Cập nhật nội dung chi tiết về Vị Trí Và Vai Trò Của Văn Hóa Trong Thắng Lợi Của Cách Mạng Tháng Tám Năm 1945 mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Vị trí và vai trò của văn hóa trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
1. Đặt vấn đề
GS Trần Văn Giàu, người đã giành nhiều thời gian, tâm sức để nghiên cứu về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trong một lần về thăm khoa Lịch sử, trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, nơi ông đã từng có nhiều năm giữ cương vị Chủ nhiệm khoa, tâm sự: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nước ta kỳ lạ lắm, có thể còn cần phải nghiên cứu rất nhiều nữa, còn cần làm sáng tỏ nhiều khía cạnh nữa để nhận thức hết được sự vĩ đại của một đường lối, sự tài giỏi của một phương thức tổ chức, sự kỳ diệu của một phương thức vận động xã hội. Bởi chỉ với hơn 5000 đảng viên, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh mà nòng cốt là Đảng cộng sản đã giành được độc lập cho một quốc gia ở một tình huống đặc biệt. Nhưng, ông cũng lại còn day dứt một điều, vì sao có những thời điểm vận nước rơi vào những tình huống bi đát đến thế, sức mạnh của đất nước dường như bị triệt tiêu, không còn có cả khả năng phòng thủ, khả năng tự bảo vệ. Cuối đời, do sức khỏe không còn được như xưa, ông không dám tập trung cho những công trình dài hơi, nhưng vẫn cố gắng đi tìm lời giải đáp cho một câu hỏi từ lâu khiến ông day dứt. Đó là vì sao chỉ với 25 lính, trong đó có một tên bị bệnh, không thể tham chiến nhưng đám lính Pháp này vẫn có thể lấy được tỉnh Ninh Bình? Với lực lượng ấy, theo ông, chỉ cần trai tráng trong một làng cũng có thể tiêu diệt được nếu họ đồng lòng. Và, trong một lần khác, khi nói chuyện về tình hình thời sự, ông cũng kể rằng “tôi đã từng đặt ra câu hỏi cho ba đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô cũ: vì sao với hơn 14 triệu đảng viên mà khi người ta mổ thịt các chú, các chú không có phản ứng gì, kể cả giẫy giụa?”. Bài viết này chỉ tập trung lý giải về vai trò của văn hóa trong cuộc cách mạng này, với tư cách là một bộ phận của cuộc cách mạng giải phóng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng trong một hoàn cảnh xã hội đặc biệt.
2. Bối cảnh văn hóa, xã hội và vị trí của văn hóa trong cuộc cánh mạng giải phóng
Từ 1930, khi được thành lập, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định vai trò của văn hóa như là một bộ phận của cuộc cách mạng xã hội mà người đảng viên phải hoạt động. Trong điều kiện lịch sử ấy, lại là một nội dung trong một tài liệu mang tính cương lĩnh, văn bản này chưa có điều kiện để nhận thức đầy đủ về bản chất, vai trò, các phương thức của hoạt động văn hóa và điểm mấu chốt trong quan niệm của Đảng lúc này là vẫn nhìn nhận, đánh giá sự đóng góp của văn hóa đối với quá trình phát triển xã hội từ góc nhìn ý thức hệ. Điều này được thể hiện rất rõ trong khi chỉ đạo các phong trào cách mạng sau đó. Từ phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh những năm 1930-1931 cho đến thời kỳ Mặt trận Bình Dân 1936-1939, về phương diện văn hóa, quan điểm của Đảng Cộng sản lộ rõ xu hướng đánh giá cao những giá trị thực tiễn, trước mắt của các giá trị văn hóa, phong trào văn hóa, tổ chức văn hóa, các nhà hoạt động văn hóa, nếu như các hoạt động ấy đều tập trung cho sự nghiệp đấu tranh với đế quốc phong kiến, khơi dậy thái độ phản kháng của quần chúng nhân dân, tập trung cho cuộc cách mạng xã hội nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc. Đến những năm tiền khởi nghĩa, vấn đề này càng trở nên cấp bách hơn, thiết thực hơn. Nói cho công bằng thì từ khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, phát xít Nhật hất cẳng Pháp, thiết lập chế độ cai trị của Nhật trên toàn cõi Đông Dương thì lý thuyết Đại Đông Á không phải không có những ảnh hưởng đến tâm thế xã hội, đến những xu hướng văn hóa-xã hội khác nhau của các phong trào văn hóa. Trong thực tiễn, bên cạnh những nhận thức đúng và đủ về chính sách văn hóa chính thống, không ít nhà tư tưởng, nhà hoạt động văn hóa vẫn còn có những mơ hồ, lệch lạc trước những chính sách văn hóa và triển vọng của văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 do đồng chí Trường Chinh với tư cách là Tổng Bí thư của Đảng khởi thảo, đã thể hiện khá đầy đủ quan niệm của Đảng về vai trò của văn hóa đối với cuộc cách mạng giải phóng. Mục tiêu cứu quốc được đặt ra đầu tiên và gần như xuyên suốt bản Đề cương văn hóa 1943, tư tưởng cứu quốc, cương lĩnh của một nền văn hóa cứu quốc được xác định, lý giải, yêu cầu gắn liền với cuộc cách mạng xã hội. Tình hình chính trị, xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp. Trên lĩnh vực văn hóa, nhiều xu hướng khác nhau đang chi phối đời sống tinh thần của dân tộc. Nhiều người phân vân trước học thuyết Đại Đông Á của Nhật, không ít người đã lầm tưởng rằng, đây chính là một cơ hội để văn hóa Việt Nam phục hưng, do được hưởng lợi từ quan niệm “đồng chủng đồng văn” của người Nhật, được “trở về” với nguồn gốc Á đông sau một thời gian dài bị nô dịch bởi người Pháp. Những tư tưởng triết học của phương tây được giới thiệu ở Việt Nam lúc này như triết học Đêcác, Berson, Căng, Nitsơ cũng đang có nguy cơ gây lạc đường cho nhiều trí thức trẻ chán ghét những tư tưởng cũ nhưng chưa tìm ra được hướng đi mới cho đời mình. Xu hướng nệ cổ, xu hướng cực đoan trong học thuật, những bế tắc của văn chương…(chủ nghĩa lãng mạn đã đi vào bế tắc, chủ nghĩa hiện thực đã đi đến giai đoạn cuối của nó và dần lộ ra những dấu hiệu không còn tính chiến đấu mạnh mẽ như giai đoạn đầu và những năm 36-39) tạo ra một không khí ngột ngạt, bế tắc trong đời sống tinh thần. Trong “đêm trước của cuộc cách mạng”, bản Đề cương văn hóa Việt Nam mà chúng ta hay gọi là Đề cương văn hóa 1943 ra đời đã đem lại một không khí mới cho văn hóa Việt Nam. Với Đề cương văn hóa Việt Nam, lần đầu tiên Đảng Cộng sản đưa ra một cương lĩnh văn hóa, mà ở đó nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng đã thành công. Đề cương văn hóa Việt Nam, vì vậy, có tác dụng định hướng cả về hướng đi, cách thức xây dựng và hoạt động nên nó có tác dụng lâu dài với cách mạng Việt Nam.Vì trong điều kiện hoạt động bí mật, bản Đề cương dù sao cũng mới chỉ dừng lại ở những định hướng lớn, những nguyên tắc mang tính chất nền tảng, nhiều vấn đề cũng mới chỉ được nêu ra ở những định hướng lớn mà chưa có điều kiện đi sâu vào những nội dung cụ thể, những quan hệ phức tạp trong nội hàm khái niệm. Sau khi cách mạng thành công, đồng chí Trường Chinh đã viết một bài tiểu luận dài có nhan đề Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam lúc này và báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam nhằm giải thích rõ hơn nhiều vấn đề trước đó Đề cương chưa có điều kiện làm rõ. Sở dĩ phải nói thêm như vậy, vì thứ nhất, do tính chất ngắn gọn của Đề cương, nhiều vấn đề chưa được cụ thể, nhiều định hướng chưa có dịp trình bày chi tiết và cũng có cả những vấn đề chưa được nói tới. Ở những văn bản sau này, tác giả của Đề cương đã trình bày kỹ hơn, giải thích rõ thêm nhiều nội dung của Đề cương, nhưng ở trong bài viết này, chúng tôi vì tôn trọng tính lịch sử của văn bản, sẽ không mở rộng, bàn thêm, bàn ra ngoài những điều đã được nói tới, cho dù những điều đó hoàn toàn có logic về mặt nội dung khoa học, về sự liền mạch của tư tưởng và trên thực tế, những gợi mở, đề xuất đầu tiên này đã được triển khai, vận dụng trong suốt chiều dài vận động của văn hóa Việt Nam từ bấy đến nay. Thêm nữa, sau khi chính quyền đã thuộc về nhân dân, Đảng Cộng sản đã thực hiện quyền lãnh đạo của mình nên đã phát triển thêm nhiều nội dung mà Đề cương chỉ mới đề cập đến mà chưa có sự luận giải hoặc luận giải chưa thuyết phục. Sự nhất quán của quan điểm chỉ đạo ở trong mấy văn bản này là điều dễ nhận thấy và những nguyên tắc về một nền văn hóa thuộc về tương lai, tầm nhìn và sự minh triết của nó đã đặt nền tảng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam từ bấy đến nay là sự thực lịch sử không thể không thừa nhận.
3. Tư tưởng về một nền văn hóa mới mang tính cách mạng trong Đề cương văn hóa 1943
Nhiều người đã nói tới việc từ trước khi Đề cương ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ít lần nói tới vấn đề văn hóa và cách mạng văn hóa trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nói như thế là đúng với lịch sử nhưng cũng cần phải khẳng định rằng, chỉ đến Đề cương, những vấn đề về một nền văn hóa mới do Đảng lãnh đạo mới được đặt ra một cách công khai, đầy đủ, toàn diện và mang tính chiến lược. Tính chất cách mạng của nền văn hóa mới được nhấn mạnh. Nhưng điều cũng cần nói rõ hơn ở đây là Đảng coi cuộc cách mạng của nền văn hóa ấy phải gắn liền với cuộc cách mạng xã hội sắp diễn ra, cần tập trung toàn bộ sức lực, hoạt động cho mục tiêu cứu quốc. Tính chất cứu quốc của Đề cương, vì vậy rất đậm nét.Bản Đề cương bao gồm nhiều nội dung lớn, sau mỗi vấn đề lại được chia ra thành những nội dung nhỏ hơn nhưng có khả năng bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều nội dung, trong đó có cả những giả thuyết của văn hóa Việt Nam trong tương lai, tính chất của nền văn hóa ấy và những phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa. Cũng trong văn bản này, lần đầu tiên Đảng đặt vấn đề về văn hóa trong cách mạng dân tộc dân chủ, đánh giá (sơ lược) lịch sử văn hóa Việt Nam, những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách đô hộ của ngoại bang, vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, những nguyên tắc vận động văn hóa mới, tính chất của nền văn hóa mới, những phương thức vận động văn hóa mới trong cuộc cách mạng sắp diễn ra và sau khi đã thành công v.v…, nghĩa là lần đầu tiên, Đảng nêu ra một Đề cương vận động, một Cương lĩnh (có thể nói như thế) về một nền văn hóa phải có, sẽ có trong và sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành và tiếp đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một bước tiếp theo tất yếu phải có của cuộc cách mạng xã hội. Đề cương nói về một cuộc cách mạng văn hóa trong tương lai, hoàn toàn khác trước đây cũng như hiện tại từ một cách nhìn hoàn toàn mới, mang tinh thần cách mạng chứ không phải là những cải cách, thay đổi. Bởi vậy, phải nhìn nhận nó từ những quan điểm mới: cách nhìn theo quan điểm mác xít về một nền văn hóa mới được xây dựng dưới thể chế chính trị-xã hội hoàn toàn mới. Những tư tưởng văn học mới cũng được xem như một bộ phận, một lĩnh vực của văn hóa mới Việt Nam. Ở đây, nên chú ý tới luận điểm của GS Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương, tới một sự gặp gỡ không phải do những tương đồng về nhận thức chính trị nhưng từ cách nhìn mang đậm cảm thức yêu nước và tinh thần dân tộc, GS Đào Duy Anh trong công trình viết năm 1938, trước cương lĩnh về văn hóa của Đảng 5 năm, đã cho rằng, đứng trước một cuộc vận động xã hội, một cuộc đảo lộn lớn cần “soát xét lại” những di sản văn hóa của dân tộc để biết mình, biết người, biết lựa chọn ra cái gì hữu dụng để đương đầu với thử thách mới, biết cái gì cần loại bỏ để cho mình mạnh lên. Tư tưởng ấy thể hiện sự minh triết của nhà khoa học. Đồng thời cũng cần nói thêm rằng từ sau năm 30, GS Đào Duy Anh không hoạt động chính trị nữa, chỉ thuần túy làm khoa học, nhưng có lẽ nhãn quan chính trị, bản lĩnh chính trị đã giúp GS có một quan điểm rất gần với quan niệm của Đảng về các vấn đề của văn hóa truyền thống, đời sống văn hóa bấy giờ. Không có tư liệu để khẳng định rằng, Trường Chinh đã có đọc Việt Nam văn hóa sử cương và chịu ảnh hưởng quan niệm này, nhưng rõ ràng về quan niệm, cách tiếp cận các vấn đề của văn hóa, xã hội, con người của hai công trình này có rất nhiều điểm tương đồng. Đó là điều đáng mừng vì qua hiện tượng này có thể có thêm bằng chứng để khẳng định, vì sao cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có sức lôi cuốn nhiều trí thức, các nhà hoạt động xã hội có xu hướng chính trị khác với Đảng Cộng sản đến với cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo như vậy.
Một nội dung khác, rất quan trọng cần được nhận thức và đánh giá đúng mức là vấn đề “học thuật, nghệ thuật”. Có người sẽ đặt vấn đề: tại sao nội hàm của khái niệm văn hóa, bao gồm nhiều nội dung khác nữa như di sản văn hóa, đời sống văn hóa, con người và những quan hệ của nó… cũng rất cần thiết trong giai đoạn lịch sử này, nhưng Đề cương lại chỉ nhấn mạnh ba lĩnh vực “tư tưởng, học thuật và nghệ thuật” và coi đó như một “mặt trận” người cộng sản cần hoạt động và nắm lấy quyền lãnh đạo? Qua hồi ức của những người trong cuộc, đối chiếu với tình hình thực tiễn của đời sống học thuật và nghệ thuật (chủ yếu là văn học) bấy giờ, có thể thấy Đề cương đã nêu ra rất trúng tính cấp thiết và yêu cầu phải tập trung toàn bộ sức lực cho mục tiêusắp tới của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Bởi vậy mà ba lĩnh vực nói trên, nơi thể hiện rõ nhất, tập trung nhất tư tưởng chính thống của chế độ xã hội bấy giờ (thể chế thực dân nửa phong kiến)-cơ sở sẽ đẻ ra nền văn hóa tương ứng với nó là nền văn hóa nô dịch. Mục tiêu đầu tiên, quan trọng nhất là đánh đổ thể chế ấy nên Đề cương cũng phải tập trung cho nó và “bỏ quên” những lĩnh vực khác cũng là điều có thể hiểu được. Đồng chí Trần Quốc Hương viết trong hồi ký về sự ra đời của Đề cương đã chứng minh thêm cho lập luận này: ” vấn đề văn hóa mới của dân tộc…Đảng ta đã quan tâm từ lâu rồi. Trong Luận cương do đồng chí Trần Phú khởi thảo, vấn đề này đã được đặt ra. Trong thời kỳ cách mạng Mặt trận Dân chủ, có điều kiện tương đối thuận lợi, Đảng ta đã dành chỗ trên sách báo công khai của mình phổ biến những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa, văn nghệ, giới thiệu các nhà văn cách mạng hoặc tiến bộ trên thế giới và trong nước, đề xướng một nền văn nghệ mới, đấu tranh chống những khuynh hướng văn nghệ lạc hậu đương thời…Nhưng phải đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám năm 1941, cuộc vận động văn hóa này mới được Trung ương bàn luận và giải quyết toàn diện cả về đường lối cả tổ chức. Do đó, mới có bản Đề cương về văn hóa Việt Nam và Hội Văn hóa Cứu quốc”. Riêng về văn học và những vấn đề học thuật trên sách báo công khai, những năm này cũng thể hiện tính chất đi xuống, lầm lẫn, chịu ảnh hưởng những quan điểm không lành mạnh của những quan điểm tư tưởng siêu hình, duy tâm, nệ cố, “mượn màu duy vật” có thể gây hại cho đời sống văn học, nên ở Đề cương, vấn đề này nêu ra như một nguy cơ phải đấu tranh, loại bỏ.
– Khi bàn về việc phân kỳ và xác định tính chất của văn hóa Việt Nam, Đề cương khẳng định: có 3 giai đoạn rõ rệt là “từ thời Quang Trung trở về trước” “văn hóa Việt Nam có tính chất nửa phong kiến nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Tầu”. Thời kỳ thứ hai tính “từ Quang Trung cho đến khi Đế quốc Pháp xâm chiếm” là “văn hóa phong kiến có xu hướng tiểu tư sản” và thời kỳ “từ Pháp xâm chiếm cho đến nay” văn hóa Việt Nam mang tính chất “nửa phong kiến, nửa tư bản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa” (có chú thêm cần “phân biệt mấy giai đoạn trong thời kỳ này”). Về cách phân kỳ và xác định tính chất của mỗi thời kỳ ấy của văn hóa Việt Nam, trên những nét lớn không phải là không có căn cứ. Đề cương căn cứ vào nền tảng kinh tế-xã hội và chế độ kinh tế xây dựng cũng với những hệ thống thiết chế tinh thần của nó để xác định tính chất nền văn hóa. Do đó mới có những kết luận về sự phân kỳ dựa trên những mốc lịch sử như thời kỳ Quang Trung trở về trước, thời kỳ Pháp xâm lược v.v…Ở đây, cách phân kỳ của các giai đoạn phát triển văn hóa, cũng như xác định tính chất của nền văn hóa ấy chủ yếu dựa trên những tiêu chí của những triều đại phong kiến và phương thức tổ chức chế độ xã hội, trong đó có đời sống tinh thần. Cũng có thể do đây chỉ là bản Đề cương, nên tác giả không có điều kiện giải thích rõ hơn luận điểm của mình nhưng rõ ràng tính chất đơn giản, chỉ mới nhìn thấy những mạch, dòng chính thống mà chưa thấy được những dòng chảy ngầm, chưa thấy “những yếu tố dân chủ và chủ nghĩa xã hội” hay chưa thấy “dòng văn hóa thuộc về nhân dân” như cách nói của V.Lênin về văn hóa ở những thời kỳ trước cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ cũng như cách nhìn nhận vấn đề vẫn có phần đơn giản, như gắn tính chất văn hóa Việt Nam với những kiểu tổ chức xã hội, với thể chế chính trị mà chưa nhìn nhận những giai đoạn phát triển của văn hóa theo những quy luật nội tại của nó. Vấn đề ở đây là: Đề cương phân kỳ văn hóa và xác định tính chất của văn hóa chủ yếu dựa trên cơ sở tổ chức xã hội về mặt chính trị và nền kinh tế được tổ chức trên nền tảng chính trị của xã hội ấy. Dấu ấn của mỗi thời kỳ lịch sử tương ứng với mỗi triều đại chưa được nói đến như văn hóa Lý-Trần, Lê, Nguyễn v.v..Đánh giá về tính chất của văn hóa Việt Nam hiện tại, chỉ ra những âm mưu về văn hóa của chính quyền cai trị và đế quốc Pháp, phát xít Nhật và nêu những giả thuyết về tương lai của văn hóa Việt Nam v.v… Đề cương hoàn toàn xuất phát từ góc độ chính trị của vấn đề. Những kết luận như “văn hóa Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản” rõ ràng chưa chặt chẽ về mặt khoa học cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Đây là những kết luận căn cứ trên những tiêu chí chính trị-xã hội của một thời đại, trên những biểu hiện bề nổi của văn hóa Việt Nam bởi văn hóa hợp pháp, thứ văn hóa được bảo trợ và khuyến khích đúng là đã mang những biểu hiện như vậy. Song mặt khác, những dòng chìm, những mạch ngầm của văn hóa dân tộc mang ý nghĩa tích cực cũng chưa được ghi nhận. Sau này, trong Mấy nguyên tắc lớn…đồng chí Trường Chinh nói rõ hơn, vì sao lúc đó, Đề cương chưa thể nói rộng hơn, sâu hơn về những mặt này nhưng lại phải công khai, trực tiếp khẳng định tính chất của văn hóa Việt Nam, vạch trần những hậu quả tai hại của chính sách văn hóa nô dịch của Pháp Nhật, kêu gọi thành lập mặt trận văn hóa chống lại xu hướng này: ” dưới quyền thống trị của đế quốc Pháp; văn hóa Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng tai hại làm cho nó bị nô dịch và chia rẽ, phát triển không đều; thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và dân tộc thống nhất”, “có xu hướng Pháp hóa hay Nhật hóa đến nỗi có có khi mất cả bản sắc tốt đẹp của dân tộc”. Những chính sách văn hóa công khai của Pháp-Nhật, dù ở góc độ nào cũng chỉ gây hại cho văn hóa dân tộc. Trong luận điểm này, do tính chất và hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, khó có thể tìm thấy một thái độ nào khác ngoài sự phủ định quyết liệt. Hồi ký của một số nhà hoạt động văn hóa thời đó đã kể lại rằng, chính sách văn hóa của Pháp -Nhật bấy giờ, nhấtlà tuyên truyền văn hóa ngu dân, chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc mù quáng, thuyết Đại Đông Á…không phải là không tạo ra những lầm lạc bởi sự ngộ nhận trong đội ngũ những nhà văn, nhà hoạt động xã hội. Quan điểm của Đề cương hết sức rõ ràng, đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nhận thức của một số người, nhất là “ức thuyết văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”. Do những điều kiện còn phải hoạt động bí mật mà bản Đề cương chưa thể nói rõ hơn nhiều nội dung cụ thể của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới, nhưng những cơ sở mang tính quyết định về một nền văn hóa mới được xây dựng trên một cơ sở kinh tế, một phương thức xã hội được tổ chức theo những nguyên tắc mới đã được xác lập. Nói như Giáo sư Đặng Thái Mai thì dựa trên nền tảng này mà Văn học khái luận của ông (ra đời một năm sau) đã phân tích, lý giải, giới thiệu nhiều vấn đề của văn học theo tinh thần mác xít này. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên viết về các vấn đề của văn học theo quan điểm mác xít hệ thống nhất, như là sự giải thích, nói rõ thêm những tư tưởng của bản Đề cương. Bảy chương sách, bao gồm những vấn đề thiết yếu nhất, như định nghĩa văn học, nguyên tắc văn học thể hiện ý thức hệ và phát triển gắn với sự tiến hóa của nhân loại, vấn đề sáng tác, tính giai cấp của các hình thái xã hội, các vấn đề về nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, tự do sáng tác và tính dân tộc, tính quốc tế của văn học. Hiển nhiên là Văn học khái luận cũng không tránh khỏi những bất cập bởi trình độ lý luận mác xít lúc đó được tiếp thu cũng còn ở mức độ cơ bản, dưới dạng nguyên lý chứ chưa đi sâu vào các vấn đề lý luận văn nghệ. Nhưng dù sao, Văn học khái luận cũng góp phần không nhỏ trong việc tuyên truyền những tư tưởng lớn của Đề cương vào đời sống xã hội. Nó đã để lại những ảnh hưởng tích cực như hồi ký của những người tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc kể lại.
Cần phải nhấn mạnh điều này: lần đầu tiên với Đề cương, vấn đề bản chất xã hội của văn học, rộng hơn là của văn hóa được chỉ ra từ nguồn gốc, từ những quan hệ máu thịt của nó với đời sống và vai trò, vị trí quan trọng của nó tham gia vào công cuộc cải tạo xã hội. Nó hoàn toàn không phải là thứ tháp ngà của nghệ sĩ, muốn thoát ly khỏi thực tế, chỉ để theo đuổi những ước vọng cá nhân như nhiều người đã ngộ nhận do sự bế tắc về sự nhận đường. Một điều đáng chú ý nữa là trong hoàn cảnh xã hội như thế (trong nước là ách đô hộ của Pháp-Nhật, tình hình quốc tế là chiến tranh thế giới đang diễn ra) nhưng Đề cương đã nói đến “những ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố vượt qua hết mọi trở lực để nảy nở (văn nghệ bất hợp pháp). Quan điểm biện chứng hướng đến tương lai mang tính dự cảm sáng suốt của Đề cương đã được chính lịch sử chứng minh nên sức hấp dẫn bởi cách đặt vấn đề mới mẻ, căn cứ trên những điều kiện chính trị, xã hội cụ thể là cơ sở cho những phân tích đầy sức thuyết phục của tác giả.
-Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam: Phần này nêu ra 5 nội dung lớn, mang ý nghĩa quan trọng về một cuộc cách mạng văn hóa sẽ diễn ra trong tương lai. Đó là thái độ của Đảng Cộng sản đối với cuộc cách mạng tinh thần. Đề cương khẳng định: cuộc cách mạng văn hóa rất cần cho một cuộc cách mạng xã hội, nó sẽ xảy ra khi cuộc cách mạng xã hội nổ ra và tất yếu phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, những phương thức tổ chức của nền văn hóa mới bây giờ chỉ là “dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”. Lần đầu tiên và cũng mang tính hệ thống hơn cả, Đảng Cộng sản khẳng định, trên “mặt trận” văn hóa, không phải và không thể làm một cuộc “cải cách văn hóa” mà phải là một cuộc “cách mạng” và cũng cần tận gốc, triệt để như cuộc cách mạng xã hội. Sau này, trong Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam lúc này (Tạp chí Tiên phong, số 2 năm 1945), đặc biệt là Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh trình bày rõ hơn, đầy đủ hơn vấn đề kế thừa di sản văn hóa dân tộc, đánh giá di sản văn hóa dân tộc và mục tiêu cụ thể cũng như nội dung của một nền văn hóa mới mang tính chất dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Văn bản khẳng định tầm quan trọng của cách mạng văn hóa ở chỗ nó làm nhiệm vụ “cải tạo xã hội”, góp phần xây dựng một xã hội mới, theo những nguyên tắc tổ chức và tính chất mới nên nó phải là “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, chỉ có “dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển” và chỉ có như vậy, văn hóa Việt Nam mới có thể “tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hóa mới”. Lần đầu tiên, Đảng Cộng sản nêu rõ nền văn hóa mới ” Về xã hội, lấy giai cấp công nhân làmgốc. Về chính trị, lấy dân tộc, dân chủ, nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc. Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm gốc. Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc”. Quan niệm này, về mặt văn hóa, hoàn toàn mang quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tuy không nói ra bằng lời, nhưng thấm đẫm tinh thần về mô hình và mối quan hệ của một hình thái kinh tế-xã hội của Mác. Khi xem xét các quan hệ kinh tế, xã hội và xác định tính chất của mô hình kinh tế-xã hội và những hình thái ý thức xã hội được xây dựng trên cơ sở của các quan hệ kinh tế-xã hội, Mác đã khẳng định tuy có những biểu hiện không hoàn toàn giống nhau ở nơi này hay nơi kia, nhưng trên những nét lớn nhất, những đặc điểm dễ nhận thấy nhất thì nhân loại đã trải qua 5 hình thái tổ chức kinh tế-xã hội, là dân chủ sơ khai, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội chủ nghĩa. Và ở mỗi hình thái kinh tế-xã hội ấy lại nảy sinh ra những hình thái tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng (mà văn hóa là một trong những hình thái ý thức ấy) tương ứng với nó. Do vậy tính chất “dân chủ” hay “xã hội chủ nghĩa” của văn hóa mới mà Đề cương nói đến ở đây chính là mô hình văn hóa hoàn toàn mới, tính chất của nền văn hóa ấy được xác định trên cơ sở tổ chức kinh tế-xã hội mới, nói cụ thể hơn là thuộc một chế độ xã hội được tổ chức sau khi cuộc cách mạng dân chủ nhân dân hoàn thành, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên bang Xô Viết.
Đề cương nêu ra ba phương châm lớn (văn bản gọi là ba nguyên tắc) của cuộc “vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này” là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa, ở mỗi mục đều có giảithích rõ nội dung cơ bản của phương châm đó là gì. Dân tộc hóa là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”, đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng” và khoa học hóa là “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”. Ba nguyên tắc lớn này phải thắng trong cuộc đấu tranh chống lại “những xu hướng bảo thủ, triết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm v.v…”đồng thời cũng chống cả “xu hướng văn hóa quá trớn của bọn Tờ rốt kít”. Rõ ràng, ba nội dung, ba phương châm, ba nguyên tắc này đã vạch ra những đường hướng cơ bản cho một nền văn hóa mới ở mục tiêu phải đạt đến, tính chất phải có và cả những nội dung cơ bản của nó. Ở những nguyên tắc lớn này, những yêu cầu về mặt chính trị, tư tưởng hệ được đặt ra ở bình diện thứ nhất. Nó mang tính nguyên tắc cao, rạch ròi nhưng vì thế cũng dễ thành khuôn cứng, dễ bỏ quan những vấn đề, hiện tượng nằm giữa những ranh giới ấy hoặc những nội dung mang tính kế thừa hoặc giao thoa giữa những nguyên tắc, lĩnh vực, giai đoạn. Ví dụ, nếu xét về mặt bản thể, những tư tưởng nhân văn của các thời kỳ văn hóa trước đó thuộc về những xu hướng, trào lưu, dòng văn hóa ngoài văn hóa tân dân chủ hay xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, có những giá trị văn hóa cũng mang tính lịch sử, có thể không phù hợp với tính chất, nội dung, yêu cầu của một nền văn hóa mới, nhưng đồng thời trong nó cũng có những yếu tố, nói như V. Lê nin, lại thuộc về nhân dân, mang tính chất dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Vấn đề là ở chỗ tiếp thu và “khước từ di sản nào” theo cách nói của V.Lênin ở đây chưa được vạch ra một cách thuyết phục. Vạch một đường ngăn giữa các giai đoạn, dòng…như thế dễ dẫn đến những cứng nhắc, những thiệt thòi và lúng túng khi phải giải quyết những trường hợp cụ thể. Điều này đã xảy ra trong thực tiễn khi đánh giá, phê phán, tiếp thu những di sản văn hóa quá khứ hoặc đụng đến những vấn đề đương đại vốn không đơn giản. Đề cương đặt vấn đề ba phương châm, thực chất là ba tính chất là gắn với truyền thống dân tộc, thuộc về nhân dân và thấm nhuần tinh thần khoa học như ba trụ cột cơ bản, đảm bảo cho văn hóa Việt Nam phát triển. Sau này, khi đã giành được chính quyền, Đảng Cộng sản đã nói rõ hơn thái độ của mình trong lĩnh vực văn hóa là phải gắn bó chặt chẽ với đời sống dân tộc, với truyền thống di sản của ông cha, gắn bó với đời sống nhân dân, phục vụ nhân dân và tất cả thái độ tiếp cận từng vấn đề, cả trong tiếp nhận di sản, trong nghiên cứu khoa học hay sáng tạo thì tư tưởng vì dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn của một nhãn quan khoa học vẫn là những nguyên tắc quan trọng nhất. Nếu chỉ nhìn nhận văn bản này như là sự chuẩn bị trong đêm trước của cuộc cách mạng xã hội, đã thấy tính chất thực tiễn và khoa học của cách tiếp cận vấn đề, mà nếu nhìn lại lịch sử hơn 70 năm ra đời và tác động đến đời sống của những quan điểm văn hóa này, mới thấy hết tầm nhìn xa trông rộng của những tư tưởng lớn về văn hóa.
Không phải là một văn bản nghiên cứu mà là một đề cương các nội dung, nguyên tắc chỉ đạo cho một cuộc vận động, đề cương hành động mà cái đích của nó là một cuộc cách mạng văn hóa trên cơ sở gắn với một cuộc cách mạng xã hội, không nhắm vào mục tiêu “cải cách văn hóa” mà là “cách mạng văn hóa”, Đề cương đã nêu ra những “nhiệm vụ cần kíp” của những nhà văn hóa mác xít trong thực tiễn là bằng mọi cách “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái hóa, nô dịch, văn hóa ngu dân và văn hóa phỉnh dân” để “phát huy văn hóa dân chủ”, trong đó “tranh đấu về học thuật, tư tưởng” (các trường phái triết học sai lầm “có ảnh hưởng tai hại” như triết học Khổng, Mạnh, chủ nghĩa duy tâm của Đêcac, Becson, Căng, Nitsơ v.v.. và phải khẳng định được vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đấu tranh về “tông phái văn nghệ”, làm cho “xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”, về tiếng nói, chữ viết, phối hợp trên các lĩnh vực bí mật và công khai, tuyên truyền, xuất bản, tổ chức các nhà văn, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng v.v…Tính chất trực diện, cách thức vận động và những nội dung được nêu ra rất cụ thể. Như đã trình bày ở trên, do quan niệm mà các lĩnh vực tư tưởng, học thuật, sáng tác văn nghệ được Đề cương nêu lên trước hết. Ở phần cuối này, những lĩnh vực ấy cũng được nhắc lại, trong đó nêu yêu cầu đấu tranh về trường phái, xu hướng (trong văn bản gọi là tông phái) phải được đặt lên hàng đầu, phải giải quyết từ cơ sở tư tưởng, cơ sở triết học làm nền tảng cho những học thuyết, trường phái ấy. Mục tiêu chính trị được đặt lên hàng đầu nên trong những nội dung được đề cập đến ở đây những vấn đề ấy cũng được đặt ở vị trí trọng yếu nhất. Trong đời sống văn chương bấy giờ, sự khủng hoảng, bế tắc của các trường phái lãng mạn, hiện thực, nhất là lãng mạn, đã bộc lộ rất rõ. Văn học lãng mạn, sau giai đoạn phát triển đầy mạnh mẽ, có nhiều đóng góp của nó, đã rơi vào khủng hoảng. Sự xuất hiện của những tổ chức và sáng tác của một số người cuối những năm 30, đầu những năm 40 đã báo hiệu sự đi xuống và xuất hiện những mầm mống bệnh hoạn, điều mà Nguyễn Tuân sau này nói là “nguy cơ của cả một nền văn học”. Chủ nghĩa hiện thực cũng đi qua giai đoạn phát triển cao nhất, đã có những thành tựu rực rỡ nhất và cũng thấp thoáng những dấu hiệu suy yếu hơn trước. Tính chiến đấu yếu hơn; năng lực phê phán xã hội thiếu mãnh liệt và trực diện hơn những năm 36-39. Đại diện xuất sắc nhất ở giai đoạn này như Nam Cao tuy vẫn sắc sảo, sâu sắc nhưng những vấn đề chính mà ông quan tâm như sự tha hóa của con người lại không hướng tới những xung đột xã hội, giai cấp, những hoàn cảnh rộng, mà đi vào những vấn đề đạo đức cá nhân, sự tồn vong của các cá nhân và những vấn đề của chính nó. Không phải cứ đi vào những vấn đề có ý nghĩa bao quát đến toàn xã hội, đám đông mới có cơ sở để tạo nên những tác phẩm lớn, nhưng vấn đề bấy giờ Đảng chủ trương hướng đến là những xung đột xã hội, giai cấp, vấn đề số phận dân tộc, đất nước hơn là vấn đề của số phận cá nhân. Chiến tranh, khủng hoảng xã hội đã làm cho văn học đánh mất dần đi những giá trị tích cực vốn có của nó nên Đề cương đặt vấn đề đấu tranh với những quan điểm duy tâm, siêu hình, những xu hướng thần bí, tắc tị trong văn chương, đấu tranh về tông phái văn nghệ là hoàn toàn căn cứ vào tình hình thực tiễn của đời sống văn học-một phương tiện có tác động khá trực tiếp đến đời sống tinh thần của xã hội.
4. Đánh giá về vai trò của văn hóa trong Cách mạng Tháng Tám 1945 và bài học lịch sử.
Đề cương văn hóa 1943: Là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản về lĩnh vực văn hóa, có thể nói rằng, những định hướng lớn về một nền văn hóa cần có, phải có trong tương lai, khi mà cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ chưa thành công, đã được hình thành trên những phương hướng, nội dung quan trọng nhất. Nhìn nhận nền văn hóa ấy phải được xây dựng trên cơ sở của một hình tháikinh tế-xã hội mới, do Đảng lãnh đạo, phảitrở thành một “mặt trận” mà người cộng sản phải nắm lấy, lãnh đạo và bắt nó phục vụ cho cuộc cách mạng xã hội là một bước tiến về nhận thức của Đảng về văn hóa. Đảng chủ trương có lãnh đạo được văn hóa “đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của đảng mới có hiệu quả”. Hiển nhiên, từ trong văn bản này, tư tưởng dùng văn hóa, trong đó có văn nghệ như một phương tiện phục vụ cho công tác tuyên truyền, vận động quần chúng làm cách mạng theo những mục tiêu của Đảng đã được xác định như những nhiệm vụ xã hội của văn nghệ. Quan niệm ấy xuyên suốt cho đến những giai đoạn sau. Tư tưởng này vừa tạo nên sự thống nhất, tập trung của văn nghệ, vừa tiềm ẩn những bất cập của nó như đề cao tính chất tuyên truyền, chức năng nhận thức, phản ánh, giáo dục, khẳng định bản chất xã hội của văn nghệ mà ít chú ý đến đặc trưng của nó. Trong hoàn cảnh bấy giờ, đưa ra được những vấn đề này, biến nó thành tư tưởng để vận động cho một nền văn hóa mới, chưa có hoặc chính xác hơn là mới chỉ là những mầm, những nụ, chưa được thừa nhận nhưng đã chứng tỏ sức sống của nó là một sáng tạo của Đảng, bởi chỉ có nêu ra được những hướng đi như thế mới có khả năng tập hợp được lực lượng và Đề cương trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng rất lớn những người có tư tưởng tiến bộ bấy giờ trong mặt trận Văn hóa cứu quốc. Cần phải nhìn thấy tính chất cứu quốc, tinh thần Phục hưng và cả tinh thần Khai sáng của Đề cương văn hóa mới này, nhận thức được tính chất tiên phong, mở đường của nó cho các văn nghệ sĩ trở về với dân tộc, gắn bó với nhân dân trong sự nghiệp cầm bút của mình mới thấy hết được thái độ của Đảng không chỉ đối với cuộc cách mạng xã hội mà còn là những mong muốn xây dựng một nền tảng tinh thần mới cho xã hội trong tương lai.
Coi văn hóa là một mặt trận và sức sống của nó chỉ có thể được khẳng định trong những thử thách ở đời sống, Đề cương đã hơn một lần nhấn mạnh đến sự cần thiết, tính chất “cách mạng”, “mới” của nền văn hóa đi liền với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Và chỉ có hoàn thành cuộc cách mạng này thì cách mạng xã hội mới được coi như thành công. Trong những năm tháng ấy, đánh giá về vai trò to lớn và sự cần thiết của văn hóa với đời sống xã hội là một bước tiến lớn về nhận thức của Đảng đối với văn hóa dân tộc.
Những phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng, cho đến tận bây giờ vẫn chứng tỏ tính chất đúng đắn về đường hướng nhưng cũng cần phải nhìn thấy và đánh giá đúng mức những điều còn giản đơn trong cách giải thích nội dung khái niệm, cách gò những yêu cầu chính trị vào nội dung khoa học của khái niệm. Nhưng điểm quan trọng nhất là qua bao nhiêu thăm trầm, biến động, con đường trở về với nhân dân, dân tộc, gắn bó máu thịt với cuộc sống của nhân dân mới là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho văn hóa dân tộc phát triển.
Từ quan điểm lịch sử, không thể không nhận thấy những khiếm khuyết của Đề cương, như trong xác định phạm vi đối tượng, lĩnh vực văn hóa, những nét đặc thù của khái niệm cũng như trong đánh giá di sản, xác định tính chất hoặc phân kỳ lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa dân tộc v.v…Điều ấy hoàn toàn có thể hiểu được bởi trong những điều kiện hoạt động bất hợp pháp, thiếu thốn tư liệu, mặt bằng lý luận còn thấp,v.v…đã không cho phép tác giả đi sâu vào những vấn đề chuyên môn. Mặt khác lại cũng phải nhận thấy đây là một bản Đề cương, một chương trình, kế hoạch hành động mang tính chất cương lĩnh của một tổ chức chính trị ở một lĩnh vực vốn rộng về phạm vi, phong phú về nội dung, khó có quan điểm thống nhất ngay cả với những nhà chuyên môn, phức tạp về cách tiếp cận và quan điểm đánh giá…thì những nét lớn nhất của Đề cương, sau hơn 70 năm vẫn giữ được tính đúng đắn về mặt khoa học và tính thực tiễn về mặt vấn đề. Đó là một thành công, một đóng góp của Đảng đối với văn hóa dân tộc, không thể phủ nhận. Lướt qua những giai đoạn phát triển, đổi thay hơn 70 năm qua, nhìn lại những quan điểm lớn nhất của Đảng về văn hóa mới thấy hết những minh triết của cách tiếp cận vấn đề, tính thực tiễn và khoa học của những luận điểm. Bao trùm lên tất cả là tính chất cách mạng, thái độ nhất quán và những nguyên tắc của Đảng về một nền văn hóa mới, được định hướng ngay từ khi nó chưa được xác lập, chưa thật rõ hình hài nhưng những cái mới của nó đã hé lộ, sức sống của nó ngay từ những buổi đầu tiên đã được khẳng định. Chính vì thế mà tương lai của những tư tưởng lớn ấy, những định hướng ấy đã bám rễ vào đời sống và chứng tỏ sự đúng đắn ngay từ những buổi đầu.
– Sự cởi mở về khâu tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân, cố kết cộng đồng trong những ngày đầu cách mạng đã làm thay đổi nhận thức xã hội. Sự tin yêu vào chủ trương cứu quốc, văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đã khiến nhiều văn nghệ sĩ, nhân sĩ, các nhà hoạt động văn hóa từ bỏ quan niệm cũ, chấp nhận một thế giới quan và nhân sinh quan mới. Đây là cuộc nhận đường đầu tiên của đội ngũ trí thức để đến với Cách mạng. Họ là những người tiên phong đi đến với cách mạng và là lực lượng chủ chốt để tham gia xây dựng nền văn hóa mới. Nguyễn Tuân đã nói đến việc sẵn sàng “mang những đứa con tinh thần” trước đây của mình “tàn sát” cả đi để đến với nhân dân, cách mạng. Nhưng “cái thủa ban đầu dân quốc” này sau đó đã vấp phải những ngộ nhận, giản đơn, mang ý thức hệ làm cho sức lan tỏa, tập hợp lực lượng có suy giảm.
– Khi mục tiêu đã xác định, Đảng đã thành lập ra một tổ chức phù hợp để lãnh đạo văn hóa, gây ảnh hưởng trong đội ngũ trí thức, tập hợp lực lượng để tuyên truyền trong nhân dân, giác ngộ những lực lượng có ảnh hưởng trong xã hội nhưng chưa hiểu và đi theo đường lối của Đảng. Đó là một kinh nghiệm quý báu, sau này được vận dụng và phát huy hiệu quả trong sự nghiệp chống Mỹ và tay sai ở miền Nam, nhất là trong việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Mặt trận Dân chủ và các phong trào xã hội chính trị khác.
– Lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn theo tinh thần biện chứng, chủ trương văn hóa soi đường cho quốc dân đi, kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến là sự vận dụng sáng tạo chủ trương coi văn hóa như một bộ phận của cuộc cách mạng xã hội, vừa có tính chất then chốt, mở đường, vừa là một bộ phận không thể tách rời của cuộc cách mạng xã hội. Do tình hình chiến tranh kéo dài, chủ trương này sau đó bị đơn giản hóa thành quan niệm văn hóa phục vụ chính trị, phản ánh các nhiệm vụ của cuộc đấu tranh chính trị nên đã có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển đa dạng của văn hóa.
– Do chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về những đặc trưng của văn hóa, trong quản lý, chỉ đạo một lĩnh vực vừa mới mẻ, vừa chuyên sâu lại đang hình thành, nên dần dần cả trong chỉ đạo lẫn trong tổ chức thực hiện đường lối văn hóa kháng chiến bộc lộ những nhược điểm như giáo điều, công thức, chính trị hóa nhiều nội dung rất chuyên sâu của văn hóa, làm phương hại đến sự lan tỏa của mục tiêu cách mạng. Những nhược điểm này còn kéo dài ra những năm sau./.
Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
(Tất cả những đoạn trích trong Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 đều theo bản in nhân kỷ niệm 70 năm ngày ra đời của văn bản lịch sử này)
Phải Hiểu Đúng Giá Trị Lịch Sử Của Cách Mạng Tháng Tám Năm 1945
Kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám thành công (19-8-1945 – 19-8-2020) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2-9-1945 – 2-9-2020) _Đồ họa: Vũ Trung Duy
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài, cùng những người bất mãn với chế độ, những kẻ cơ hội chính trị đã không ngừng xuyên tạc, công kích nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán
Cương lĩnh
, đường lối của Đảng, thì một trong những thủ đoạn thâm độc của họ là bóp méo sự thật lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khi thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm của Đảng, họ thường hạ thấp ý nghĩa của những thắng lợi to lớn của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cương lĩnh
Không thể phủ nhận là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong điều kiện khách quan có những yếu tố thuận lợi. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tạo cho dân tộc ta một cơ hội hết sức thuận lợi: Kẻ thù của dân tộc ta lúc đó là thực dân Pháp và phát-xít Nhật đã tự loại nhau. Trên thực tế, từ sau đêm 9-3-1945, đối tượng chủ yếu của cách mạng Việt Nam là phát-xít Nhật. Khi đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát-xít Nhật bị Hồng quân Liên Xô đánh bại ở Mãn Châu (Trung Quốc), giáng đòn quyết định buộc phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ở Việt Nam lúc đó quân Nhật hoảng loạn, quân Pháp chưa đủ sức quay lại, chính quyền tay sai hoang mang cực độ, tạo điều kiện khách quan chín muồi cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.
Tuy nhiên, dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu mà điều kiện chủ quan chưa chín muồi cho việc chớp thời cơ, phát động khởi nghĩa, thì cách mạng cũng không thể thành công. Thực tế đã cho thấy, cũng trong hoàn cảnh khách quan thuận lợi (thắng lợi của Đồng minh và thất bại của phát-xít Nhật), không phải nước nào cũng tiến hành được một cuộc khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc. Tại thời điểm đó, chỉ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, toàn dân đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa lật đổ sự thống trị của phát-xít Nhật và bọn tay sai, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đầy đủ lực lượng cách mạng của Đảng ta. Đồng thời, nó cũng là kết quả của việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình, dự đoán chính xác thời cơ và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên chớp thời cơ để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Trong hai yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan là động lực chính quyết định đến sự thành, bại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ với biết bao máu xương của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng từ cuối thế kỷ XIX. Đảng Cộng sản Đông Dương – người kế tục vai trò lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước trước đó – đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 lên một tầm cao mới với một cương lĩnh chính trị đúng đắn cùng trình độ tổ chức đường lối cách mạng sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc bấy giờ. Trong đó, việc xác định chính xác đối tượng cần phải đánh đổ là thực dân Pháp cùng lực lượng tay sai của chúng được khẳng định từ sớm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2-1930).
Mô phỏng những ngày đấu tranh Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong Chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc biệt chào mừng Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: “Lời thề độc lập” (9-2020)_Ảnh: TTXVN _Nguồn: hochiminh.vn
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào giải phóng dân tộc trải qua nhiều chặng đường thăng trầm, quyết liệt, dẫn tới cao trào cách mạng mới sau khi Mặt trận Việt Minh được thành lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (năm 1939), Trung ương Đảng đã họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939. Hội nghị đã phân tích sâu sắc bản chất của cuộc chiến tranh, đặc điểm cơ bản của cách mạng Đông Dương và nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”(1). Hội nghị còn chỉ rõ: Chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa – phong kiến lên đến đỉnh tột cùng, đòi hỏi phải được giải quyết, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; Hội nghị chủ trương đấu tranh chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát-xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hòa bình, cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn.
Ngày 22-9-1940, quân phát-xít Nhật tràn vào Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát-xít Pháp – Nhật. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (tháng 5-1941) nhận định: Lúc này, ở Đông Dương, lực lượng phản cách mạng gồm có: “1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay sai của chúng. 2. Phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng nó”(2). Nguyện vọng và mục đích của nhân dân Đông Dương hiện nay là đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập. Lực lượng cách mạng ở Đông Dương hiện nay là nhân dân Đông Dương, không phân biệt dân tộc, giai cấp. Đánh Pháp, đuổi Nhật là nhiệm vụ chung của nhân dân Đông Dương.
Sau ngày phát-xít Nhật đảo chính lật đổ quyền thống trị của thực dân Pháp (ngày 9-3-1945), tình hình chính trị ở Đông Dương có những thay đổi lớn. Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với nhan đề “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ: “a, Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa – mặc dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. b, Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính – kẻ thù cụ thể trước mắt – duy nhất của nhân dân Đông Dương. c, Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này”(3).
Ngày 24-3-1945, Chính phủ Pháp ra tuyên bố với những lập luận hết sức xảo trá hòng che đậy và lừa dối dư luận nhưng vẫn để lộ dã tâm sẽ chiếm lại Đông Dương sau khi Nhật thất bại. Từ đó, Pháp ráo riết hoạt động, từ Pa-ri, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đờ Gôn, qua Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông (SLFEO) đặt ở Can-cút-ta (Ấn Độ), đến Phái bộ 5 do Xanh-tơ-ny đứng đầu đặt bản doanh tại Côn Minh (Trung Quốc). Đồng thời, Chính phủ Pháp chỉ thị cho Đại sứ của mình ở Trung Quốc và các viên tướng cầm đầu số lính Pháp bị Nhật đánh bại sang Hoa Nam (Trung Quốc) phối hợp với Phái bộ 5 thực hiện các âm mưu chuẩn bị tái xâm lược Đông Dương.
Thực dân Pháp tổ chức các toán biệt kích xâm nhập vào Việt Nam bằng hai đường: đường biển, do Phái bộ 5 chỉ huy, xuất phát từ một số đảo ở Hoa Nam (Trung Quốc); đường hàng không, xuất phát từ căn cứ quân sự ở Can-cút-ta, do máy bay của tình báo Anh đưa vào và nhảy dù xuống những địa điểm đã chọn.
Vào 18 giờ ngày 15-8-1945, hai ca-nô có vũ trang chở chừng 30 người cả Pháp và Việt đi qua Quảng Yên, hướng về cảng Hải Phòng. Cùng ngày 15-8-1945, một toán biệt kích đường biển gồm 5 tên do Blăng-sa cầm đầu đổ bộ vào Hải Phòng, định đi ngược sông Hồng lên Hà Nội. Đường sông bị cấm, cả 5 tên bị quân Nhật bắt giam, đến ngày 23-8-1945 mới đến được Hà Nội. Ngày 21-8-1945, một toán gồm 5 người Pháp và 1 người Việt nhảy dù xuống vùng tháp Mỹ Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, bị du kích ta tóm gọn. Ngày 22-8-1945, một toán biệt kích người Pháp do thiếu tá tình báo Xanh-tơ-ny – người phụ trách Phái bộ 5 – cầm đầu bám theo máy bay chở đoàn OSS của Mỹ từ Côn Minh đến Hà Nội. Đêm 22-8-1945, có 3 toán biệt kích nhảy dù: một toán do Mét-xme cầm đầu nhảy dù xuống Phúc Yên, bị dân quân ta tóm gọn (đến tháng 10-1945 mới được phóng thích); một toán do Xê-đin cầm đầu nhảy dù xuống Tây Ninh, bị quân Nhật bắt được và đưa đi Sài Gòn; một toán nhảy dù xuống vùng Hiền Sĩ (Nam Giao, tỉnh Thừa Thiên), định bắt liên lạc với Bảo Đại nhưng bị dân quân ta bắt gọn. Ngày 23-8-1945, một nhóm 4 tên dùng xuồng lớn đột nhập vào cửa Thuận An, bị dân quân ta bắt. Ngày 27-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng Lai Bằng – cách Huế khoảng 20km, bị dân quân ta bắt. Tàu biển Cray-xắc đưa 16 tên đổ bộ lên đảo Cát Bà cũng bị quân ta tóm gọn. Ngày 28-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng đường ven biển gần thị trấn La Gi và mấy ngày sau, một toán nữa nhảy dù xuống khu vực suối Kiết ở Tánh Linh (tỉnh Bình Thuận) đều bị dân quân ta bắt giữ…
Đấy là những kẻ thù từ nước ngoài thâm nhập vào nước ta để chống phá Cách mạng Tháng Tám. Dù chúng vào bằng đường hàng không hay đường thủy thì cũng cho thấy một điều là: Đây là những hành động không hề đơn độc, mà là có ý đồ móc nối với những tên tay sai cũ của thực dân Pháp hòng tổ chức lực lượng chống đối chính quyền cách mạng, chuẩn bị cơ sở cho quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam sau khi phát-xít Nhật đầu hàng.
Quân Nhật tuy đã tuyên bố đầu hàng Đồng minh nhưng vẫn còn nguyên lực lượng và trang bị vũ khí, khí tài chiến tranh trong tay! Đảng ta chủ trương vận động sĩ quan và binh lính Nhật “án binh bất động”, trao vũ khí cho Việt Minh và Quân giải phóng Việt Nam để được bảo toàn tính mạng. Tuy nhiên, không phải ở đâu và lúc nào họ cũng đều hưởng ứng chủ trương đó của ta. Không ít nơi, quân Nhật vẫn có hành động quân sự chống phá ta. Ở huyện Lý Nhân (tỉnh Hà Nam), quân Nhật không những không giao kho thóc cho ta mà còn gọi viện binh từ Phủ Lý về, nổ súng chống lại lực lượng khởi nghĩa vào ngày 20-8-1945. Ở Hà Nội, quân ta tấn công vào trại bảo an binh, quân Nhật đưa xe tăng đến bao vây trại, hỗ trợ cho những phần tử bảo an ngoan cố và đòi tước vũ khí của tự vệ ta. Ta thuyết phục, quân Nhật mới chịu rút. Ở Lộc Ninh, sĩ quan Nhật ra lệnh bắn vào dân quân và đồng bào ta. Giao tranh đã nổ ra và chúng chỉ chịu đầu hàng sau khi một lực lượng của chúng bị quân ta tiêu diệt. Ở Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi), quân Nhật vẫn tiến hành các hoạt động khủng bố Việt Minh, bị dân quân ta đánh trả mới chịu co cụm về thị xã. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu chống quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên từ ngày 19 đến ngày 24-8-1945, lực lượng cách mạng tiêu diệt một số tên, buộc quân Nhật ở thị xã và các đồn lẻ trong tỉnh Thái Nguyên phải hạ vũ khí, bức hàng toàn bộ hệ thống chính quyền và quân đội tay sai của Nhật trong tỉnh.
Với 82.260 quân phát-xít Nhật chờ ngày nộp vũ khí cho Đồng minh trong bối cảnh chính quyền cách mạng đang trong giai đoạn “trứng nước”, rõ ràng lực lượng này vẫn là một đối tượng mà ta phải tập trung đối phó.
Sau đêm Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), hệ thống chính quyền làm tay sai cho Nhật ở Việt Nam đã được dựng lên trên cơ sở hệ thống chính quyền của Pháp vừa sụp đổ. Trong cao trào kháng Nhật, cứu quốc, trước sự tiến công của Việt Minh, bộ máy chính quyền tay sai bị suy yếu, bất lực và đi đến tan rã từng bộ phận, trước hết là cấp xã, rồi đến cấp huyện. Đến Tổng khởi nghĩa, chính quyền ở nhiều huyện nhanh chóng thuộc về nhân dân, nhưng cũng ở nhiều nơi, chúng ta phải dùng áp lực của quần chúng kết hợp với trấn áp bằng bạo lực, trừng trị những tên ngoan cố để giành chính quyền. Ở cấp tỉnh và cấp kỳ, cuộc đấu tranh để xóa bỏ bộ máy chính quyền tay sai diễn ra gay go, phức tạp hơn. Dựa vào lực lượng bảo an, vào tổ chức phản động và hy vọng được quân Nhật bảo vệ, hầu hết thị trưởng, tỉnh trưởng và khâm sai đều có hành động phản kháng trước cao trào cách mạng của quần chúng. Đối với đối tượng này, ta đã phải kết hợp thuyết phục với dùng áp lực của quần chúng và lực lượng vũ trang. Ngày 23-8-1945, cuộc khởi nghĩa ở Huế đã nổ ra với sức mạnh của lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế có ý nghĩa hết sức to lớn, vì Huế là dinh lũy của chế độ phong kiến, trung tâm đầu não của chính quyền bù nhìn cả nước, nơi đóng quân và bộ máy tối cao của cố vấn Nhật.
Cùng với việc đánh đổ bộ máy chính quyền tay sai, cuộc đấu tranh với các lực lượng vũ trang do Nhật tổ chức và các đảng phái chính trị phản động cũng diễn ra hết sức gay go, phức tạp.
Hàng chục vạn lính bảo an và cảnh sát do Nhật tổ chức, trang bị và huấn luyện đã được giao cho những tên tay sai người Việt chỉ huy. Bọn này vốn là thành viên của các tổ chức chính trị phản cách mạng hoặc sĩ quan của Pháp chuyển sang làm tay sai cho Nhật. Bằng công tác binh vận, Việt Minh đã xây dựng cơ sở bí mật trong lực lượng vũ trang của địch. Đến ngày Tổng khởi nghĩa, nghe theo lời hiệu triệu cứu nước của Việt Minh, cùng với hoạt động của các cơ sở cách mạng ở bên trong cũng như sức ép của lực lượng chính trị quần chúng nổi dậy, nhiều đơn vị vũ trang của địch tự nộp vũ khí đầu hàng. Tuy vậy, ở rất nhiều nơi, để đập tan sự kháng cự của những tên cầm đầu ngoan cố, chúng ta phải sử dụng sức mạnh quân sự để trấn áp, giành chính quyền.
Ở miền Nam, hai triệu tín đồ đạo Cao Đài có vũ trang do Trần Quang Vinh cầm đầu theo Nhật chống lại cách mạng.
Cả nước lúc bấy giờ có đến mấy chục tổ chức chính trị phản động có hoặc không có vũ trang, do Pháp, Nhật hoặc Quốc dân Đảng Trung Hoa dựng nên. Trong đó, một số tổ chức từng theo Pháp, sau chuyển sang làm tay sai cho Nhật; một số tổ chức theo Nhật bị Pháp đàn áp và giam cầm, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì được Nhật “hà hơi tiếp sức”, tiến hành chống phá cách mạng. Các cá nhân và tổ chức từng làm tay sai cho Pháp và phải nằm im sau ngày Nhật đảo chính Pháp, trước tình hình mới, bắt đầu ngóc đầu dậy với hy vọng Pháp quay trở lại. Các tổ chức phản động khác từng được bọn quân phiệt phản động Trung Hoa Dân quốc nuôi dưỡng thì trong bối cảnh quân đội Trung Hoa Dân quốc tràn vào Việt Nam với danh nghĩa quân đồng minh giải giáp quân Nhật, cho rằng đây là cơ hội thuận lợi để nhảy ra cướp thành quả cách mạng của nhân dân ta. Điều cực kỳ nguy hiểm là dù mỗi tổ chức phản động đó có những mưu đồ, tính toán riêng nhưng đều có chung mục tiêu là lật đổ chính quyền cách mạng!
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh, nhân dân cả nước vùng dậy cướp chính quyền, làm Cách mạng Tháng Tám thành công (Trong ảnh: Những ngày Tháng Tám sôi sục ở Hà Nội (ảnh trái) và ở Sài Gòn (ảnh phải)) _Nguồn: hochiminh.vn
Trong hoàn cảnh như vậy, để giành thắng lợi, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phải làm tê liệt và tan rã tất cả các tổ chức chính trị phản động đó. Rõ ràng, đây là công việc không hề đơn giản trong điều kiện lực lượng vũ trang của ta còn chưa đủ mạnh. Để đập tan sự chống đối của các thế lực phản động, bóp chết ngay từ trong “trứng nước” những âm mưu, hành động xâm lược của thực dân Pháp sau khi bị Nhật đảo chính, đạp tung cánh cửa cản trở con đường tiến lên giành thắng lợi, Đảng ta phải sử dụng rất nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh. Không chỉ tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh, không chỉ biết phân hóa kẻ thù, mà Đảng ta còn kiên quyết lãnh đạo quần chúng nổi dậy trừng trị những tên ác ôn ngoan cố, sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp, đè bẹp sự phản kháng của các lực lượng quân đội phát-xít Nhật cũng như làm thất bại ngay từ đầu âm mưu trở lại thống trị Đông Dương của thực dân Pháp dù phải hy sinh xương máu.
Trong khi lực lượng chống cộng hay định kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình xuyên tạc lịch sử, thì không ít người vẫn tôn trọng sự thật khách quan khi nghiên cứu, đánh giá về Cách mạng Tháng Tám. William J. Duiker, một nhà sử học Mỹ có khá nhiều nghiên cứu về Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tách biệt rõ những “hoàn cảnh ngẫu nhiên” thuận lợi cho Cách mạng Tháng Tám với nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định thuộc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. William J. Duiker cho rằng: “Nhưng chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Ở các xứ thuộc địa khác, khoảng trống ấy (tức thời cơ – TG) có thể được lấp đầy bởi lực lượng dân tộc chủ nghĩa không Cộng sản. Nhưng ở Việt Nam, các phần tử dân tộc chủ nghĩa đã không thể đứng lên chấp nhận thách thức (…). Chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc. Điểm cuối cùng này mới là quan trọng”(4).
Thực tế lịch sử nêu trên hoàn toàn bác bỏ luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không có đối tượng, Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi của Đảng ta lúc bấy giờ) chỉ biết lợi dụng thời cơ, và thắng lợi của cuộc cách mạng này “là sự ăn may của lịch sử!”./.
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 535 (2) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 118 (3) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 366 (4) William J. Duiker: The Communist Road to Power in Vietnam, Boulder Co., Westview Press, 1981, tr. 100 – 101.
Theo TS. TRẦN TĂNG KHỞI/Tạp chí Cộng sản
Tuần 9. Khái Quát Văn Học Việt Nam Từ Đầu Thế Kỉ Xx Đến Cách Mạng Tháng Tám Năm 1945
Ngày soạn: Tiết PPCT: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945I.MỤC TIÊU 1.Về kiến thức: HS cần nắm:– Hiểu được một số nét nổi bật tình hình xã hội và văn hóa Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng tám năm 1945. Đó là cơ sở, điều kiện cần thiết để hình thành nền văn học Việt Nam hiện đại.– Nắm được một số xu hướng, trào lưu văn học Việt Nam trong thời kì này.– Nắm vững những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam trong thời kì này.2.Về kỹ năng-Rèn luyện cho học sinh kỹ năng khái quát những đặc trung cơ bản văn học Việt Nam hiện đại trong thời kì này. Để từ đó hình thành cho em khả năng liên kết giữa kiến thức khái quát và kiến thức cụ thể.-Nhận xét, đánh giá, phân tích những tác giả, tác phẩm văn học trong thời kì này.3.Về tư duy, thái độThấy được tầm quan trọng trong việc chuyển đổi văn học theo hướng hiện đại hóa và hình thành nên nền văn học Việt Nam hiện đại.4.Định hướng phát triển năng lực– Phát triển năng lực thu nhận, xử lý thông tin.– Phát triển năng lực khái quát, tổng hợp.– Phát triển năng lực ngôn ngữ và tư duy.II.BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ YÊU CẦU CẦN ĐẠTNội dungNhận biếtThông hiểuVận dụng thấpVận dụng cao
1.Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa– Khái niệm “hiện đại hóa” trong văn học Việt Nam trong thời kì này.– Xã hội Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945.– Xác định được ba giai đoạn văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng 8 năm 1945.
– Hiểu được khái niệm hiện đại hóa trong văn học Việt Nam hiện đại.– Hiểu được bối cảnh xã hội Việt Nam trong thời kì này( kinh tế, cơ cấu xã hội, văn hóa).– Hiểu được những đặc điểm cơ bản, thành tựu văn học trong các giai đoạn này.– Giải thích được vì sao cần phải chuyển đổi nền văn học từ trung đại sang hiện đại, và so sánh sự khác biệt giữa trung đại và hiện đại( quan niệm, hệ thống thi pháp, chủ thể sáng tạo,..)– Hãy đặc thời kì này vào tiến trình lịch sử văn học để thấy được tầm quan trọng của thời kì này.– Minh họa bằng những tác giả và tác phẩm cụ thể, từ đó so sánh với thời kì trung đại.
2.Văn học hình thành hai bộ phận và phân hóa thành nhiều xu hướng vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển.– Biết được hai bộ phận văn học: công khai và không công khai.
-Hiểu được khái niệm công khai và không công khai.-Hiểu được những đặc trưng cơ bản của hai bộ phận này.-So sánh hai bộ phận này.– Giải thích nguyên nhân vì sao hình thành nên hai bộ phận này trong cùng một thời kì. -Chọn một tác phẩm văn học thuộc một trong hai bộ này và chỉ ra vì sao nó thuộc trong bộ phận đó.
3.Văn học phát triển với một tốc độ hết sức nhanh chóng.-Nêu sự phát triển nhanh chóng của văn học trong thời kì này.-Hiểu được nguyên nhân của việc phát triển nhanh chóng của văn học trong giai đoạn này.-Ở thời kì này đã xuất hiện những thể loại văn học nào? Từ đó chỉ ra sự phát triển của nó.-Chọn một tác phẩm văn học thuộc thể loại vừa kể trên để phân tích sự phát triển mạnh mẽ.
III. CHUẨN BỊ-Học sinh chuẩn bị: Kiến thức bài cũ, sách giáo khoa, vở ghi bài và chuẩn bị bài mới theo hướng dẫn của giáo viên.– Giáo viên chuẩn bị: Giáo án, sách giáo khoa, bảng phụ.V. TIẾN TRÌNH BÀI HỌC1. Ổn định lớp: 1 phút2. Kiểm tra bài cũ: 2 phút.3. Bài mới:a.Giới thiệu bài mớiVăn học Việt Nam là một nền văn học thống nhất, luôn vận động và chuyển đổi. Các nhà nghiên cứu văn học đã thống nhất trong việc phân chia các thời kì văn học cũng như giai đoạn văn học. Trong mỗi thời kì cũng như giai đoạn sẽ có những nét riêng. Thật vậy, Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng tám năm 1945 có hoàn cảnh tác động vào thời kì này, những đặc điểm cơ bản cũng như thành tựu
Vai Trò, Vị Trí Của Doanh Nhân Trong Xã Hội
Trong lịch sử phát triển xã hội của loài người, có thể nhận ra một tầng lớp người mà có lúc bị gọi là con buôn, lúc lại là thương nhân, và nay gọi là doanh nhân. Đó là một tầng lớp có một vai trò, vị trí quan trọng, không thể thiếu trong mọi xã hội. Mặc cho có lúc, do nhận thức chưa chuẩn người ta đã phủ nhận vai trò của họ, nhưng vị trí đó vẫn tồn tại một cách khách để duy trì nhu cầu cuộc sống của con người, duy trì sự tồn tại của nền kinh tế.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại và tổ chức xã hội hiện nay, nhu cầu cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của từng cá nhân và của cả cộng đồng xã hội đã cao hơn nhiều so với trước đây. Ngay cả cuộc sống của một người dân bình thường trong một quốc gia phát triển trung bình cũng có thể cao hơn những gì mà giới quý tộc, thậm chí vua chúa ngày xưa thụ hưởng. Do đó đặc tính, khả năng của doanh nhân so với thương nhân hay con buôn trước đây cũng rất khác.
Nếu trước kia, thương nhân chỉ là người có khả năng nhận dạng ra của cải hàng hóa ở nơi thừa để làm nhiệm vụ đáp ứng cho nơi thiếu thì doanh nhân ngày nay là người tạo ra những sản phẩm hàng hóa mới, tạo nên những nhu cầu mới cho xã hội. Họ còn hướng dẫn xã hội dùng hàng hóa đó không những ở khía cạnh công năng, mà còn thụ hưởng cả về cái đẹp cùng những nét văn hóa của sản phẩm. Đôi lúc, trị giá văn hóa (tính ra bằng tiền) của sản phẩm còn lớn hơn nhiều lần so với trị giá của công năng. Những sản phẩm thời trang, sản phẩm tiêu dùng cao cấp là một minh chứng.
Bên cạnh những nhận dạng về doanh nhân thời nay như nêu trên, cần biết làm cách nào để có một tầng lớp doanh nhân đúng tầm vóc. Kinh tế học là môn học cung cấp cho ta những kiến thức về kinh tế, không chỉ cho ta kiến thức về sử dụng tài nguyên, lao động một cách tối ưu, mà còn cung cấp các kiến thức sản xuất – kinh doanh, cách thức sử dụng của cải vật chất, đồng vốn của nhà đầu tư, của xã hội một cách có hiệu quả nhất. Đó là những kiến thức mà doanh nhân nên được trang bị trong nền kinh tế hôm nay.
Để trở thành một doanh nhân thực sự, không phải chỉ học Kinh tế học là đủ, mà còn phải hội đủ nhiều yếu tố quan trọng khác nhau. Theo sự trưởng thành của doanh nghiệp, doanh nhân càng phải thể hiện đầy đủ năng lực và phẩm giá để đủ tầm dẫn dắt doanh nghiệp lớn mạnh.
Trong xã hội chúng ta ngày nay, sự nhìn nhận về người làm nghề kinh doanh còn nhiều điều chưa đúng. Luật lệ quản lý kinh tế cũng còn nhiều hạn chế. Để trở thành doanh nhân thành đạt, vừa làm giàu cho bản thân, vừa góp phần phát triển kinh tế quốc gia thì doanh nhân phải biết kinh doanh đúng pháp luật, đúng đạo đức xã hội. Thế nên lượng doanh nhân giỏi, có tầm cỡ của Việt Nam chưa nhiều. Sự thành đạt ở đẳng cấp như thế không phải chỉ cần sự nỗ lực của bản thân doanh nhân, mà còn phải có yếu tố môi trường xã hội, trong đó luật lệ của Nhà nước có tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh hay không là một yếu tố có tính chất quyết định.
Trong tình hình thế giới hiện nay, xây dựng được một đội ngũ doanh nhân yêu nghề, có kiến thức, có tấm lòng với xã hội, có hoài bão với đất nước là một điều mong mỏi của xã hội. Vì đó là lực lượng quan trọng nhất trong công cuộc hội nhập với thế giới để rút ngắn thời gian đưa nước ta vào hàng ngũ những nước phát triển. Đội ngũ này phải được rèn luyện trong môi trường cạnh tranh công bằng (mọi doanh nghiệp đều được đối xử bình đẳng trong nền kinh tế về quyền tự chủ kinh doanh, được hưởng sự công bằng trong sử dụng vốn xã hội, tài nguyên thiên nhiên…). Có như thế, tài năng của doanh nhân mới có dịp thăng hoa, từ đó họ mới có đủ khả năng cạnh tranh thành công trên thương trường quốc tế, góp phần bảo vệ quyền lợi của đất nước.
Nếu vẫn còn duy trì tình trạng dành đặc quyền đặc lợi cho một loại hình doanh nghiệp nào đó thì không những làm cho vốn, tài nguyên quốc gia không được sử dụng hiệu quả, mà còn làm hư hỏng một bộ phận trong đội ngũ doanh nhân. Cơ chế quản lý kinh tế xã hội không thể là “xin – cho”, buộc doanh nhân phải đáp lại bằng phương thức đút lót để cùng tham gia chia chác cái bánh đặc quyền đặc lợi. Hậu quả của cơ chế “xin – cho” nếu tiếp tục kéo dài sẽ là một thảm họa cho đất nước.
Trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, sự cạnh tranh trên thương trường ngày càng phức tạp. Doanh nhân không thể dựa vào sự bảo hộ của Nhà nước và càng không thể thông qua mối quan hệ với các quan chức để có những đặc quyền đặc lợi. Nguồn lợi nhuận của một doanh nhân chân chính chỉ có thể khai thác bền vững từ những phương châm, biện pháp sau:
– Đầu tư sáng tạo ra sản phẩm mới nhằm đáp ứng được nhu cầu cuộc sống ngày càng cao của con người. Hình thành ra những nhu cầu mới, thị trường mới trong xã hội. Tạo ra sản phẩm mới, khai thác thị trường mới luôn là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Lợi ích của doanh nghiệp có được từ sự sáng tạo để phục vụ và nâng cao đời sống cho cộng đồng mới là đỉnh cao nghề nghiệp của một doanh nhân.
– Phát hiện, khai thác ra thị trường mới đối với những sản phẩm truyền thống, thông qua các kỹ thuật gia tăng chức năng sản phẩm, tăng sức hấp dẫn về mặt thị hiếu, tăng cường công tác tiếp thị…
– Xem xét sản phẩm của mình đang ở công đoạn nào của chuỗi giá trị của sản phẩm để điều chỉnh phương thức kinh doanh, chọn chuỗi phân khúc giá trị phù hợp và có lợi nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời đánh giá các đối tượng canh tranh, nhằm có sách lược liên kết với các đối tượng khác nhau để tìm vị thế có lợi nhất cho sản phẩm của mình.
– Tăng cường lợi ích cho khách hàng bằng các kỹ thuật kinh doanh như chính sách hậu mãi, khuyến mãi…
– Loại bỏ các yếu tố lãng phí, hợp lý hóa sử dụng lao động, tinh gọn hiệu quả bộ máy điều hành… để giảm giá thành sản phẩm, tạo sức cạnh tranh bằng giá hợp lý, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và cho chính doanh nghiệp.
– Xem xét đề xuất với Nhà nước hợp lý hóa các công cụ luật pháp, các thủ tục hành chính, khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng trong xã hội, chính sách thuế…, để tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Để có thể hỗ trợ doanh nhân thực hiện các biện pháp trên, phải có những tổ chức hiệp hội theo những ngành nghề khác nhau. Đồng thời Nhà nước phải tổ chức các cơ quan xúc tiến kinh doanh “bán dân lập” như tổ chức Kotra của Hàn Quốc, Cetra của Đài Loan… để hỗ trợ các nhà sản xuất, các doanh nghiệp tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, giúp họ cải tiến sản phẩm, xây dựng kênh thông tin kịp thời về giá cả hàng hóa trên thế giới, tổ chức đào tạo đội ngũ chuyên môn phục vụ cho công tác kinh doanh. Có như vậy, đội ngũ doanh nhân nước ta mới có điều kiện trưởng thành. Những tổ chức nêu trên đã là những lực lượng nòng cốt hỗ trợ tích cực cho đội ngũ doanh nghiệp của bốn con rồng châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore) trong 50 năm qua mà chúng ta cần học tập.
Vai trò của Doanh nhân: Cần phải nhìn thẳng
Ông Phạm Nhật Vượng – Chủ tịch HĐQT Vingroup
Gần đây, có một vài cuộc hội thảo đánh giá về tình trạng của đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên cứu về giới Doanh nhân Việt Nam, xét về mặt khoa học, còn chưa rõ ràng và chưa nhất quán. Ví dụ, hiện nay, xã hội chưa nhất trí rằng các Giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũng là doanh nhân khi định nghĩa doanh nhân là người bỏ tiền ra để kinh doanh và mục tiêu là vì lợi nhuận. Tuy vậy, theo tôi, khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập đến mức như hiện nay thì không thể định nghĩa doanh nhân theo quy mô vốn mà họ bỏ ra bởi trên thế giới có rất nhiều doanh nhân không bỏ tiền ra nhưng vẫn tham gia hiệu quả vào nền kinh tế dựa trên việc huy động tiền của xã hội.
Doanh nhân Việt – Anh là ai?
Sở dĩ có tình trạng như vậy là do chúng ta mới có nền kinh tế thị trường khoảng 10 năm nay. Tuy nhiên, xét về mặt hiện tượng thì chúng ta phải kết luận rằng, trên thực tế chúng ta đã có một giới doanh nhân và họ đang tạo ra những hoạt động kinh tế có thật, tạo ra những thành tích, những mối quan hệ thương mại được phát triển rộng khắp thế giới. Vậy doanh nhân Việt Nam gồm những đối tượng nào? Theo tôi, có 3 nhóm doanh nhân đã, đang hình thành và làm nên diện mạo của doanh nhân Việt Nam.
Thứ nhất là những người điều hành, quản lý hoặc sở hữu các doanh nghiệp nhỏ và vừa, một đối tượng có tốc độ phát triển nhanh về số lượng. Xét theo tiêu chuẩn của những nhà kinh doanh hiện đại thì đây chưa phải là đội ngũ chuyên nghiệp nhưng rõ ràng họ đã có những hoạt động kinh doanh thực thụ. Gần đây, do tình trạng lạm phát mà đối tượng này đang rơi vào một số khó khăn. Số lượng những doanh nhân này bớt đi do phá sản, song lại tăng lên theo sự vận động, phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai là đội ngũ khá đông đảo những người đang điều hành các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù còn có những tranh cãi về việc họ có phải là doanh nhân không nhưng tôi cho rằng, phải xem họ là doanh nhân vì họ phải chịu trách nhiệm xã hội về đồng vốn mà mình sử dụng, về khối tư liệu sản xuất mà trên thực tế, nó vẫn đang chiếm một tỷ trọng rất lớn trong đời sống kinh tế Việt Nam.
Thứ ba là các nhà kinh doanh chuyên nghiệp hoặc bắt đầu có chất lượng chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế, làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thậm chí có những người đã vươn tới vị trí điều hành tại các doanh nghiệp lớn. Đây là lực lượng có năng lực chuyên nghiệp tốt nhất nếu xét theo tiêu chuẩn hội nhập ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt trong đội ngũ này là những người kinh doanh tài chính dưới hình thức là các nhà môi giới, các nhà tư vấn tài chính, những người buôn bán các sản phẩm của nền kinh tế trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Đối tượng này một vài năm trở lại đây phát triển rất nhanh và rất đông. Họ đang trở thành một lực lượng chiếm giữ địa vị rất quan trọng trong việc làm tốt lên hoặc làm xấu đi nền kinh tế Việt Nam.
Cần có cái nhìn công bằng và thiện cảm
Phải khẳng định rằng, trong điều kiện mới mở cửa mà có được đội ngũ doanh nhân đa dạng như vậy là điều rất đáng ngạc nhiên, và là một trong những cố gắng rất lớn của Việt Nam. Cho nên, đánh giá đội ngũ này theo khía cạnh tiêu cực hay tích cực dựa theo một số tiêu chuẩn cứng nhắc là không công bằng. Trong xã hội, tâm lý kinh doanh đã bắt đầu nở rộ và tâm lý không trọng thương của nền văn hoá Việt Nam cũng đã được khắc phục. Giờ đây, các chức danh của doanh nhân như giám đốc hay trưởng đại diện bán hàng… đã có giá trị xã hội và trong cấu trúc của đời sống xã hội, kể cả trong đời sống gia đình, đội ngũ này đã bắt đầu giữ một địa vị rất đáng kể. Đây là một bước chuyển về nhận thức.
Vấn đề cơ bản là chất lượng của kiến thức kinh doanh, của các thói quen kinh doanh, của nền văn hoá kinh doanh đang còn nhiều vấn đề; hệ thống pháp luật kinh doanh cũng có nhưng chưa đủ chuyên nghiệp để có thể điều chỉnh và hỗ trợ việc hình thành các thói quen kinh doanh hiện đại. Và điều này hình thành trong xã hội một sự ngờ vực nhất định về phẩm hạnh của các nhà kinh doanh Việt Nam. Vì vậy, xét về quy mô phát triển, tốc độ xuất hiện các năng lực của đội ngũ doanh nhân Việt Nam thì chúng ta rất đáng tự hào nhưng xét về chất lượng, do những điều kiện mới, do hệ thống đào tạo còn hạn chế nên tính chuyên nghiệp của đội ngũ này chưa cao, sự tôn trọng các quan hệ có tính chất hợp đồng chưa đạt được chuẩn.
Tuy nhiên, chúng ta không thể sốt ruột mà cần có thời gian để biến đổi quy mô về lượng thành quy mô về chất. Do đó, chúng ta phải thận trọng khi khen và công bằng khi chê đối với đội ngũ này. Điều đáng khen là sức sống và sức phát triển của đội ngũ này mặc dù quy mô phát triển mới chỉ là sự nở rộ một cách bản năng trên những khía cạnh kinh doanh thông thường, và chưa chuyên nghiệp. Nhưng những khía cạnh này thể hiện sự mới mẻ của nền văn hóa kinh doanh Việt Nam và sự mới mẻ này cần được trân trọng, tạo điều kiện để trở thành một trong những động lực phát triển của nền kinh tế.
Chung sức, đồng lòng
Vietnam Airlines – Vingroup ký thỏa thuận hợp tác
Để có đội ngũ doanh nhân phát triển thực sự vững mạnh, có một số việc mà Nhà nước và xã hội cần quan tâm.
Thứ nhất, chúng ta phải tiếp tục tạo ra một môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, từ đó tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ doanh nhân. Phải xây dựng một hệ thống pháp lý bền vững nhưng đủ chi tiết để điều chỉnh hành vi kinh doanh từ khu vực căn bản nhất của nền kinh tế là lĩnh vực ngân hàng, tài chính đến mũi nhọn của nền kinh tế như công nghiệp và đến sức sống của nền kinh tế là kinh doanh. Muốn vậy, Nhà nước phải hình thành những cơ sở nghiên cứu để hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô một cách chuyên nghiệp. Tình trạng những chính sách thay đổi nhiều khi mâu thuẫn khiến các doanh nhân rất khó để trở nên chuyên nghiệp, sự ứng phó một cách “tháo vát” của họ với sự thay đổi của chính sách tạo ra sự phát triển của một đặc tính là cơ hội trong kinh doanh.
Thứ hai, phải phát triển các cơ sở đào tạo, cung cấp cho xã hội kiến thức kinh doanh nói chung và cung cấp cho các nhà kinh doanh những kiến thức kinh doanh chuyên nghiệp. Để cung cấp kiến thức, kỹ năng kinh doanh cho đội ngũ doanh nhân thì việc du học là hoàn toàn không đủ. Và nếu có đủ thì cũng không hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của một nước như Việt Nam. Cho nên, việc phát triển các cơ sở đào tạo những nhà kinh doanh, những nhà quản lý kinh tế chuyên nghiệp là một việc cấp bách cần phải làm ngay.
Thiết nghĩ, trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ làm hai việc đó là đủ. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, kinh doanh chưa chuyên nghiệp phản ánh trình độ của nền kinh tế, đồng thời phản ánh cả tình trạng chưa chuyên nghiệp của điều hành môi trường vĩ mô. Cho nên, để có đội ngũ kinh doanh chuyên nghiệp, trước tiên chúng ta phải xây dựng một đội ngũ điều hành môi trường vĩ mô chuyên nghiệp. Như vậy, chúng ta không thể sốt ruột để mong có đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp trong một sớm một chiều được. Chất lượng của đội ngũ doanh nhân sẽ tăng lên cùng với chất lượng của hệ thống chính sách vĩ mô, của hệ thống pháp luật, cũng như chất lượng của người tiêu dùng. Nếu không có đội ngũ tiêu dùng thông thái thì chúng ta cũng không thể đòi hỏi được một hệ thống sản xuất, phân phối chuyên nghiệp.
Mặc dù hiện nay đội ngũ doanh nhân đang có vị trí quan trọng song chưa hẳn đã được trọng vọng trong xã hội. Nhìn nhận vai trò của doanh nhân là quan trọng và trọng vọng doanh nhân là hai thái độ khác nhau của xã hội. Một nhà kinh doanh bản năng và một nhà kinh doanh có học vấn, hai người đó có địa vị giống nhau trong đời sống kinh tế nhưng có địa vị rất khác nhau trong đời sống tinh thần. Làm thế nào để biến sự quan trọng đơn giản thành một sự quan trọng có chất lượng văn hóa là một quá trình phấn đấu lâu dài. Vì vậy, mỗi doanh nhân phải phấn đấu trở thành một người quan trọng và từ một người quan trọng trở thành một người được kính trọng. Đó chính là chất lượng văn hóa, chất lượng giáo dục của người đó và đồng thời là năng lực của xã hội trong việc nhận ra giá trị và kính trọng họ.
Phan Chánh Dưỡng
Bạn đang đọc nội dung bài viết Vị Trí Và Vai Trò Của Văn Hóa Trong Thắng Lợi Của Cách Mạng Tháng Tám Năm 1945 trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!