lí thuyết cho rằng các phản ứng hóa học bao gồm sự sắp xếp lại của các nguyên tố theo những kết hợp khác nhau, không có bất kì sự thay đổi nào ở nhân dạng của bản thân các nguyên tố. Lí thuyết đó hoạt động trong hàng trăm năm, và được xác nhận bằng thực nghiệm trên một phạm vi rộng của áp suất và nhiệt độ và với nhiều kết hợp của các nguyên tố. Chỉ trong thế kỉ 20, chúng ta mới biết rằng một nguyên tố có thể chuyển hóa thành một nguyên tố khác dưới những điều kiện áp suất và nhiệt độ cực cao tồn tại trong quả bom hạt nhân hoặc bên trong một ngôi sao. Quan sát đó không hoàn toàn vô hiệu hóa lí thuyết ban đầu về sự bất biến của các nguyên tố, nhưng nó cho thấy nó chỉ là một sự gần đúng, hợp lí ở điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường.
Một pháp sư lên đồng tham gia nói chuyện với linh hồn người đã mất. Ông nói ông có sức mạnh ma thuật đặc biệt mà người khác không có, nó cho phép ông “liên lạc” thông tin với các linh hồn. Ở đây, phần nào của nguyên tắc khoa học đã bị vi phạm ?
Phương pháp khoa học mô tả ở đây là một sự lí tưởng hóa, và không nên hiểu là một tập hợp thủ tục dùng trong làm khoa học. Các nhà khoa học có nhiều nhược điểm và tính xấu như mọi nhóm người khác, và rất thường xảy ra với các nhà khoa học là cố gắng làm mất uy tín của thí nghiệm của người khác khi kết quả của người ta trái ngược với quan điểm ưa thích của họ. Nền khoa học thành công cũng phải làm việc với sự may mắn, trực giác và sáng tạo nhiều hơn đa số mọi người nhận thấy, và hạn chế của phương pháp khoa học là không hề kiềm chế cá tính và sự tự biểu hiện hơn so với dạng fugue sonata kiềm chế Bach và Haydn. Có một xu hướng gần đây trong số các nhà khoa học xã hội là đi xa hơn nữa và đi tới phủ nhận sự tồn tại của phương pháp khoa học, khẳng định khoa học không gì hơn là một hệ thống xã hội độc đoán xác định ý tưởng nào được chấp nhận dựa trên tiêu chuẩn của nhóm người có chung quyền lợi. Nếu khoa học là một lễ nghi xã hội độc đoán, thì hình như khó mà giải thích được tính hiệu quả của nó trong việc chế tạo các đồ đạc hữu ích như máy bay, máy hát đĩa CD và máy may. Nếu như thuật giả kim và chiêm tinh học không kém tính khoa học hơn trong phương pháp của nó so với hóa học và thiên văn học, thì cái gì khiến cho chúng không tạo ra được cái nào có ích cả ?
Xét xem có hay không có phương pháp khoa học áp dụng trong những thí dụ sau đây. Nếu phương pháp khoa học không được áp dụng, hỏi những người có hoạt động được mô tả có đang tiến hành một hoạt động con người hữu ích hay không, dẫu là một hoạt động phản khoa học ? A. Châm cứu là một kĩ thuật y khoa cổ truyền có nguồn gốc châu Á trong đó những cây kim nhỏ được cắm vào cơ thể con người để làm giảm đau đớn. Nhiều bác sĩ được đào tạo ở phương tây xem châm cứu là không có giá trị nghiên cứu thực nghiệm, vì nếu như nó có tác dụng chữa bệnh, thì những tác dụng đó không thể nào giải thích bằng lí thuyết của họ về hệ thần kinh. Ai là người mang tính khoa học hơn, những người hành nghề phương tây hay phương đông ? B. Goethe, một nhà thơ Đức, ít được biết tới cho lí thuyết của ông về màu sắc. Ông đã xuất bản một cuốn sách về đề tài đó, trong đó ông biện hộ rằng dụng cụ khoa học dùng để đo và định lượng màu sắc, như lăng kính, thấu kính và bộ lọc màu, không thể mang lại cho chúng ta cái nhìn trọn vẹn vào ý nghĩa tối hậu của màu sắc, chẳng hạn cảm giác lạnh gợi lên bởi màu lam và lục, hay tính khoa trường do màu đỏ kích động. Hỏi nghiên cứu của ông có mang tính khoa học không ? C. Một đứa trẻ thắc mắc tại sao mọi vật đều rơi xuống, và một người trưởng thành trả lời “vì hấp dẫn”. Nhà triết học Hi Lạp cổ đại Aristotle giải thích rằng đất đá rơi xuống vì bản chất của chúng tìm lại vị trí tự nhiên của chúng, tiếp giáp với Trái đất. Những lời giải thích này có mang tính khoa học không ? D. Đạo Phật phần nào là một lời giải thích tâm lí học của sự trải nghiệm của con người, và tâm lí học tất nhiên là một khoa học. Đức Phật có thể nói là phải bận rộn trong một chu trình lí thuyết và thực nghiệm, vì ông nghiên cứu bằng cách thử và sai, và cho dẫu muộn trong cuộc đời ông, ông đã yêu cầu các môn đồ thử thách ý tưởng của ông. Phật giáo còn có thể xem là có tính sinh sôi, vì Đức Phật bảo các môn đồ của ông rằng họ có thể tìm sự khai sáng cho chính họ nếu họ tuân theo một khóa nghiên cứu và rèn luyện nhất định. Hỏi Phật giáo có phải là một hoạt động theo đuổi khoa học hay không ? 2. Vật lí là gì ? Cho rằng trong chốc lát, một người thông minh có thể lĩnh hội tất cả các lực mà nhờ đó tự nhiên được cấp thêm sinh khí và vị trí tương ứng của những thứ tạo ra nó… thì không có gì là không chắc chắn, và tương lai cũng như quá khứ sẽ nằm trước mắt nó. Pierre Simon de Laplace
Vật lí là sử dụng phương pháp khoa học để tìm ra các nguyên lí cơ bản chi phối ánh sáng và vật chất, và khám phá ra hệ quả của những định luật này. Một phần của cái phân biệt quan điểm hiện đại với thế giới quan cổ đại là giả định có những quy luật mà nhờ đó các chức năng vũ trụ, và những định luật đó có thể được hiểu ít nhất là phần nào đó bởi con người. Từ kỉ nguyên Lí trí cho đến thế kỉ 19, nhiều nhà khoa học bắt đầu bị thuyết phục rằng các định luật tự nhiên không những có thể hiểu được mà, như Laplace khẳng định, những định luật đó về nguyên tắc còn có thể sử dụng để tiên đoán mọi thứ về tương lai của vũ trụ nếu như có đủ thông tin về trạng thái hiện nay của toàn bộ ánh sáng và vật chất. Trong những phần sau, tôi sẽ mô tả hai loại giới hạn chung trên tiên đoán sử dụng các định luật vật lí, chúng chỉ được ghi nhận trong thế kỉ 20.
Vật chất có thể định nghĩa là thứ gì đó bị tác dụng bởi hấp dẫn, tức là nó có trọng lực hay sẽ có sức nặng nếu nó nằm gần Trái đất hoặc một ngôi sao khác hoặc một hành tinh đủ nặng để tạo ra sức hấp dẫn có thể đo được. Ánh sáng có thể định nghĩa là thứ gì đó có thể truyền từ nơi này sang nơi khác qua không gian trống rỗng và có thể tác dụng lên vật chất, nhưng không có trọng lượng. Ví dụ, ánh sáng Mặt trời có thể tác dụng lên cơ thể bạn bằng cách làm nó nóng lên hay phá hỏng DNA của bạn và làm cho bạn bị ung thư da. Định nghĩa ánh sáng của nhà vật lí bao gồm nhiều hiện tượng phong phú không nhìn thấy với mắt thường, gồm có sóng vô tuyến, vi sóng, tia X và tia gamma. Những đối tượng này là “màu” của ánh sáng không rơi vào ngưỡng hẹp từ-tím-tới-đỏ của cầu vồng mà chúng ta có thể nhìn thấy.
Vào đầu thế kỉ 20, một hiện tượng mới lạ được phát hiện thấy trong ống chân không: các tia bí ẩn có nguồn gốc và bản chất không rõ. Những tia này giống như các tia bắn từ phía sau ống đèn hình ti vi nhà bạn và chạm tới phía trước tạo ra hình ảnh. Các nhà vật lí vào năm 1895 không hề có ý tưởng xem những tia này là cái gì, nên họ đặt tên đơn giản cho chúng là “tia cathode”, theo tên của tiếp xúc điện từ đó chúng phát ra. Một cuộc tranh luận sôi nổi nổ ra, hoàn toàn với ý nghĩa quan niệm, xem những tia này thuộc dạng ánh sáng hay vật chất. Người ta sẽ phải làm gì để giải quyết vấn đề đó ?
Nhiều hiện tượng vật lí bản thân chúng không phải là ánh sáng hay vật chất, mà là tính chất của ánh sáng hay vật chất hoặc tương tác giữa ánh sáng và vật chất. Chẳng hạn, chuyển động là một tính chất của mọi ánh sáng và một số vật chất, nhưng bản thân nó không phải là ánh sáng hay vật chất. Áp suất giữ cho lốp xe đạp căng lên là sự tương tác giữa không khí và lốp xe. Áp suất không thuộc dạng vật chất mà thuộc dạng riêng của nó. Nó là một tính chất của lốp xe cũng như của không khí. Tương tự, tình cảnh chị em và chủ tớ là quan hệ giữa người với người, nhưng không phải là bản thân con người.
Một số thứ dường như không trọng lượng lại thật sự có trọng lượng, và vì thế được xem là vật chất. Không khí có trọng lượng, và vì thế nó là một dạng vật chất, mặc dù 1 inch khối không khí nhẹ hơn cả một hạt cát. Quả bóng helium có trọng lượng, nhưng được giữ cho khỏi rơi xuống bởi lực tác dụng của không khí xung quanh đậm đặc hơn, chúng đẩy nó lên. Các nhà thiên văn trên quỹ đạo xung quanh Trái đất có trọng lượng, và đang rơi theo một đường cong, nhưng họ chuyển động quá nhanh nên cung cong của quỹ đạo rơi của họ đủ rộng để mang họ theo hành trình xung quanh Trái đất có dạng hình tròn. Họ tự cảm thấy mình không có trọng lượng vì tổ hợp không gian đang rơi cùng với họ, và vì thế sàn đỡ không đẩy chân họ lên.
d/ Giản hóa luận
A. Tôi vừa đề nghị thay định nghĩa bình thường của ánh sáng bằng một định nghĩa mang tính kĩ thuật hơn, chính xác hơn bao hàm sự không trọng lượng. Dù vậy, vẫn có khả năng là chất liệu mà một cái bóng đèn tạo ra, thông thường gọi là “ánh sáng”, thật sự có một lượng nhỏ trọng lượng nào đó. Hãy đề xuất một thí nghiệm nhằm đo xem nó có trọng lượng hay không. B. Nhiệt không có trọng lượng (tức là một vật không hề trở nên nặng hơn khi bị nung nóng), và có thể truyền qua căn phòng trống từ bếp lửa tới da của bạn, nơi nó tác động đến bạn qua việc làm nóng bạn. Vậy thì theo định nghĩa của chúng ta, nhiệt có được xem là một dạng ánh sáng hay không ? Tại sao được hay tại sao không ? C. Tương tự, âm thanh có được xem là một dạng ánh sáng hay không ? 3. Học vật lí như thế nào?
Để tránh nghiên cứu mọi thứ cùng một lúc, các nhà khoa học cô lập mọi thứ mà họ đang cố gắng nghiên cứu. Chẳng hạn, một nhà vật lí muốn nghiên cứu chuyển động của một con quay hồi chuyển đang quay sẽ có khả năng thích nó được tách rời khỏi các dao động và dòng không khí xung quanh. Ngay cả trong sinh học, lĩnh vực nghiên cứu cần thiết phải tìm hiểu sự sống liên hệ như thế nào với toàn bộ môi trường của chúng, thật hào hứng lưu ý đến vai trò lịch sử thiết yếu của nghiên cứu của Darwin trên quần đảo Galapagos, nơi tách rời khỏi phần còn lại của thế giới. Bất kì bộ phận nào của vũ trụ được xem là tách rời khỏi phần còn lại có thể gọi là một “hệ”.
Vật lí học đã có những thành công to lớn của nó khi tiến hành quá trình cô lập này để cách li, chia nhỏ vũ trụ thành những phần ngày càng nhỏ hơn. Vật chất có thể chia thành các nguyên tử, và hành vi của từng nguyên tử có thể nghiên cứu được. Các nguyên tử có thể phân chia thành các neutron, proton và electron cấu thành của chúng. Proton và neutron hình như được cấu thành từ các hạt còn nhỏ hơn nữa gọi là quark, và đã có một số khẳng định bằng chứng thực nghiệm các quark có những bộ phận nhỏ hơn bên trong chúng. Phương pháp phân tích các thứ thành những bộ phận càng lúc càng nhỏ hơn và nghiên cứu xem những bộ phận đó tương tác lẫn nhau như thế nào được gọi là sự giản hóa luận. Hi vọng là các quy luật có vẻ phức tạp chi phối những đơn vị lớn có thể được hiểu tốt hơn dưới dạng những quy luật đơn giản hơn chi phối những đơn vị nhỏ hơn. Để đánh giá đúng cái do giản hóa luận mang lại cho khoa học, chỉ cần nghiên cứu một cuốn sách giáo khoa hóa học thời thế kỉ 19. Vào lúc ấy, sự tồn tại của các nguyên tử vẫn còn bị một số người nghi ngờ, các electron thì bị khả nghi là không tồn tại, và hầu như người ta chẳng hiểu những quy luật cơ bản nào chi phối cách thức các nguyên tử tương tác lẫn nhau trong phản ứng hóa học. Học sinh phải ghi nhớ những danh sách dài các hóa chất và phản ứng của chúng, và không có cách nào hiểu được nó một cách có hệ thống. Ngày nay, học sinh chỉ cần ghi nhớ một tập hợp nhỏ các quy luật về cách thức các nguyên tử tương tác, chẳng hạn các nguyên tử thuộc một nguyên tố không thể nào chuyển hóa thành nguyên tố khác qua phản ứng hóa học, hay các nguyên tử ở phía bên phải của bảng hệ thống tuần hoàn có xu hướng hình thành liên kết mạnh với các nguyên tử ở phía bên trái.
Nhiều sinh viên đến với khóa học khoa học với ý tưởng rằng họ có thể thành công bằng việc ghi nhớ các công thức, khi một bài toán được đưa vào bài tập ở nhà hay bài thi, họ sẽ có thể thế số vào công thức và thu được kết quả bằng số trên chiếc máy tính bỏ túi của mình. Thật sai lầm ! Đó không phải là cách học khoa học đâu ! Có một sự khác biệt lớn giữa việc học thuộc các công thức và hiểu các khái niệm. Để bắt đầu, các công thức khác nhau có thể áp dụng trong những tình huống khác nhau. Một phương trình có thể biểu diễn một định nghĩa, nó luôn luôn đúng. Một phương trình khác có thể là một phương trình rất đặc biệt cho tốc độ của một vật trượt trên một mặt phẳng nghiêng, nó sẽ không đúng nếu như vật là một tảng đá đang trôi giạt xuống đáy đại dương. Nếu bạn không chịu khó tìm hiểu vật lí ở mức độ khái niệm, bạn sẽ không biết công thức nào được sử dụng khi nào.
Khi tìm hiểu bất kì vật nào, điều quan trọng là càng liên hệ tích cực càng tốt, từ không tìm cách đọc toàn bộ thông tin một cách nhanh chóng mà không nghĩ về nó. Một ý tưởng hay là hãy đọc và nghĩ tới những câu hỏi đặt ra ở cuối mỗi phần của những tài liệu này khi bạn gặp chúng, sao cho bạn biết rằng bạn đã hiểu cái mình đang đọc.
Khó khăn của nhiều học sinh về vật lí rút lại chủ yếu là những khó khăn với toán học. Giả sử bạn cảm thấy tự tin rằng bạn có đủ nền tảng toán học để thành công trong khóa học này, nhưng bạn đang gặp rắc rối với một số thứ nhất định. Trong một số lĩnh vực, nhận xét chính nêu trong chương này có lẽ là đủ, nhưng trong một số lĩnh vực khác, nó có khả năng không đủ. Một khi bạn nhận ra những lĩnh vực toán học mà bạn gặp trục trặc, hãy tìm sự hỗ trợ trong những lĩnh vực đó. Đừng lê chân qua toàn khóa học với cảm giác mơ hồ nghĩ tới mà sợ về thứ kiểu như khái niệm khoa học. Khó khăn sẽ không biến mất nếu bạn bỏ qua nó. Điều tương tự áp dụng cho các kĩ năng toán học cần thiết mà bạn học trong khóa học này lần đầu tiên, ví dụ như phép cộng vector.
Thêm ý kiến của bạn
Các Hằng Số Cơ Bản Trong Vật Lý Lượng Tử Ánh Sáng
Published on
Các hằng số trong vật lý lượng tử ánh sáng
1. VẬT LÝ LƯỢNG TỬ ÁNH SÁNG I. Các hằng số cơ bản trong vật lý lượng tử ánh sáng : Hằng số planck : h = 6,625. 10-34 Js Hằng số stefan- boltzmann : σ = 5,6703 . 10-6 W/m2K-4 Tốc độ ánh sáng : c = 3.108 m/s2 Điện tích nguyên tố : e- = 1,6.10-19 C ( cu lông ) Khối lượng e- : me = 9,1.10-31 kg II. Các công thức : 1. Công thức stefan – boltzmann , tính công suất bức xạ( radiant) : Trong đó: PR là công suất bức xạ của vật đang xét . W ( woat ) ε là hệ số đặc trưng cho bức xạ hoặc hấp thụ, không có đơn vị ( 0 < ε < 1 ) σ là hằng số stefan – boltzmann A là diện tích bề mặt bức xạ của vật thể . ( m2 ) T là nhiệt độ của vật thể ( 0K ) 2. Công thức năng lượng 1 photon : Trong đó, ε là năng lượng 1 phô tôn ( eV, electron volt ) h là hằng số planck f là tần số A là công thoát ra khỏi kim loại Eđ là động năng ban đầu cực đại 3. Công thức tính cường độ sáng : Công thức tính cường độ sáng theo tổng số photon N đi qua diện tích Δs trong khoảng thời gian Δt. PR = ε.σ.AT4 ε = h.f = A + Eđ Một vật đen tuyệt đối là vật có hệ số đặc trưng cho bức xạ hoặc hấp thụ bằng 1 . I = 𝑁 ∆𝑠.∆𝑡
2. 4. Các công thức khác, có thể đúng : Động năng ban đầu cực đại được tính theo các công thức : Eđo = 12 mv2 = eV = ε – A Động năng ban đầu cực đại được tính bằng eV dựa vào đơn vị của năng lượng ( eV : electron volt ) Năng lượng có nhiều dạng : động năng, thế năng, công thực hiện . Cường độ dòng e- quang điện có phụ thuộc vào cường độ chùm sáng không ? Hay chỉ phụ thuộc vào hiệu điện thế UAK ,
Recommended
Quản Lý Hành Chính Đường Cao Tốc
a Khái niệm về quản lý hành chính đường cao tốc
Quản lý hành chính đối với đường cao tốc chỉ các công việc quản lý tài sản đường dựa trên các quy định của pháp luật, quy chế của Nhà nước về bảo vệ đường, bảo vệ dải đất dành cho đường, hành lang hai bên đường, các trang thiết bị trên đường, bảo vệ sự an toàn, thuận tiện đối với người sử dụng đường
b. Đặc điểm của việc quản lý hành chính đối với đường cao tốc
– Biện pháp quản lý phải tiên tiến, hiện đại: các biện pháp quản lý thông tin phải hiện đại; kiểm soát các hoạt động phải kịp thời và thường xuyên; các trang thiết bị làm nhiệm vụ dọn sạch các chướng ngại vật trên đường phải hiện đại, tiện lợi; phải trang bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị cứu hộ chuyên dùng để nhanh chóng, kịp thời xử lý các tai nạn giao thông; phải có các trang thiết bị, máy móc chuyên dùng làm công việc duy tu bảo dưỡng đường và các công trình trên đường phải đảm bảo yêu cầu tiện lợi, nhanh chóng và an toàn
– Phương pháp quản lý có tính đặc biệt: việc quản lý không chỉ là quản lý “tĩnh” mà là quản lý “động” để kịp thời phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố xảy ra trên đường không kể ngày đêm
– Việc thực hiện quản lý có tĩnh cưỡng chế: đối với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý đường phải có các biện pháp xử phạt tương đương với mức độ vi phạm của người phục vụ và các chủ phương tiện sử dụng đường
c. Ý nghĩa của việc quản lý hành chính đường cao tốc
Một cách khái quát, ý nghĩa của việc quản lý hành chính là nhằm đạt được các yêu cầu sau:
– Duy trì tính hoàn chỉnh của hệ thống các công trình trên đường cao tốc đều là tài sản của Nhà nước, vì vậy phải được bảo vệ theo pháp luật quốc gia
– Bảo đảm chất lượng sử dụng của đường cao tốc: giám sát chặt chẽ việc sử dụng đường cao tốc, đường cao tốc chỉ dành riêng cho xe cơ giới chạy tốc độ cao, không cho phép nhà cửa và các công trình khác xây dựng trong phạm vi dải đất dành cho đường và hành lang an toàn hai bên đường
– Bảo đảm cải thiện môi trường giao thông trên đường cao tốc: bảo đảm bản thân đường cao tốc đáp ứng các điều kiện về đường để xe chạy với tốc độ cao và an toàn đồng thời đảm bảo điều kiện giao thông tiện lợi, an toàn tuyệt đối không cho phép người và súc vật qua rào chắn đi vào đường cao tốc
– Bảo đảm việc thu phí đầy đủ để hoàn trả vốn xây dựng cho đường cao tốc
– Giáo dục người sử dụng đường và người quản lý đường
III.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương pháp quản lý hành chính đối với đường cao tốc
a. Nhiệm vụ và quyền hạn quản lý hành chính đường cao tốc
– Quán triệt và chấp hành các luật pháp, quy chế về quản lý hành chính đối với đường cao tốc
– Quản lý và bảo vệ tài sản đường
– Tuần tra đường ngày đêm trong mọi điều kiện thời tiết, khí hậu
– Dựa theo các văn bản ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm trên đường cao tốc
– Kiểm tra các xe siêu tải chạy trên đường cao tốc và xử lý
– Tham gia vào việc bàn giao, nghiệm thu các công trình trên đường cao tốc
b. Phương pháp quản lý hành chính đường cao tốc
– Phương pháp quản lý về hành chính: thực hiện các hoạt động quản lý việc giám sát, kiểm tra giải quyết các quan hệ giữa đường cao tốc với các tổ chức, các cá nhân làm nhiệm vụ trên đường thông qua luật pháp, quy chế và sự uỷ quyền của cấp trên
– Biện pháp quản lý kinh tế: dựa vào luật khách quan về kinh tế, áp dụng các biện pháp kinh tế, phát huy tác dụng của đòn bẩy kinh tế để thực hiện có hiệu quả luật pháp, quy chế quản lý đường cao tốc
– Biện pháp quản lý về pháp luật: quản lý thông qua việc thực thi các quy định của pháp luật, quy chế quản lý đường cao tốc nhằm đảm bảo mọi hoạt động của người quản lý đường, người sử dụng đường
– Biện pháp quản lý về kỹ thuật: đây là biện pháp quản lý “động” nhằm mục đích bảo vệ tài sản đường và quyền quy định về chức năng của đường cao tốc
III.2.2.3. Chấp hành pháp luật trong quản lý hành chính đối với đường cao tốc
a. Các nguyên tắc chủ yếu về việc chấp hành luật trong quản lý hành chính đối với đường cao tốc
– Thực hiện kết hợp quản lý “tĩnh” với quản lý “động”: kết hợp việc xác định nội dung của quản lý với thực hiện chế độ kiểm tra thường xuyên dọc tuyến các sự cố, vi phạm trên đường
– Kiên trì nguyên tắc, phương châm lấy giáo dục làm chính trong việc chấp hành pháp luật đối với người quản lý hành chính đường cao tốc
b. Nội dung của việc chấp hành pháp luật trong quản lý hành chính đối với đường cao tốc
– Quản lý và bảo vệ tài sản đường và các quyền của đường để bảo đảm xe chạy với tốc độ cao, thông suốt, an toàn, tiện lợi trên cơ sở vận dụng các quy định của pháp luật
– Quản lý đối với các xe siêu tải và các trường hợp đặc biệt sử dụng đường quá khổ
c. Những đặc điểm của việc chấp hành pháp luật trong quản lý hành chính đường cao tốc
– Việc chấp hành pháp luật trong quản lý hành chính đường cao tốc phải do cơ quan chủ quản đường cao tốc hoặc đơn vị được uỷ quyền quản lý đường cao tốc thực hiện
– Việc chấp hành luật trong quản lý hành chính phải được thực hiện theo đúng pháp luật và quy chế quản lý đường cao tốc
– Việc chấp hành pháp luật trong quản lý hành chính đường là một loạt hoạt động hành chính
– Công việc này là một hoạt động thực hiện các biện pháp hành chính, có tính cưỡng bức đối với một số người, một số việc
– Công việc này là một loại hạot động mang nhiều tính tự do cần có sự vận dụng sáng tạo trong chấp hành pháp luật để đảm bảo việc xử lý được hợp lý, hợp tình
– Công việc này là một hoạt động chấp hành các quy định của pháp luật, vì vậy phải tuân theo các quy định của Luật tố tụng nếu đương sự không đồng ý với quyết định xử lý vi phạm của cơ quan quản lý hành chính đường bộ
d. Các căn cứ luật pháp để thực hiện quản lý hành chính đường cao tốc
– Các quy định của Pháp luật, các Quy chế về quản lý đường bộ đồng thời được áp dụng cho việc quản lý đường cao tốc
– Căn cứ luật pháp để quản lý hành chính đường bộ
III.2.2.4. Thiết lập cơ cấu tổ chức, các yêu cầu đối với nhân viên quản lý và trang thiết bị dùng trong quản lý hành chính đường cao tốc
a. Thiết lập cơ cấu tổ chức quản lý: có 4 cấp quản lý theo thứ tự sau
– Cơ quan chủ quản giao thông vận tải bao gồm Bộ GTVT, Sở giao thông tỉnh, phòng giao thông huyện
– Cơ quan quản lý đường bộ bao gồm: cục quản lý đường bộ, Cục quản lý đường đô thị, Khu quản lý đường bộ, đoạn hạt quản lý đường bộ
– Cơ quan quản lý hành chính đường bộ là cơ quan thay mặt cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính
– Nhân viên quản lý đường bộ bao gồm chuyên trách, kiêm nhiệm, hợp đồng, nghĩa vụ, …
b. Các yêu cầu đối với nhân viên quản lý đường bộ
– Phải trên 20 tuổi và không quá 45 tuổi, có sức khoẻ, có trình độ văn hoá, có qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và chứng chỉ thi tuyển do Bộ GTVT quy định
– Tư tưởng vững vàng, đạo đức tác phong liêm khiết, có ý thức kỷ luật, ý thức tổ chức, lành mạnh trong sinh hoạt, tinh thần trách nhiệm cao
– Có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác
– Nắm vững pháp luật, quy chế về quản lý hành chính đường bộ
– Có ý thức tự giác học tập các kỹ thuật mới trong quản lý hiện đại
c. Trang thiết bị sử dụng trong quản lý hành chính đường bộ: bao gồm trang thiết bị tuần tra, trang thiết bị giải toả chướng ngại vật, thiết bị thông tin di động, thiết bị thu thập số liệu, thiết bị cứu hộ cứu nạn, thiết bị báo hiệu đường
III.2.2.5. Thực hiện công việc quản lý hành chính đường cao tốc
a. Tuần tra, quản lý đường cao tốc
– Nhiệm vụ của tuần tra: tuần tra trong phạm vi đoạn đường phụ trách về tình hình đường sá, các công trình trên đường, các thiết bị báo hiệu đường, cọc tiêu, rào chắn
– Công tác chuẩn bị trước khi thực hiện việc tuần tra trên đường:
+ Các nhân viên phải mặc trăng phục, đeo phù hiệu
+ Kiểm tra các dụng cụ cá nhân cần cho việc điều tra đường
+ Kiểm tra các dụng cụ khảo sát, thu thập thông tin, các thiết bị cứu hộ, cứu nạn
– Các quy định chung đối với việc tuần tra đường cao tốc
+ Một tổ tuần tra thường có 3 người, tốc độ xe chạy của tổ tuần tra không quá 60 km/h và không làm ảnh hưởng đến điều kiện xe chạy bình thường
+ Khi cần xử lý khẩn cấp một xe vi phạm luật giao thông thì xe tuần tra phải vượt xe bị xử lý ít nhất là 240 m sau đó chiếu đèn pin lên mặt đường, ra tín hiệu dừng xe bên lề đường
+ Sau mỗi lần tuần tra, tổ trưởng tuần tra phải ghi đầy đủ kết quả tuần tra
b. Xử lý cứu hộ, sự cố trên đường cao tốc
– Sự cố trên đường cao tốc: tai nạn giao thông, sửa chữa mặt đường, ùn tắc giao thông, mưa to làm ảnh hưởng tầm nhìn, đất sụt làm ảnh hưởng tới giao thông, vật liệu nguy hiểm nằm trên đường, rác rưởi và súc vật gây ảnh hưởng
– Việc xử lý các sự cố trên đường phải được tiến hành theo các hướng dẫn, quy trình xử lý sự cố để đảm bảo nhanh chóng, an toàn, có hiệu quả và phải có sự phân công trách nhiệm giữa các bộ phận, các cơ quan
– Quá trình xử lý sự cố theo trình tự: thông tin, quyết định, hành động và cuối cùng là báo cáo
Bạn đang đọc nội dung bài viết Vật Lí Lượng Tử Tốc Hành (Phần 5) trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!