Đề Xuất 5/2023 # Việt Kiều Là Gì? Việt Kiều Có Được Quyền Mua Nhà Ở Việt Nam Không? # Top 10 Like | Sieuphampanorama.com

Đề Xuất 5/2023 # Việt Kiều Là Gì? Việt Kiều Có Được Quyền Mua Nhà Ở Việt Nam Không? # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Việt Kiều Là Gì? Việt Kiều Có Được Quyền Mua Nhà Ở Việt Nam Không? mới nhất trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Việt Kiều là gì? Việt Kiều có được quyền mua nhà ở Việt Nam không?

Việt Kiều được hiểu theo nghĩa đúng nhất là Kiều Bào Hải Ngoại hay Kiều Bào. Vậy “thuật ngữ” này dùng những đối tượng nào? Pháp luật nước ta có quy định ra sao về quyền sử dụng đất đối với Việt Kiều?

Thuật ngữ “Việt Kiều” chỉ những đối tượng nào?

1. Việt Kiều là gì?

Khái niệm: Việt kiều là những công dân Việt Nam cư trú và sinh sống ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.

Nhiều người thắc mắc rằng nếu như Việt kiều quay về nước sinh sống thì có được cấp chứng minh nhân dân hay không?

Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 05/1999/NĐ-CP, những đối tượng được cấp Chứng minh nhân dân, cụ thể như sau:

– Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên, đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (sau đây gọi tắt là công dân) có nghĩa vụ đến cơ quan công an nơi đăng ký hộ khẩu thường trú làm thủ tục cấp Chứng minh nhân dân theo quy định của Nghị định này;

– Mỗi công dân chỉ được cấp một Chứng minh nhân dân và có một số chứng minh nhân dân riêng.

Như vậy, nếu Việt kiều cư trú tại Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại một địa phương nhất định thì và đủ 14 tuổi, thì có nghĩa vụ đến cơ quan công an nơi đăng ký hộ khẩu để làm chứng minh nhân dân.

2. Người Việt Kiều có được quyền mua nhà ở Việt Nam không?

Theo quy định tại khoản 3 điều 3 Luật quốc tịch năm 2008: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.

Như vậy người Việt Nam định cư ở nước ngoài gồm 2 đối tượng: là công dân Việt Nam (có quốc tịch Việt Nam), và là người có gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.

Vì vậy thực tế hiện nay chỉ còn quốc tịch Việt Nam (công dân Việt Nam) hay chị thôi quốc tịch Việt Nam và nhập quốc tịch Đức (người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài) thì theo quy định trên chị vẫn được coi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Do vậy, việc mua, sở hữu nhà tại Việt Nam của chị sẽ được áp dụng theo chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều 126 của Luật nhà ở và điều 121 Luật đất đai ngày 18/12/2009 quy định về quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài như sau:

“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:

a) Người có quốc tịch Việt Nam

b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hóa, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.

2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.”

Người Việt Kiều phải “mượn danh” mua nhà.

Do không được trực tiếp đứng tên để mua nhà ở tại Việt Nam, cùng việc Luật nhà ở 2014 cũng nới lỏng hơn, pháp luật quy định người gốc Việt ở nước ngoài có công đóng góp cho đất nước, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu, người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống trong nước sẽ được sở hữu nhà không hạn chế về số lượng.

Nhiều người nước ngoài mua nhà thời điểm này thường nhờ người thân đứng tên do người Việt Nam vẫn đề cao viêc nhờ ngừoi anh em, người thân đứng tên khá phổ biến.

Tiền Land

Những Việt Kiều Lẫy Lừng Đất Mỹ

Bài Vietnamese in U.S. Take Stock of Community cách đây không lâu của Erin Texeira (hãng tin AP) là một trong những ví dụ. Điểm lại vài chấm phá trong đời sống Việt kiều Mỹ có thể khẳng định thêm rằng chính sách kêu gọi góp sức của cộng đồng Việt kiều là điều nhất thiết cần thực hiện trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia nói chung của Việt Nam.

Dấu ấn văn hóa

Trong 1,2 triệu người Mỹ gốc Việt (thống kê mới nhất có được), 1/3 hiện tập trung ở California. Ngoài ra, người Việt còn có mặt rải rác nhiều TP khác khắp Mỹ. Tại hạt Santa Clara (California), người Việt sở hữu hơn 5.000 doanh nghiệp; và một số Việt kiều thành công đến mức có thể ung dung sống tại khu thung lũng Evergreen trong những căn nhà cực sang giá trung bình 1 triệu USD – theo H. G. Nguyen, Chủ tịch Phòng Thương mại Việt kiều tại San Jose. Ngoài California, một trong những địa điểm có nhiều người Việt thành công nữa là Houston. Trong một phóng sự hãng thông tấn Anh BBC đã cho thấy thêm điều này.

Theo bài viết, Houston (TP lớn nhất bang Texas; lớn thứ tư tại Mỹ) là một trong nhiều trường hợp thành công của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Sau 40 năm hội nhập, cộng đồng di dân trên 150.000 người này đã đạt được nhiều thành công to lớn trên các phương diện chính trị, kinh doanh, thương mại, học vấn và trợ giúp đồng bào ở trong nước. Tên của Houston có thể đứng cạnh tên các trung tâm hay TP có tiếng khác của người Việt tại Mỹ như Westminster hay San Jose… Về mật độ dân số cộng đồng Việt kiều, Houston là TP đông người Việt thứ ba tại Mỹ sau Westminster (Nam California) và San Jose (Bắc California). Tuy nhiên, về quy mô làm ăn, ít đâu sánh bằng hệ thống nhà hàng Việt Nam Kim Sơn cũng như hệ thống siêu thị bán sản phẩm châu Á mang tên Hong Kong do người Việt làm chủ. Chưa kể chuỗi phòng khám nha khoa, gồm 12 cửa hàng, có tên Apple Dentist của nữ nha sĩ Mai Thị Hoa, rải đều ra tại các quận, hạt của Houston. Tại Houston, khu Midtown có đến 16 con đường mang tên Việt Nam.

Nhiều con em người Việt tại Houston đã đậu thủ khoa, á khoa tại trường trung học địa phương. Những em này sau đó được học bổng hoặc được mời vào các khoa, các ĐH danh tiếng miền Tây Nam Mỹ. Bác sĩ, nha khoa, điện toán, luật sư, kỹ sư, quản trị viên là những ngành nghề mà con em người Việt được thu nhận nhiều nhất, với tỉ lệ đỗ đạt cao hơn nhiều sắc dân khác. Houston cũng là một trong ba nơi đặt trụ sở chính của Cơ quan Quản trị không gian (NASA), nơi có khoảng 200 kỹ sư người Việt đang làm việc. Houston còn là nơi khai sinh của Hội Văn hóa Khoa học Việt Nam, một tổ chức bất vụ lợi do các trí thức người Việt lập ra từ năm 1990, với mục đích giảng dạy văn hóa Việt, trợ giúp học hành, giáo dục kỹ năng lãnh đạo cho thế hệ trẻ người Việt…

Đến nay, Hội Văn hóa Khoa học Việt Nam đã có bốn phân ban tại Austin, Dallas, Toronto và Washington. Ban quản trị hội mong muốn có ngày nào đó sẽ tập hợp kiến thức, kinh nghiệm và trí tuệ của các bạn trẻ, chuyên gia người Việt tại Mỹ để giúp người trong nước. Cuối cùng, dù sống xa quê nhưng người Việt tại Houston luôn được sự trợ giúp và động viên của hệ thống truyền thông Việt ngữ tại địa phương, đặc biệt trong việc chia sẻ kinh nghiệm hội nhập, nuôi dạy con cái, loan báo tin tức sinh hoạt cộng đồng, tạo mối thân giao giữa người đến trước và đến sau, các chính sách mới nhất của chính phủ về di dân và tị nạn; hoặc thậm chí mẹo nữ công gia chánh để giúp cho bữa ăn người Việt thêm ngon, ngôi nhà thêm ấm cúng, gia đình yên ổn… Có thể gọi đó là sáng kiến về cách duy trì đời sống tinh thần thăng bằng trong một xã hội công nghiệp luôn di chuyển với tốc độ nhanh như ở Mỹ.

Và nói đến cộng đồng Việt kiều mà không nhắc đến người sáng lập khu Little Saigon tại quận Cam (California) là một thiếu sót. Đó là ông Triệu Phát (Frank Jao). Sinh tại Hải Phòng trong gia đình cha Việt, mẹ Hoa, ông Triệu vào Sài Gòn năm 1954. Trở thành một trong những người Việt đầu tiên đến Mỹ sau năm 1975, ông Triệu nhanh chóng thành lập khu cộng đồng Little Saigon; bỏ tiền xây siêu thị khổng lồ Asian Garden Mall tại đại lộ Bolsa. Từng có chân trong hội đồng thị chính Wesminster (California), triệu phú Triệu Phát cũng là ông chủ của công ty xây dựng Bridgecreek Development. Năm 2002, đích thân Tổng thống George W. Bush bổ nhiệm ông Triệu làm chủ tịch Tổ chức giáo dục Việt Nam. Tờ Orange County Register (9-5-2015) cho biết Tập đoàn Bridgecreek của ông Triệu Phát, sau gần 40 năm, đã đầu tư tổng cộng 400 triệu USD vào các trung tâm mua sắm và nhà ở, chủ yếu ở quận Cam. Năm 2012, ông thậm chí mở chuỗi nhà hàng Indochine Essence tại Quảng Đông (Trung Quốc) chuyên bán thức ăn Việt Nam (dự tính đạt 100 tiệm vào cuối năm nay).

Dấu ấn khoa học

Ngoài hai nhân vật – kỹ sư Đinh Trường Hân (đoạt giải môi sinh của Nhà Trắng năm 2006, được tạp chí Public Works chọn là một trong 50 nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất nước Mỹ năm 2006); và TS Huỳnh Phước Đương – đã được báo chí trong nước nhắc nhiều, còn có không ít gương mặt khoa học gia Việt kiều lừng lẫy.

Một trong những gương mặt kiệt xuất là Lê Duy Loan, người có thể được xem như là đại diện tiêu biểu của tấm gương nghị lực thành đạt trong cộng đồng Việt kiều. Theo tiểu sử đăng trên website ĐH Texas-Austin (utexas.edu), bà Lê đến Houston năm 1975 trong gia đình chín người không có cha. Bốn năm sau, bà Lê tốt nghiệp Trung học Alief Hastings tại Houston lúc 16 tuổi và được chọn là học sinh đại diện đọc diễn văn cảm tạ thầy cô. Năm 1981, khi còn học ĐH Texas-Austin (UT Austin) nhờ học bổng, Lê Duy Loan đã được tờ Houston Chronicle viết bài khen ngợi.

Trong thế giới công nghệ thông tin Mỹ, chẳng ai mà không nghe nói đến Lê Duy Loan. Năm 2000, bà có tên trong danh sách “20 phụ nữ xuất sắc nhất Houston trong lĩnh vực kỹ thuật”. Năm sau, bà có tên trong Viện bảo tàng vinh danh quốc tế dành cho giới nữ trong kỹ thuật. Năm sau nữa, bà được chọn là “Kỹ thuật gia quốc gia trong năm”, trở thành nhân vật chính trong phóng sự đặc biệt của tờ EE Times (một trong những chuyên san kỹ thuật hàng đầu Mỹ). Chưa hết, trong cùng năm (2002), bà đóng dấu ấn lịch sử công ty TI khi trở thành phụ nữ đầu tiên và là gương mặt châu Á đầu tiên được bầu làm viện sĩ TI – chức danh trước đó chỉ được trao cho bốn gương mặt nam trong lịch sử TI.

Năm 2005, Lê Duy Loan lại được chọn là “Kỹ sư Mỹ gốc Á trong năm”. Với cộng đồng thế giới, bà Lê còn nổi tiếng ở vị trí giám đốc Tổ chức Mona (hỗ trợ giáo dục và phát triển kinh tế tại 10 quốc gia); sáng lập viên kiêm giám đốc ban cố vấn Sunflower Mission (giúp đỡ giáo dục cho thiếu nhi Việt Nam); sáng lập viên kiêm giám đốc danh dự Hội danh dự quốc gia khoa học Hoa Kỳ (khuyến khích toán và khoa học trong học đường); giám đốc Hội đồng Quỹ học bổng quốc gia Mỹ-châu Á-Thái Bình Dương. Và người đàn bà mạnh mẽ này còn “sở hữu” chiếc đai đen Taekwondo!

Nhân vật nữa có thể kể đến là Trung Dũng, gương mặt từng xuất hiện trên các tạp chí quen thuộc Forbes, Financial Times, Wall Street Journal, San Francisco Chronicle cũng như trong quyển The American Dream của nhà báo kỳ cựu Dan Rather. Hiện là tổng giám đốc điều hành Fogbreak Software (công ty do chính ông sáng lập), Trung Dũng lấy tiến sĩ khoa học máy tính ĐH Boston sau khi giành cử nhân toán và khoa học máy tính ĐH Massachusetts. Tháng 5-2004, Trung Dũng được trao Giải Đuốc vàng, trong buổi tiệc do cộng đồng người Việt tổ chức tại Washington, D.C. Ông Dũng từng gây chú ý khi bán công ty OnDisplay do mình sáng lập cho tập đoàn Vignette với giá 1,8 tỉ USD.

Cần nói thêm, ông Dũng tạo dựng sự nghiệp từ vỏn vẹn 2 USD khi đặt chân đến Mỹ! Còn nhiều nữa những gương mặt xuất sắc trong cộng đồng Việt kiều Mỹ nói riêng và Việt kiều tại các quốc gia khác nói chung. Tất cả tấm gương thành đạt của họ đều có một mẫu số chung: giàu nghị lực, ham học và có ý chí thép. Thành tựu họ đạt được là kết quả từ nỗ lực cá nhân bền bỉ!

( Theo Pháp luật TP HCM)

Quyền Lgbt Ở Việt Nam

Người ở Việt Nam bao gồm những người đồng tính luyến ái, song tính luyến ái và người chuyển giới ở . LGBT là cụm từ viết tắt các chữ cái đầu gồm và Transgender/transsexual people (những người đồng tính nữ, người đồng tính nam, người song tính và người chuyển giới trong tiếng Anh). Mặc dù hiếm có ghi nhận, đồng tính luyến ái trong thời kỳ cận đại của lịch sử Việt Nam từng được nhắc tới trong một số tài liệu. Hiện nay, không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính. Năm 2012, Bộ Tư pháp cho rằng “xét về đảm bảo quyền tự do cá nhân thì việc kết hôn của những người cùng giới tính cần được công nhận”, nhưng cũng nói thêm “Xét về văn hóa tập quán của gia đình Việt Nam, tính nhạy cảm xã hội của vấn đề, hậu quả xã hội của quy định pháp luật chưa được dự báo hết; thì ở thời điểm này việc thừa nhận người cùng giới tính có quyền kết hôn với nhau ở Việt Nam là còn quá sớm”

Về số lượng người đồng tính ở Việt Nam, hiện nay chưa có con số thực sự chính xác vì chưa có một cuộc thống kê chính thức mang tính quy mô và toàn diện được tổ chức. Theo ước tính của bác sĩ Trần Bồng Sơn , số đồng tính nam ước tính là khoảng 70.000 người (chiếm 0,09% dân số). Một nghiên cứu khác do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện ước tính Việt Nam có khoảng 50-125 ngàn người đồng tính, chiếm khoảng 0,06-0,15% dân số. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE), Việt Nam hiện đang có khoảng 1,6 triệu người đồng tính, song tính và chuyển giới ở độ tuổi 15-59.

Về số lượng người chuyển giới, năm 2015 Bộ Y tế Việt Nam cho biết đã nhận được gần 600 hồ sơ cá nhân đề xuất sửa đổi giới tính mới sau khi họ đã thực hiện phẫu thuật chuyển giới. Ngày 24 tháng 11 năm 2015, quyền chuyển đổi giới tính chính thức được hợp pháp hóa tại Việt Nam sau khi Bộ luật dân sự sửa đổi 2015 cho phép chuyển đổi giới tính và thay đổi nhân thân, hộ tịch sau chuyển đổi được Quốc hội thông qua.

Từ cuối thập niên 2000, cùng với sự cởi mở hơn đối với giới LGBT ở các nước phát triển, LGBT ở Việt Nam bắt đầu được đề cập và nhìn nhận dần dần ở nhiều lĩnh vực. Cho đến nay, mặc dù hôn nhân đồng tính chưa được hợp pháp hóa, Việt Nam là nước dẫn đầu ở Đông Nam Á trong công nhận quyền lợi của LGBT. Tuy nhiên, cũng tương tự như nhiều nước trên thế giới, nam có quan hệ tình dục với nam ở đô thị vẫn tiếp tục là nhóm có nguy cơ cao nhiễm HIV, đây là một trong những thử thách lớn cho công tác tuyên truyền và các hoạt động phòng chống HIV.

Bảng tóm tắt

Luật chống phân biệt đối xử trong việc làm

/ (Không có Luật nào mang nội dung phân biệt đối xử về giới tính)

Luật chống phân biệt đối xử trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ

/ (Không có Luật nào mang nội dung phân biệt đối xử về giới tính)

Luật chống phân biệt đối xử trong tất cả các lĩnh vực khác (bao gồm phân biệt đối xử gián tiếp, ngôn từ kích động thù địch)

/ (Không có Luật nào mang nội dung phân biệt đối xử về giới tính)

NQHN được phép hiến máu

(Không bị cấm)[16]

Trong lịch sử

Trong lịch sử Việt Nam rất hiếm có trường hợp đồng tính luyến ái được ghi nhận, mặc dù trong thế kỷ thứ 16 và 17 có một vài vua chúa có sủng thần là đàn ông. Ngoài ra, sách sử có chép rằng vua Khải Định tuy có tất cả 12 bà vợ nhưng không thích gần đàn bà, và thích xem đàn ông đóng giả “đào” khi diễn tuồng.

Trong thời Pháp thuộc, một lính quân y người Pháp tên Jacobus X. đã miêu tả các hoạt động đồng tính tại Việt Nam. Ông cho rằng hiện tượng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa và là một dấu hiệu của sự suy đồi đang dần dần biến mất do ảnh hưởng của Pháp. Ông cho rằng nếu người Pháp có hành động đồng tính, chẳng qua là chỉ để tránh gái mại dâm bị bệnh giang mai. Tuy nhiên, ông cũng miêu tả mại dâm nam giữa khách hàng là người Pháp hoặc người Trung Quốc và các trẻ em trai từ khoảng 7 đến 15 tuổi. Người bán dâm thường làm tình bằng miệng cho khách. Tình dục hậu môn ít xảy ra hơn vì kích cỡ dương vật của khách hàng Tây phương quá lớn so với hậu môn của những người bán dâm.

Trong thời Chiến tranh Việt Nam, tại Sài Gòn có 18 quán bar dành cho đồng tính nam và 3 quán bar dành cho đồng tính nữ. Nhiều khách hàng tại các quán bar đồng tính nam là thương gia ở tuổi trung niên và sinh viên dưới 20 tuổi, và rất ít người ẻo lả như phụ nữ. Có nhiều hộp đêm, quán cà phê và dịch vụ xông hơi dành cho khách hàng đồng tính. Nhiều trẻ em mồ côi hay nghèo đói do chiến tranh công khai mời mọc khách hàng tại các góc đường. Có ít nhất 4 tổ chức “trai gọi” cho khách hàng là thương gia Trung Quốc giàu có hay người nước ngoài (hầu hết là Pháp). Đối với lính Mỹ, các hoạt động này rất mạo hiểm vì quân đội Hoa Kỳ không cho phép và những người bị tình nghi là đồng tính sẽ bị đuổi ngay. Một số đám cưới đồng tính nữ đã từng diễn ra Báo Saigon Daily vào cuối thập niên 1960 có đăng tin về một tổ chức “gái gọi” cho các phụ nữ Tây phương đi du lịch và phụ nữ thượng lưu ở Sài Gòn. Tổ chức này bị giải tán sau khi có chứng cớ là có liên quan đến trẻ em dưới 15 tuổi.

Tại Việt Nam hiện nay không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính. Mặc dù Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cấm kết hôn giữa những người đồng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2014, bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Tuy nhiên, Luật 2014 vẫn quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8).

Các chính quyền trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ đưa ra luật về quan hệ đồng tính. Luật Hồng Đức có đề cập đến hãm hiếp, ngoại tình, và loạn luân nhưng không nhắc gì đến đồng tính. Chính quyền thực dân Pháp cũng không cấm đoán các hành vi đồng tính trong các thuộc địa. Mặc dù mại dâm nữ là phạm pháp, luật pháp không đề cập gì đến mại dâm nam. Tuy nhiên, những hành vi đồng tính có thể bị khởi tố dưới các tội danh như “vi phạm luân lý”. Trong những trường hợp hiếm hoi mà hành vi đồng tính bị trừng phạt, tội danh thường là “ngoại tình” hay “hãm hiếp”.

Từ cuối thập niên 1990, một vài đám cưới đồng tính rất hiếm hoi xuất hiện nhưng đến cuối thập niên 2010 nhiều đám cưới được tổ chức khắp các tỉnh thành. Ngày 7 tháng 4 năm 1997, hãng thông tấn Reuters đưa tin về đám cưới đồng tính đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh giữa hai người nam. Tiệc cưới diễn ra tại một khách sạn với 100 khách mời, và bị nhiều người dân phản đối. Ngày 7 tháng 3 năm 1998, hai người đồng tính nữ làm đám cưới tại Vĩnh Long, nhưng giấy xin phép kết hôn không được chấp nhận. Sau các đám cưới này, Quốc hội thông qua quy định cấm hôn nhân đồng tính vào tháng 6 năm 1998.

Năm 2002, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội liệt kê đồng tính luyến ái trong các “tệ nạn xã hội” cần phải bài trừ như mại dâm và ma túy.

Năm 2008, chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định quy định việc “xác định lại giới tính” đối với người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Khác với người đồng tính, những người này là do bị dị tật bẩm sinh về thể xác, cần phẫu thuật để điều chỉnh lại bộ phận sinh dục bị dị tật. Tháng 7 năm 2012, Bộ Tư pháp đưa ra đề xuất sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình, trong đó có thể công nhận hôn nhân đồng tính; việc này làm nhiều báo chí nước ngoài cho rằng Việt Nam có khả năng trở thành nước châu Á đầu tiên công nhận hôn nhân đồng tính. Tại một cuộc đối thoại trực tuyến, bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết “cá nhân tôi cho rằng, việc công nhận hay không công nhận hôn nhân đồng tính cần phải dựa trên những nghiên cứu hết sức cơ bản, những đánh giá tác động nghiêm túc trên rất nhiều khía cạnh xã hội và pháp lý như quyền tự do cá nhân, sự tương thích với văn hóa, tập quán của xã hội và gia đình Việt Nam, tính nhạy cảm, hậu quả xã hội của quy định pháp luật… Các vấn đề này đang được nghiên cứu trong quá trình chuẩn bị dự án Luật Hôn nhân và Gia đình.”

Ngày 1 tháng 1 năm 2015, một chỉnh sửa mới từ luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực, trong đó quy định sẽ không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, coi như hủy bỏ luật cấm năm 2000. Tuy nhiên, theo Điều 8 về “Điều kiện kết hôn” có ghi “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Như vậy, những người đồng giới tính vẫn có thể chung sống, nhưng vì Luật hôn nhân và gia đình không coi đây là hôn nhân nên sẽ không áp dụng Luật hôn nhân và gia đình nếu có tranh chấp xảy ra khi chung sống. Nếu tranh chấp xảy ra khi chung sống giữa những người đồng giới tính, tòa án sẽ áp dụng Bộ luật Dân sự để xử lý (trừ quan hệ hôn nhân, Bộ luật Dân sự sẽ điều chỉnh mọi quan hệ dân sự giữa các cá nhân trong xã hội).

Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự (sửa đổi), trong đó có quy định về chuyển đổi giới tính và các quyền, nghĩa vụ liên quan. Luật có hiệu lực thi hành từ đầu 2017. Điều 37, Bộ luật này quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Như vậy, Việt Nam chính thức cho phép việc chuyển đổi giới tính.

Nhân khẩu học

Ở Việt Nam chưa từng có thống kê trên cả nước hoặc một vùng nào đó về số lượng hay tỉ lệ người đồng tính trong dân chúng cũng như những khía cạnh kinh tế, xã hội, văn hóa, sức khỏe của người đồng tính. Một số cuộc thăm dò quy mô nhỏ hoặc chỉ hướng tới một số đối tượng đã được thực hiện. Một cuộc thăm dò của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 tiến hành trên 300 học sinh của ba trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 42% học sinh cho rằng 1% học sinh trong trường mình là đồng tính, 2% học sinh cho rằng tỉ lệ này là 5%, 8% học sinh cho rằng 10%, còn 25% học sinh còn lại cho rằng nhiều hơn nữa.

Các tổ chức khác nhau đưa ra dự đoán hoặc ước tính số người đồng tính một cách khác nhau. Theo một báo cáo được công bố tại hội nghị khoa học kỹ thuật do Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 26 tháng 9 năm 2006, chưa có những số liệu chắc chắn, đáng tin cậy về số lượng đồng tính nam ở Việt Nam. Tuy vậy, theo một nghiên cứu của bác sĩ Trần Bồng Sơn, số đồng tính ước tính là khoảng 70.000 người (chiếm 0,09% dân số). Một nghiên cứu khác do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện ước tính Việt Nam có khoảng 50-125 ngàn người đồng tính, chiếm khoảng 0,06-0,15% dân số..

Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường từng hợp tác với Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã thực hiện một cuộc thăm dò trực tuyến mang tên “Đặc điểm kinh tế, xã hội của nam giới có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam”. Việc này được thực hiện bằng cách đăng tải bộ câu hỏi trả lời trực tuyến. Trên 5 diễn đàn dành cho người đồng tính Việt Nam có đăng liên kết đến bộ câu hỏi này. Số lượt nhấp chuột vào áp phích là 6.859, số lượt người đủ điều kiện tham gia (thỏa mãn các điều kiện là nam giới, sống tại Việt Nam, trên 18 tuổi và có quan hệ tình dục với nam giới trong vòng 12 tháng qua) là 3.231 người. Nhóm nghiên cứu phát hiện:

Độ tuổi: chủ yếu từ 20-30.

Cư trú: 60,66% tại thành phố Hồ Chí Minh, 12,17% tại Hà Nội và còn lại là ở những tỉnh, thành khác.

Trình độ: 67,99% có trình độ đại học, cao đẳng hoặc học trường dạy nghề, 10,15% có trình độ sau đại học, còn lại là trình độ cấp 1 đến cấp 3.

Tình trạng hôn nhân: chủ yếu chưa lấy vợ. Tỉ lệ dự định lập gia đình là 18,66%. Lý do lập gia đình là do áp lực gia đình, xã hội hoặc muốn có con.

Tình trạng công khai: 64,25% hoàn toàn giữ bí mật hoặc gần như là bí mật về tình trạng đồng tính, 24,96% “lúc công khai lúc bí mật” và chỉ có 5,31% gần như là công khai và 2,49% hoàn toàn công khai.

Lý do không tiết lộ thiên hướng tình dục: sợ xã hội kỳ thị (40,77%), sợ gia đình không chấp nhận (39.40%), sợ bị trêu chọc, bắt nạt (28,50%), sợ mất việc (9,79%).

Tuy nhiên cuộc thăm dò này chỉ hướng đến một bộ phận trong cộng đồng người đồng tính ở Việt Nam đó là những người dùng internet và là nam có quan hệ tình dục với nam trong vòng 12 tháng.

Việc thống kê một cách đầy đủ và rộng khắp để đưa ra những số liệu đúng đắn về người đồng tính ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách đối với người đồng tính cũng như tác động đối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, việc thống kê này có nhiều khó khăn như sự khác nhau trong tiêu chuẩn xác định thế nào là đồng tính luyến ái, sự không công khai của người đồng tính và sự không quan tâm đầy đủ của chính quyền và xã hội.

Straight là người dị tính luyến ái. Gay là người đồng tính nam. Lesbian hoặc les là người đồng tính nữ.

Bóng lộ là người đồng tính nam ăn mặc, cử chỉ như phụ nữ. Gay kín là người đồng tính nam có nam tính, và mọi người khó phát hiện là gay.

Fem chỉ người đồng tính nữ có nữ tính và mọi người khó phát hiện là les. Butch là người đồng tính nữ có nam tính, cử chỉ điệu bộ giống đàn ông. Soft butch là từ để chỉ một dạng khác của người đồng tính nữ, có bề ngoài và cá tính mạnh mẽ nhưng ở mức độ chừng mực, không cố gắng hết sức nhằm loại bỏ những đặc điểm nữ tính của mình (như cố tình ép ngực, cắt tóc ngắn, vân vân).

Come out là hành động công khai cho mọi người biết mình là người đồng tính.

Một cách bình dân mang tính xúc phạm (do sự thiếu hiểu biết của xã hội thời Pháp đô hộ) , pê-đê có thể chỉ người đồng tính nam và ô môi có thể chỉ người đồng tính nữ.

Các từ đồng tính , song tính, chuyển giới, đa dạng giới là từ khoa học và mang tính trung lập song các từ pê-đê, xăng pha nhớt, bóng lộ, bóng kín, hai thì, hifi mang tính xúc phạm ít hoặc nhiều. Các thuật ngữ hay từ lóng còn lại chỉ phổ biến trong cộng đồng đồng tính. Cụm từ thế giới thứ ba mặc dù không mang tính xúc phạm và được dùng phổ biến bởi người dân và báo chí nhưng nó không có định nghĩa rõ ràng và thường để chỉ cộng đồng người đồng tính, song tính, người hoán tính/ chuyển đổi giới tính, đa dạng tính, questioning (những người đang trong giai đoạn tìm hiểu về mình) một cách không phân biệt. ( Nói thêm: Tuy “thế giới thứ ba” là một thuật ngữ phân chia địa lý nhưng nó vẫn bị người Việt Nam nhầm lẫn như một thuật ngữ để xếp những người LGBTQ+ vào một nhóm).

Ngoài ra còn các từ ngữ như: ái nam con gái hay bán nam bán nữ cũng chỉ chung chung về những người LGBT và mang tính xúc phạm ít nhiều.

Các từ Fem, Butch, Soft Butch giờ ít hoặc hiếm khi được sử dụng vì chưa thể hiện đúng định nghĩa về Lesbian.

Nhìn chung, ở Việt Nam thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến ái là kỳ thị ở các mức độ khác nhau hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng như phớt lờ, không quan tâm. Một tỉ lệ rất nhỏ người dân có thái độ cởi mở với người đồng tính. Nhiều người bắt đầu kêu gọi nên có thái độ cởi mở hơn đối với người đồng tính. Chưa có ghi nhận nào về sự khuyến khích, cổ vũ việc đồng tính luyến ái.

Nghiên cứu của Viện iSEE về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam cho thấy:

1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính.

4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở.

4,5% cho biết từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính.

15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.

Theo tiến sĩ Marie-Eve Blanc, một giảng viên ở Đại học Montreal, Québec ( Canada), người từng nghiên cứu về nguy cơ sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam ở Việt Nam, đồng tính luyến ái chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam là do tư tưởng Khổng giáo. Theo Khổng giáo, người đàn ông nên lập gia đình và sinh con để nối dõi tông đường. Người đồng tính trẻ thường bị áp lực bởi gia đình là phải lập gia đình. Cha mẹ thường cảm thấy an tâm khi con trai họ đã lập gia đình. Nhưng sau khi lập gia đình, đồng tính luyến ái trở thành một bí mật và là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân.

Nhiều người cho rằng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng lối sống của phương Tây. Tuy nhiên theo tiến sĩ Blanc, điều này không đúng. Ngoài ra, sự du nhập của đạo Cơ đốc càng làm cho thành kiến đối với người đồng tính càng nặng nề hơn. Hơn nữa, hầu như các nước Đông Nam Á đều có thành kiến nặng nề với người đồng tính trừ Thái Lan, đất nước không bị đô hộ bởi phương Tây trong quá khứ.

Nhiều người coi đồng tính luyến ái là không bình thường thậm chí là bệnh hoạn đặc biệt là ở nông thôn. Hành vi âu yếm của hai người cùng giới có thể làm cho nhiều người cảm thấy ghê tởm. Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy bị tổn thương, kinh ngạc, giận dữ, mắc cỡ hoặc hoang mang khi biết con mình đồng tính. Một số người tìm cách thay đổi con mình, trong khi một số người khác thì không quan tâm đến con nữa.

Tuy nhiên, một số ít người bắt đầu cho rằng đồng tính luyến ái không phải là bệnh. Thái độ của họ đối với người đồng tính có xu hướng cởi mở hơn. Một số nhà tư vấn tâm lý cũng khuyên mọi người nên có thái độ bình tĩnh, tìm cách thấu hiểu và hỗ trợ khi biết người thân hoặc bạn bè là người đồng tính đặc biệt là cha mẹ khi biết sự thật về con mình. Cha mẹ cũng cần thời gian để dần dần chấp nhận việc này.

Trong cuộc thăm dò năm 2007 của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với 1 nhóm học sinh cấp 3, với câu hỏi “Người đồng tính luyến ái có xấu hay không?”, hơn 80% học sinh trả lời là “không”. Các học sinh này giải thích rằng vì đó là quyền tự do của mỗi người hoặc việc là người đồng tính không phải lỗi do bản thân người đó. Khi phát hiện trong lớp có bạn đồng tính, 72% học sinh khẳng định vẫn giữ mối quan hệ bình thường với bạn, kèm theo động viên (34%) và giữ kín bí mật cho bạn (35%), 2% học cảm thấy khinh bỉ và 13% thấy sợ.

Vài chuyên gia tâm lý cho rằng giáo viên cần tôn trọng sự riêng tư của học sinh đồng tính và nên động viên họ để họ không tự đánh giá thấp bản thân, còn cha mẹ của những học sinh này cũng cần được cung cấp kiến thức về vấn đề này để tạo mối quan hệ gần gũi, thông cảm để họ không cảm thấy bị cô lập.

Phần lớn người dân chưa hiểu biết nhiều và đúng về đồng tính luyến ái. Nhiều người không phân biệt được những khái niệm người đồng tính luyến ái, người hoán tính/ chuyển đổi giới tính, người lưỡng tính, người đa tính dục mặc dù đây là những khái niệm khác nhau. Hơn nữa, đa số cho rằng đàn ông nữ tính hoặc phụ nữ nam tính là những người đồng tính. Có bài báo chỉ ra việc hiểu sai của nhiều người và giải thích rõ ràng sự khác biệt của ba khái niệm này. Một bài báo nêu ra rằng những người đồng tính nam hiện nay thuộc ba nhóm chủ yếu: 70% có bề ngoài giống như những người đàn ông bình thường, khoảng 10% người ăn mặc, trang sức, tác phong như phụ nữ và khoảng 20% thuộc nhóm nằm giữa hai nhóm này. Bên cạnh đó, quan niệm cho rằng ngày nay càng có nhiều người đồng tính là do đua đòi cũng khá phổ biến. Tuy vậy, một bác sĩ cho biết ngày nay lượng người đồng tính dám thể hiện mình nhiều hơn không phải vì họ tăng lên mà chỉ vì cái nhìn của xã hội đã dần thông thoáng.

Một số vấn đề vi phạm pháp luật liên quan tới người đồng tính hay được đăng trên các báo trong khi đó những mặt tích cực chưa được biết tới vì nhiều lý do. Nhiều bài báo cho rằng tội phạm đồng tính đang gia tăng. Vài người lợi dụng mối quan hệ không công khai, để giết bạn tình là người đồng tính và cướp tài sản. Vài tờ báo đăng về hiện tượng mại dâm nam trong đó người mua dâm có thể là những phụ nữ trung niên hoặc người đồng tính nam. Vài vụ đã bị công an phát hiện. Đây là cách nhìn phân biệt đối xử do tội phạm có thể là bất cứ giới tính nào. Đồng thời, điều này có thể mang tính xúc phạm do không dùng đúng tên gọi của giới tính trên tiêu đề ( đồng tính là cách gọi chung cho cả đồng tính nữ và nam). Những tin tức này có thể làm cho người dân đánh giá người đồng tính chỉ dựa trên một bộ phận trong cộng đồng này. Để có cái nhìn chính xác về các mặt pháp luật cần phải có những thống kê và nghiên cứu tỉ lệ phạm tội của người đồng tính và của người không phải là đồng tính cũng như những yếu tố đặc thù liên quan.

Điều tra quốc gia về “Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới” được Viện Xã hội học (Viện Hàn lâm Khoa học – Xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) công bố ngày 26/3/2014, cuộc điều tra được thực hiện tại 68 xã, phường thuộc 8 tỉnh, thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân.:

90% người dân Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính.

30% người dân có quen ai đó là người đồng tính (họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm…).

Khi được hỏi về một số quyền cụ thể được đề cập đến trong Luật Hôn nhân – Gia đình, có 56% người dân cho rằng cặp đôi cùng giới nên có quyền cùng nhận con nuôi và nuôi con, 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế tài sản.

Đa số người dân cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình (72,7%) hay cá nhân họ (63,2%).

Về việc công nhận quyền sống chung giữa những người cùng giới tính, số người ủng hộ là 41,2% (hình thức sống chung theo dạng “kết hợp dân sự” hoặc “đăng ký sống chung như vợ chồng) và 33,7% ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới.

Báo chí truyền thông

Định kiến đối với người đồng tính trên báo chí được cho là giảm theo thời gian mặc dù tỉ lệ kỳ thị còn cao. Năm 2009, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, qua nghiên cứu hơn 500 bài báo thuộc bốn báo in và sáu báo mạng, cung cấp kết quả tỉ lệ kỳ thị chiếm 41%, không kỳ thị chiếm 18%, không xác định 41%. Tuy nhiên, cộng đồng đồng tính Việt Nam rất đa dạng, không như mô tả của hơn 500 bài báo này. Có người cho rằng các cơ quan truyền thông cần đăng tải những bài viết, hình ảnh “người thực việc thực”.

Vấn đề đồng tính là chủ đề chính trong các bài báo chỉ chiếm tỷ lệ 1/3. Tỷ lệ 2/3 còn lại, đồng tính được nhắc đến như chủ đề phụ. Khi nói về những người nổi tiếng, đồng tính được sử dụng là chi tiết để gây sự chú ý cho người đọc cho thấy cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng đắn. Điều này khiến xã hội có cái nhìn phiến diện về đồng tính luyến ái.

Rất ít bài báo đề cập đến nguy cơ hành vi tình dục của người đồng tính và nếu có đề cập, thông tin cũng mơ hồ và không đầy đủ. Nhiều bài viết thiên về quan niệm hành vi tình dục của người đồng tính là đáng lên án, lệch chuẩn, là ăn chơi đua đòi, sống trụy lạc. Quyền được kết hôn của người đồng tính được đề cập nhiều nhất. Các nôi dung như quyền yêu và được yêu, có con, nhận con nuôi, quyền tiếp cận với các dịch vụ tư vấn thể hiện không nhiều trong các bài báo.

Một nhóm hơn 20 nhà báo có nhu cầu được mời dự lớp tập huấn, chia sẻ thông tin với chuyên gia tình dục học, nhà hoạt động xã hội trong ngoài nước cũng như gặp gỡ các tổ chức và cá nhân trong giới đồng tính. Mục đích là có kiến thức đúng, cập nhật về giới đồng tính để viết bài. Hoạt động này nằm trong dự án “Xây dựng hình ảnh tích cực của những người đồng tính, người lưỡng giới và chuyển giới tại Việt Nam” do iSEE thực hiện- Quỹ Ford tài trợ, kéo dài đến tháng 9 năm 2009.

Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iESS) và Khoa xã hội học – Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã kết hợp tiến hành một nghiên cứu quy mô về: ” Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng“. Nghiên cứu đã tổng hợp 502 bài báo nói về đồng tính đăng trên 4 báo in gồm Thanh niên, Tuổi trẻ, Tiền phong, Công an nhân dân, và 6 báo mạng gồm VnExpress, VietNamNet, Dantri, ngoisao.net, cand.com.vn, giadinh.net.vn, đăng tải vào năm 2004, 2006 và 2 quý đầu năm 2008. Nghiên cứu kết luận những thông điệp khách quan, khoa học sẽ giúp cộng đồng hình thành nhận thức đúng và hành vi chuẩn mực đối với nhóm xã hội này, ngược lại những thông điệp mang định kiến hoặc thiếu tính khoa học về người đồng tính có thể tạo ra hay củng cố những nhận thức sai lệch và thái độ kỳ thị. Các kết quả chủ yếu như sau

79% những bài báo kể về người đồng tính ở thành thị, trong khi chỉ có 4% số bài nói về người đồng tính ở nông thôn. Điều này có thể khiến người đọc suy nghĩ thiếu căn cứ rằng tỷ lệ người đồng tính ở đô thị cao hơn nông thôn. Thực chất, người đồng tính ở nông thôn thường có xu hướng giấu kín khuynh hướng tình dục của mình hơn.

80% số bài báo nói về người đồng tính ở tuổi thanh niên, trong khi các nhóm tuổi khác rất ít. Điều này khó tránh khỏi những lý giải không thoả đáng nghiêng về lối sống và văn hoá của giới trẻ hơn là xem xét bản chất vấn đề.

3/4 số bài nói về người đồng tính nam, trong khi chỉ 1/4 số bài về người đồng tính nữ khiến nhóm đồng tính nữ ít được chú ý hơn nam. Thực chất nhóm đồng tính nam thường có xu hướng lộ diện hơn còn nhóm đồng tính nữ có xu hướng giấu kín hơn.

Tỷ lệ lớn chỉ nói về người đồng tính trong lĩnh vực nghệ thuật, có thể gây ấn tượng sai lầm cho rằng người đồng tính tập trung trong giới nghệ thuật. Thực chất người đồng tính có trong mọi lĩnh vực ngành nghề nhưng người hoạt động nghệ thuật thường công khai xu hướng tình dục (come out) nhiều hơn. Trong một khảo sát của iSEE, người đồng tính trong lĩnh vực nghệ thuật chỉ chiếm thứ hai (13.5%), sau nhóm làm trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng (18%) và chỉ nhỉnh hơn nhóm nghiên cứu và khoa học kỹ thuật (11.4%).

Các khái niệm liên quan đến đồng tính bị sử dụng nhầm lẫn: như quy khái niệm “chuyển giới” về khái niệm “đồng tính”, nhầm lẫn bản chất của “định hướng tình dục”, “bản dạng tình dục” và “Hành vi tình dục”… có thể cung cấp kiến thức sai và gây hiểm nhầm cho xã hội.

Nhấn mạnh quá mức hoặc phiến diện về nhu cầu tình dục của người đồng tính: Mô tả người đồng tính là nhóm có nhu cầu tình dục lớn, không kiềm chế được bản năng tình dục hoặc thỏa mãn tình dục bằng mọi giá; quan hệ tình dục với trẻ em; bạo dâm… từ đó có thể tạo ra định kiến xã hội rằng tình dục đồng tính là đáng lên án, đáng ghê tởm, không an toàn, là lối sống trụy lạc. Trong khi nhu cầu tình dục của người dị tính được xem là bình thường và đương nhiên thì nhu cầu tình dục và hành vi tình dục của người đồng tính bị xem như một hiện tượng bất thường, khó chấp nhận, thậm chí đáng ghê tởm.

Mô tả thiên lệch mối quan hệ của người đồng tính: Chủ yếu viết về người đồng tính tìm kiếm bạn tình qua các kênh như mạng internet, câu lạc bộ, quán bar, cà phê, vũ trường, hộp đêm, mát xa, công viên, đứng đường… đã bổ sung thêm cho định kiến về nhóm đồng tính là nhóm ăn chơi, buông thả, nhân cách không tốt. Nhiều bài thể hiện nhóm đồng tính như những người có nhiều bạn tình một lúc và thay đổi liên tục, hoặc mối quan hệ chỉ chóng vánh không bền vững… Thực chất tình yêu của người đồng tính giống người dị tính nhưng thường không được xã hội và gia đình thừa nhận và ủng hộ, khi gặp khó khăn không ai chia sẻ cảm thông, nên việc duy trì tình yêu và mối quan hệ bền vững đối với người đồng tính là khó khăn hơn nhiều.

Mô tả chân dung người đồng tính với nhân cách hay đạo đức không tốt: Gắn các bài liên quan đến tội phạm, tệ nạn xã hội giết người, ma túy, mại dâm… trong đó thủ phạm hoặc chủ thể của tệ nạn là người đồng tính để cập nhân cách đạo đức của người đồng tính.

Các nhu cầu của người đồng tính được đề cập thiếu khách quan, các quyền của người đồng tính không được nhắc đến: Trong khi nhu cầu tình dục bị nhấn mạnh quá mức tạo ra định kiến thì các nhu cầu khác như: nhu cầu yêu và được yêu, nhu cầu kết hôn và có con, nhu cầu khẳng định bản thân và được người khác tôn trọng… không được quan tâm đúng mức. Ví dụ, nhu cầu con cái của người đồng tính chỉ được nhắc đến trong 25 trên tổng số 502 bài…

Quan hệ gia đình và xã hội của người đồng tính ít được quan tâm.

Nghiên cứu đã chỉ ra các cách thức đưa tin đã tạo ra hình ảnh sai lệch về người đồng tính:

Sử dụng ngôn ngữ làm tăng định kiến với nhóm đồng tính:

Nhóm ngôn ngữ tích cực chỉ xuất hiện ở một phần ba trong tổng số các bài được đưa vào nghiên cứu. Một số bài báo còn sử dụng các ngôn ngữ tạo kỳ thị trong nội dung hoặc tiêu đề để gây sự hiếu kỳ, giật gân, câu khách như: pêđê, bóng/bóng lộ/bóng kín; thế giới thứ 3/giới tính thứ 3; chuyển giới; trai xịn, xăng pha nhớt, hai thì, hifi, đa hệ, dân gay, đồng cô, lưỡng tính, tám vía, má mì, đồng cô bóng cậu, bống, ômôi, bướm, trai gọi đồng tính… Một số tác giả sử dụng ngôn ngữ chỉ sự thấp hèn, hàm chứa sự coi thường và chế nhạo người đồng tính. Một số nhà báo sử dụng ngôn ngữ nhân đạo, thương cảm, thông cảm, thương hại khi viết về người đồng tính.

Việc báo chí lạm dụng ngôn ngữ giật gân nhằm thu hút công chúng làm phương hại đến hình ảnh của người đồng tính, gây ra cách hiểu không đúng và định kiến xã hội đối với nhóm người này.

Cố gắng giải thích nguyên nhân của đồng tính:

17% bài viết đề cập đến nguyên nhân đồng tính lại cho rằng đồng tính là do đua đòi, để thể hiện sự sành điệu mà làm “đồng tính giả”, bị “tuột không phanh” và cuối cùng thành “đồng tính thật”… tạo sự sự xa lánh, hiểu lầm và kỳ thị với người đồng tính. Tồn tại 2 nhóm cố gắng tìm cách lý giải nguyên nhân đồng tính chia theo 2 hướng chủ yếu: hướng y – sinh học xem đồng tính là bẩm sinh, và hướng y – xã hội xem đồng tính là do lây lan, đua đòi, vì tiền, vì bối cảnh sống, vì có “căn quả”..v..v.. Hướng thứ nhất coi đồng tính là bẩm sinh nhưng lại hướng công chúng thông cảm với tình cảnh của nhóm không may mắn. Hướng thứ hai khắc họa đồng tính là nhóm lệch chuẩn, bị lên án, cần hạn chế và ngăn chặn. Cả hai hướng lý giải như trên đều không thoả đáng với người đồng tính và tạo ra những định kiến, kỳ thị với nhóm này.

Khắc họa chân dung người đồng tính dựa trên khuôn mẫu giới:

Khắc họa người đồng tính qua lăng kính, chuẩn mực của người dị tính hoặc mô tả đặc điểm giống người chuyển giới, tạo cho công chúng hình ảnh sai lầm và phiến diện, làm mất đi sự phong phú đa dạng về tâm lý – xã hội của người đồng tính,.

Mức độ kỳ thị trong nội dung các bài báo còn khá cao:

Nhóm đồng tính bị hạ thấp giá trị so với nhóm dị tính trên cơ sở những khác biệt so với chuẩn mực của nhóm dị tính. 41% tổng số các bài báo được đưa vào nghiên cứu vẫn chứa đựng yếu tố kỳ thị ở các khía cạnh.

Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị với các nhà làm truyền thông:

Tìm hiểu và bồi đắp các kiến thức khoa học về định hướng tình dục, bản dạng giới.

Cẩn trọng khi sử dụng ngôn ngữ: Tránh sử dụng ngôn ngữ gọi tên với hàm ý hạ thấp, coi thường, ngôn ngữ giật gân, câu khách, đấu tranh đạo đức – tệ nạn xã hội, ngôn ngữ về nỗi sợ hãi…, là các nhóm ngôn ngữ thiếu tích cực. Thay vào đó sử dụng ngôn ngữ tích cực để mô tả những người đồng tính một cách khách quan, bình đẳng và tôn trọng.

Tiếp cận vấn đề với ý thức tôn trọng sự đa dạng và khác biệt: Tránh dùng chuẩn mức của nhóm dị tính để so sánh và hạ thấp giá trị của nhóm đồng tính, loại bỏ các định kiến và khuôn mẫu để mô tả chân thực sự đa dạng về tâm lý xã hội của nhóm người đồng tính…

Đề cao sứ mạng của truyền thông với xã hội: Phản ánh chân thực đời sống của người đồng tính, xóa bỏ định kiến và hướng đến một xã hội tự do, bình đẳng.

Khái niệm đồng tính giả khá phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về đồng tính luyến ái. Trước sự xuất hiện của HIV/ AIDS tại Việt Nam đầu thập niên 1990, có rất ít thông tin về đồng tính luyến ái. Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học nổi tiếng nhất tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: thật và giả. Những người đồng tính thật là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là “giả”, bị bạn bè rủ rê hoặc muốn để thử nghiệm các lối sống mới, nhưng cuối cùng cũng sẽ trở về lối sống trước đó. Sau trao đổi ý kiến với ông Sơn, các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse cho rằng quan điểm đó thiên về ý kiến cá nhân của ông Sơn hơn là từ các nghiên cứu hay dữ liệu. Tuy thế, vì bác sĩ Sơn có nhiều ảnh hưởng và các tác phẩm của ông được biết tới rộng rãi, quan điểm này được phổ biến tại Việt Nam và được xem là đúng.

Báo chí Việt Nam có những bài báo nói về thực trạng đồng tính nữ “theo phong trào” trong học đường. Những học sinh nữ này đều có hoàn cảnh éo le, gia đình không hạnh phúc, sức học yếu. Ngay trên mạng xã hội, nhiều nữ sinh cũng tham gia vào những diễn đàn “đấu tranh” cho việc kết hôn đồng tính, có em còn đăng nguyên ảnh thừa nhận mình là đồng tính nữ hoặc công khai những tấm ảnh hôn hít với bạn cùng giới dù thật sự các em không phải là người đồng tính. Phần lớn các cặp đồng tính nữ này sau thời gian ngắn thì chia tay và quay sang yêu người nam. Theo các chuyên gia tâm lý, sự xuất hiện nhiều cặp “đồng tính nữ giả” chủ yếu do một số nguyên nhân: Sự xuất hiện một số trang web, Facebook tạo nên một hiệu ứng xã hội về xu hướng sống mới, có một số bạn bị bạn bè rủ rê tham gia và trở thành nạn nhân của xu hướng sống mới này. Những em bị lôi cuốn bởi bạn bè của mình có rất nhiều xung đột từ chính bản thân của mình khiến cho các em trở nên cô đơn, dẫn đến sự “nổi loạn” về tâm lý được biểu hiện ra bằng những hành vi đồng tính.

Lời khuyên và phát biểu

Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Trưởng bộ môn Tâm lý, khoa Tâm lý giáo dục trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng:

” Đồng tính không phải là bệnh, không thể lây lan và không thể chữa được. Chính vì vậy chúng ta nên giúp những người đồng tính để họ có cuộc sống tốt hơn. Chúng ta có một số kỹ thuật để kiểm tra và tư vấn xem học sinh đó có là đồng tính thật hay không. Học sinh đồng tính cũng có nhiều nhu cầu như mọi em khác, như học tập, vui chơi, kết bạn, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Những người tham gia công tác giáo dục trẻ em, những nhà chuyên môn, nhà tham vấn, phụ huynh cần có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này. ”

Bác sĩ Phạm Nam Việt, phòng khám nam khoa, bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, khuyên một phụ huynh có con là đồng tính:

Giữ kín bí mật cho con nếu con muốn giữ bí mật.

Hãy là chỗ dựa tinh thần cho con. Cháu đã bị rất nhiều áp lực từ xã hội, đừng để cháu bị bất cứ một chút áp lực nào từ gia đình nữa. Không nên ép buộc cháu thừa nhận là đồng tính mà hãy để cháu tự nói ra khi cháu thấy đủ tự tin và cần thiết.

Hãy để chính con chị là người quyết định cuối cùng trong mọi quyết định về lối sống (phụ huynh có thể tham gia với vai trò của một người tư vấn định hướng), vì chỉ như vậy cháu mới tìm được sự thanh thản và hạnh phúc.

Ông Lê Quang Bình, viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, cho rằng:

” Để giảm bớt sự kỳ thị của mọi người với người đồng tính cần cung cấp cho mọi người thêm kiến thức về người đồng tính để họ hiểu hơn. Kiến thức đó bao gồm các khía cạnh như xu hướng tình dục không phải là sự lựa chọn của mỗi người mà đó là điều sẵn có, và đồng tính không phải là bệnh. Nó cũng không lây như nhiều người nghĩ. Khi có được những hiểu biết đúng đắn sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi, thái độ với người đồng tính. ”

Tùy thuộc vào mức độ công khai và sự cởi mở của mình mà người đồng tính có cách sống khác nhau. Nhiều người đồng tính gặp gỡ nhau ở các tụ điểm như vũ trường, karaoke, quán cà phê. Những người kín đáo hơn thường làm quen với nhau thông qua các diễn đàn trên internet. Từ đầu những năm 2000, các diễn đàn tiếng Việt trên internet dành cho người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ bắt đầu xuất hiện và tăng dần về số lượng. Các hoạt động như tổ chức thi viết truyện, giao lưu giữa các thành viên, hoạt động từ thiện, radio online cũng thường được tổ chức ở một vài diễn đàn. Tuy nhiên, chỉ một số lượng rất nhỏ thành viên của các diễn đàn dám tham gia các cuộc gặp gỡ đông người. Ngoài ra, cũng có những người đồng tính có cuộc sống dị tính luyến ái và không có bất cứ liên hệ nào với người đồng tính khác.

Ở Việt Nam, mặc dù cũng có những mối quan hệ đồng tính bền lâu, những trường hợp như vậy khá hiếm. Một bài báo cho rằng có những mối quan hệ đồng tính kéo dài nhưng tỉ lệ mối quan hệ hơn 10 năm là thấp. Lý do được đưa ra là ít có ràng buộc chẳng hạn như không có hôn thú, con cái, lại bị lên án hoặc không được công nhận. Một tỉ lệ nhỏ các cặp đồng tính nữ có mối quan hệ lâu bền công khai sống chung. Việc công khai sống chung lâu dài ở đồng tính nam là rất hiếm. Một bộ phận người đồng tính nam lập gia đình với phụ nữ. Những người khác thì chọn cách sống độc thân.

Sự kỳ thị của cộng đồng không chỉ làm cho cuộc sống của những người đồng tính rất khó khăn mà còn có thể làm ảnh hưởng đến những người không phải là đồng tính và xã hội nói chung. Một chuyên gia tư vấn tâm lý nói rằng đa số những học sinh đồng tính thường có tâm trạng hoang mang, cô độc. Điều này có thể dẫn đến nguy hiểm. Họ có thể sa sút tinh thần, có thái độ bướng bỉnh, nhiều học sinh thường xuyên có ý định tự sát. Bên cạnh đó, vì lý do sợ xã hội kỳ thị, nhiều người đồng tính nam đã lập gia đình với phụ nữ và sinh con tuy nhiên họ không cảm thấy hạnh phúc và gây ra đau khổ cho người vợ của mình. Ngoài ra, vì không được xã hội công nhận, người đồng tính thường giấu mình. Mà như vậy càng làm tăng khả năng lây nhiễm HIV trong cộng đồng.

Các tổ chức và hoạt động

Các tổ chức và hoạt động dành cho người đồng tính ở Việt Nam là khá hiếm và không đa dạng. Gần đây, một số câu lạc bộ dành cho MSM được thành lập như câu lạc bộ Hải Đăng ở Hà Nội, Ánh Sao Đêm ở Đà Nẵng, Muôn Sắc Màu ở Khánh Hoà, Bầu Trời Xanh ở thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Xanh ở Cần Thơ. Các câu lạc bộ này cung cấp cho những người nam có quan hệ tình dục với nam kiến thức cơ bản về HIV/AIDS và tình dục an toàn, cũng như giúp các thành viên có cơ hội chia sẻ khó khăn trở ngại để cùng tìm cách giải quyết. Ngoài ra còn có biểu diễn văn nghệ, thời trang, hài kịch lồng ghép với các chủ đề về HIV/AIDS hay đánh giá về hành vi tình dục. Người tham gia chủ yếu là các MSM, nhưng cũng có không ít người dân đến xem. Bên cạnh đó, vận động chính quyền, các tổ chức để cung cấp thông tin về cho người dân hiểu thêm về MSM để họ có cái nhìn thiện cảm hơn về MSM. Người tham gia cũng được tham vấn xét nghiệm HIV miễn phí, giấu tên. Là một trong những hoạt động hiếm hoi được tổ chức một cách công khai, cuộc thi Manstyle 2008 tìm kiếm nam vương của người đồng tính Việt Nam đã diễn ra vào tối ngày 20/12/2008 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tháng 11 năm 2008, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường đã kết hợp với đại diện của một số diễn đàn internet dành cho người đồng tính như Tình yêu trai Việt, Táo xanh, Vườn tình nhân, và Bạn gái Việt Nam thành lập ra Nhóm kết nối và chia sẻ thông tin vì một hình ảnh tích cực của người đồng tính Việt Nam (ICS team-Information Connecting & Sharing). Tổng cộng, số thành viên của các diễn đàn này lên tới vài chục ngàn lượt người.

Theo báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong hai ngày 22 và 23 tháng 4 năm 2009 tại Hà Nội, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) và Nhóm Kết nối và Chia sẻ Thông tin (ICS) tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy và bảo vệ Quyền của cộng đồng LGBT”. Tham gia Hội thảo có hơn 30 đại diện của các câu lạc bộ và website dành cho người đồng tính nam, đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới, cùng các nhóm hoạt động xã hội của nhóm MSM (nam có quan hệ tình dục với nam) trên cả nước. Cộng đồng LGBT (viết tắt của Lesbian, Gay, Bisexual và Transgender) bao gồm đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng giới và chuyển giới.

Năm 2009, một Đường dây tư vấn ra đời với mục đích cung cấp thông tin và tư vấn tâm lý cho những người đồng tính nữ, gia đình hoặc bạn bè của họ, những người muốn tìm hiểu thêm thông tin về đồng tính.

Chỉ một tỉ lệ nhỏ người đồng tính công khai thiên hướng tình dục của mình, trong đó số người được công chúng biết đến công khai rất hiếm. Năm 2006, nhạc sĩ Thái Thịnh, chuyên gia trang điểm Nguyễn Hùng công khai mình là người đồng tính. Sau đó là ca sĩ Thiên Đăng. Nguyễn Hùng cho rằng “Tiếp theo, nên có những người lên tiếng nữa, nhất là trong giới nghệ sĩ, để xã hội thay đổi, giúp người đồng tính dễ thở hơn.”

Trong cộng đồng người đồng tính Việt Nam, có nhóm người ủng hộ việc công khai thiên hướng tình dục, có nhóm người phản đối. Nhóm ủng hộ cho rằng không gì hạnh phúc hơn là sống với chính bản thân mình và việc giấu giếm chỉ khiến thêm đau khổ, dằn vặt, lúc nào cũng cảm thấy lo sợ. Những người phản đối thì cho rằng, người đồng tính không nên làm vậy bởi xã hội hiện nay vẫn còn nhiều định kiến và nếu công khai sẽ khiến họ mất mát nhiều thứ, đồng thời khiến người xung quanh cũng có cái nhìn khác về họ. Còn bản thân họ thì lại lo sợ sẽ làm gia đình đau khổ và chính bản thân cũng chịu áp lực cao từ người thân. Đa số trường hợp gia đình biết một người nữ là đồng tính là do bị “lộ chứ họ không chủ động công khai.” Người đồng tính nữ rất ngại trước câu hỏi: “Bao giờ lấy chồng?” Ông Lê Quang Bình cho rằng: “Việc công khai hay không công khai là lựa chọn của mỗi người. Một người đồng tính khi công khai thì tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và thái độ của mỗi người.”

Người đồng tính có ở nhiều tầng lớp khác nhau, làm nhiều nghề khác nhau và có nhiều lối sống khác nhau. Nhiều người đồng tính thành đạt trong công việc. Nhiều bài báo cũng như nghiên cứu, thống kê tập trung vào những người đồng tính có hoạt động tình dục rộng rãi hoặc những người dễ dàng bộc lộ thiên hướng tình dục có thể làm nhiều người đánh giá sai hoặc có ác cảm với người đồng tính nói chung. Việc công khai thiên hướng tình dục của nhiều người là trí thức hoặc có địa vị trong xã hội hoặc ở nhiều tầng lớp, nghề nghiệp, lối sống khác nhau có thể làm cho người ta giảm bớt thành kiến hoặc ít ra có cái nhìn rộng rãi hơn về người đồng tính. Tuy nhiên, khi xã hội còn nhìn nhận đồng tính còn khá khắt khe thì người đồng tính trí thức hoặc có địa vị lại có xu hướng không công khai thiên hướng tình dục của mình. Người đồng tính trẻ ở Việt Nam cũng như ở các nước châu Á rất mong muốn có được một môi trường thân thiện đồng tính như một số nước ở phương Tây.

Trong văn hóa đại chúng

Xuân Diệu, người được cho là ông hoàng của thơ tình Việt Nam, có bài Tình trai nói về mối tình đồng tính của hai nhà thơ người Pháp Rimbaud và Verlaine.

Tôi nhớ Rimbaud với VerlaineHai chàng thi sĩ choáng hơi menSay thơ xa lạ, mê tình bạnKhinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen…

Bài Em đi (1965) với lời đề tặng nhà thơ Hoàng Cát được viết với những lời thơ tha thiết khi chia tay Hoàng Cát vào Nam chiến đấu. Bài Biển mô tả tình yêu nồng nàn giữa hai hình tượng sóng biển và cát vàng cũng được cho là ngụ ý nói về Hoàng Cát (cát vàng). Hoàng Cát đã từng xác nhận “Tôi với anh Xuân Diệu có nhiều điều “Sống để dạ, chết mang đi”. Nhưng tôi muốn nói với bạn rằng việc đàn ông yêu nhau là do cấu tạo thể chất chứ bản thân họ chẳng có tội tình gì.” Có người cho rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận là hai nhà thơ đồng tính luyến ái. Huy Cận và Xuân Diệu từng sống với nhau nhiều năm. Theo hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này.

Một thế giới không có đàn bà của nhà văn Bùi Anh Tấn là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam viết về đề tài người đồng tính, đã nhận giải A cuộc thi viết tiểu thuyết và ký “Vì an ninh Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên”. Tuy nhiên, ở đoạn cuối của tác phẩm, hai nhân vật đồng tính yêu nhau đã chuyển sang yêu người khác giới. Bùi Anh Tấn đã xác nhận rằng đoạn cuối thực của anh đã bị cắt mất và đoạn của nhà xuất bản được thay vào. Trong các lần tái bản sau, ngoài đoạn kết do nhà xuất bản đưa vào, tác giả còn đưa vào thêm một đoạn kết với nội dung hai nhân vật nam chính cuối cùng vẫn không quên được nhau, và để cho độc giả tự lựa chọn kết thúc mình muốn. Ngoài ra anh còn viết Les-Vòng tay không đàn ông.

Một số tác phẩm khác về đề tài đồng tính là Bóng, tự truyện của Nguyễn Văn Dũng do hai nhà báo Hoàng Nguyên, Đoan Trang viết, 198X của Quỳnh Trang, Lạc giới của Thuỷ Anna, Không lạc loài, tự truyện của Thành Trung do nhà văn Lê Anh Hoài viết, Xin lỗi em, anh đã yêu anh ấy, tiểu thuyết và Chuyện tình của Lesbian và Gay của Nguyễn Thơ Sinh. Nguyễn Thơ Sinh tốt nghiệp cao học tư vấn tâm lý Đại học Bowie, Hoa Kỳ hiện đang làm việc tại Hàn Quốc.

Ở Việt Nam, đề tài đồng tính không bị cấm, nhưng trước đây người viết hay né tránh. Vì thiếu thông tin, nên hiểu biết của mọi người về người đồng tính này thường sa vào khía cạnh tiêu cực, đánh đồng giới đồng tính với sự sa đọa, bệnh tật, tệ nạn xấu xa. Hiểu sai dẫn đến ứng xử sai, khiến người đồng tính trở nên mặc cảm, sống co cụm.

Điện ảnh và truyền hình

Một thế giới không có đàn bà của nhà văn Bùi Anh Tấn đã được dựng thành phim nằm trong loạt phim truyền hình Cảnh sát hình sự. Bộ phim ít nhiều đã phản ánh được những giằng xé nội tâm, những bi kịch giới tính. Trong bộ phim Cô gái xấu xí phần 2, nhân vật phụ Hùng Long được thể hiện như một người khá nữ tính nhưng là một người có tài năng và sống có tình cảm. , phim nhựa đầu tiên của Việt Nam tham gia Liên hoan phim Venice, do Bùi Thạc Chuyên đạo diễn, có mô tả mối tình đồng tính kín đáo của hai nhân vật nữ.

Tuy nhiên, hầu hết các phim có nhân vật người đồng tính ở Việt Nam đều khai thác mẫu hình nhân vật này dưới “mô típ” những người có ngoại hình và tính cách ẻo lả giống đàn bà, hoặc có những hành vi theo đuổi những người đàn ông khác một cách lộ liễu và thiếu nghiêm túc, hay có những đức tính tiêu cực như chua ngoa, đanh đá…, thậm chí là “bệnh hoạn” nhằm mục đích gây cười và trở thành yếu tố “câu khách” cho bộ phim của mình. Tuy nhiên, việc này nhiều khi gây ra tác dụng ngược, làm cho khán giả thấy phản cảm và lố bịch, thậm chí “ghê sợ”. Trong khi đó, việc phản ánh đúng cuộc sống thực tế, suy nghĩ và tình cảm, trăn trở và khát khao của những người đồng tính lại không được coi trọng một cách thấu đáo. Điều này đã góp phần khiến dư luận xã hội có cái nhìn sai lệch, thêm phần ác cảm và kỳ thị, thiếu tôn trọng đối với người đồng tính. Một số đạo diễn cũng thừa nhận thực tế này và cho rằng nên có những bộ phim thể hiện người đồng tính một cách đúng đắn và nghiêm túc hơn cho dù chỉ là vai phụ.

Những bộ phim như Những cô gái chân dài, đều ít hoặc nhiều nói về đồng tính.

Những Nụ Hôn Rực Rỡ là một trong những bộ phim ca nhạc chiếu vào dịp Tết 2010, nội dung phim có đề cập đến nhân vật Tô Lâm, một nhân vật đồng tính vì sự kì thị của gia đình đã bỏ gia đình đi theo tiếng gọi của ước mơ là một diễn viên múa. Tô Lâm đã giúp đỡ cô chủ của mình và cuối phim đã được đền đáp xứng đáng bằng một nụ hôn với người mình yêu…

Cuối tháng 04 năm 2010, Bộ phim truyện nhựa Để Mai Tính đề cập một khía cạnh khá mới của chủ đề đồng tính. Bộ phim thành công bởi hình ảnh đẹp, cảnh quay chân thực và nội dung phim nhẹ nhàng, dựng theo tính hài hước, cảm thông và rất giàu tính nhân văn.

Phim Hot boy nổi loạn, hay Câu chuyện về thằng Cười, cô gái điếm và con vịt của đạo diễn Vũ Ngọc Đãng thể hiện sự thông cảm với giới đồng tính nhận được nhiều khen ngợi và được trình chiếu tại Liên hoan phim Toronto, Canada. Phim Cảm hứng hoàn hảo của đạo diễn Lê Dũng gây tranh cãi về kịch bản.

Có một số bài hát được viết về tình yêu đồng tính trong đó Tình tuyệt vọng của nhạc sĩ Thái Thịnh, Chiếc bóng của nhạc sĩ Phương Uyên, và Tìm lại chính tôi là những bài được công khai là viết về đồng tính luyến ái.

Nhiếp ảnh, hội họa

Tháng 7 năm 2007, tại thành phố Hồ Chí Minh, họa sĩ Trương Tiến Trà giới thiệu 11 tác phẩm nằm trong dự án hội họa kéo dài 3 năm với tên là The Distorted Truth ( Sự thật méo mó) lấy chủ đề chính những người đồng tính.

Tháng 10 năm 2009, triển lãm tranh với chủ đề Góc nói về người đồng tính nữ đã diễn ra tại 29 Hàng Bài, Hà Nội do diễn đàn bangaivn.net thực hiện dứoi sự hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới – Gia đình – Phụ nữ và Vị thành niên ( CSAGA) và Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam.

Cuối tháng 11 năm 2009, nhằm kỉ niệm một năm thành lập, iSEE và ICS đã tổ chức một chuỗi sự kiện đầu tiên của Việt Nam về người đồng tính. Triển lãm tranh với chủ đề Open-Mở được tổ chức từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 11 năm 2009 tại Nhà Văn hóa Thanh Niên Thành phố Hồ Chí Minh. 56 tranh, ảnh, sắp đặt được trong triển lãm được cho là đậm tính nhân văn, gửi gắm tâm sự, ước nguyện, thể hiện khát vọng mở lòng, trải lòng và hòa nhập cộng đồng, xã hội của người đồng tính. Thạc sĩ Lê Quang Bình, viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam cho biết “Triển lãm này là một trong nhiều hoạt động khác nhằm giúp xã hội hiểu hơn về người đồng tính. Từ đó mọi người có cái nhìn chia sẻ và mở lòng với người đồng tính để người đồng tính trải lòng với thế giới xung quanh.” Sáng 29 tháng 11 năm 2009, tại báo Tuổi Trẻ đã diễn ra buổi giao lưu cộng đồng người đồng tính với 85 đại diện các diễn đàn internet dành cho người đồng tính tại Việt Nam và gần 30 phóng viên các báo đài.

Triển lãm ảnh về người đồng tính bao gồm 120 bức ảnh về cuộc sống, những kỷ niệm buồn vui, câu chuyện tình yêu, tình dục hay những tâm tư tình cảm của người đồng tính được đưa ra công chúng tại nhà triển lãm 45 Tràng Tiền (Hà Nội) chiều ngày 21 tháng 11 năm 2011.

Bộ ảnh The Pink Choice của nhiếp ảnh gia Maika Elan, tên thật là Nguyễn Thanh Hải, đoạt giải nhất thể loại Contemporary Issues ( Vấn đề đương đại) trong cuộc thi World Press Photo 2012. Tác giả trở thành người Việt Nam đầu tiên đoạt giải thưởng World Press Photo, một trong những giải thưởng danh giá nhất thế giới trong lĩnh vực nhiếp ảnh. Xem ảnh tại Bộ ảnh ‘The Pink Choice’. Tác giả chia sẻ:

Tôi muốn người dị tính khi xem ảnh phải ghen tị với tình yêu của những người mà bấy lâu họ cho là khác biệt. Tình cảm người đồng tính dành cho nhau bình thường và tự nhiên như bao cặp đôi khác.

Trong khoa học và nghiên cứu

Mặc dù rất cần thiết, chưa có nhiều nghiên cứu về đồng tính luyến ái ở Việt Nam Theo ông Đinh Hường, Chủ nhiệm Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, hiện nay trong chương trình đào tạo chưa có bài giảng chuyên sâu về lĩnh vực này. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Thái, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) phát biểu: “Đồng tính là vấn đề xã hội, cần phải được truyền thông một cách nghiêm túc và khoa học”.

Ngày 25/2/2011 bộ phim tài liệu về đồng tính nữ đầu tiên tại Việt Nam có tên Đường nào đi tới biển ( Which way to the sea?) do Trung tâm nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về giới-Gia đình-Phụ nữ và Vị thành niên ( CSAGA) và Chương trình phim tài liệu tại viện Goethe Hà Nội sản xuất với sự giúp đỡ của diễn đàn Bạn Gái VN và tài trợ của Đại sứ quán Thụy Điển đã được trình chiếu tại rạp chiếu phim Cinematheque. Lần đầu tiên, những hình ảnh thật, những sinh hoạt đời thường của chính những người trong cuộc được đưa lên màn ảnh. Bộ phim là một chuỗi tự chuyện của 5 đôi bạn. Những cảm xúc, suy nghĩ, những mong muốn đưa ra trong bộ phim tài liệu cũng là những gì cộng đồng người đồng tính nữ muốn gửi gắm tới người xem.

^ Don Colby, Cao Hữu Nghĩa và Serge Doussantousse, Men who have sex with men and HIV in Vietnam (Những người nam có quan hệ tình dục với nam và HIV tại Việt Nam) (MEN WHO HAVE SEX WITH MEN AND HIV IN VIETNAM: A REVIEW, tiếng Anh). AIDS Education and Prevention, 16(1), 45-54, 2004.

^ Loại thuốc nào cho người đồng tính? | ANTĐ – Báo điện tử An Ninh Thủ Đô

^

^ Helmut Graupner, International Bar Association Conference, Phillip Tahmindjis (2005). Sexuality and Human Rights (Tình dục và quyền con người). Haworth Press. tr. 192. ISBN 1560235551.

“Bộ trưởng Tư pháp nói về hôn nhân đồng tính”. Đài tiếng nói Việt Nam. Ngày 24 tháng 7 năm 2012.

“Người chuyển giới được thay đổi tên, hộ tịch phù hợp với giới tính mới”.

^

^

^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên cancocai

^

^

^ Social construction of male homosexualities in Vietnam. Some keys to understanding discrimination and implications for HIV prevention strategy. Tác giả: Marie-Eve Blanc

^

^

^ Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng (iSEE và Học viện báo chí tuyên truyền)

Vi Khanh (28 tháng 11 năm 2009). “Từ ‘Góc’ đến ‘Mở’: Cuộc lộ diện của giới đồng tính”. báo Tiền Phong.

“Phim tài liệu về đồng tính nữ đầu tiên ở VN không dành cho số đông?”. Thể thao và Văn hóa.

Liên kết ngoài

Đằng Sau Đồng Usd Việt Kiều Mỹ Gửi Về

Nếu California có Little Saigon, Houston có nguyên khu Bellaire sầm uất, Boston có Dorchester nhộn nhịp, thì vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn có trung tâm thương mại Eden (Falls Church, Virginia) mô phỏng theo chợ Bến Thành với rất nhiều tiệm hớt tóc, tiệm vàng, nhà hàng, đồ lưu niệm hay thức ăn nhanh.

Là nơi để gần chục ngàn người Việt vùng thủ đô tụ tập về tìm chút hương vị quê hương của ngày tháng cũ.

Cách nhà tôi không xa là khu chợ Angkor (gọi nôm na là chợ Miên) do người Cambodia mở. Chợ nhỏ xíu, dơ hầy, chật chội, nhưng lúc nào cũng đông nghẹt khách, mà chủ yếu là người Việt tới mua sắm mới ghê.

Hơn hai mươi năm nay, bao nhiêu khu chợ chung quanh mở ra, rồi dẹp tiệm, nhưng chợ Miên vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” mãi tới tận bây giờ.

Tuần nào, hầu như tôi cũng ghé chợ ít nhất hai lần (ở Mỹ có thói quen cuối tuần đi chợ về bỏ tủ lạnh ăn một lèo cho hết rồi đi mua tiếp). Lúc thì mua tí rau, tí giá, lúc thì mua con cá, miếng thịt ba chỉ tươi rói.

Đã định sẵn ngày cưới nhưng vì tai nạn giao thông (TNGT) nên chú rể đột ngột qua đời. Thế nhưng cô dâu chúng tôi (18 tuổi, ngụ Long An) vẫn quyết định tổ chức đám cưới dù chỉ có một mình trong ngày trọng đại.

Chị bạn tôi thì giỏi hơn, ghé… mỗi ngày. Cứ hết đồ là xách xe chạy đi mua cho tươi, cho sống. Đi nhiều, nên cũng quen mặt với các dì, các cô trong chợ. Nhiều bữa (chắc do bực chủ), họ than, phải đứng lựa rau, xắt thịt, ướp cá, chiên bánh mỗi ngày suốt 12 tiếng đồng hồ không ngơi tay.

Theo lý giải của họ bởi chợ nhỏ, người chủ ngồi chần dần đó, hễ thấy họ đứng không là liếc, là nhìn. Nên tránh ánh mắt soi moi, họ phải làm hết chuyện này, chuyển qua chuyện khác. Hết lặt rau tới xắt khổ qua, lượm giá, họ lại bó hành, gói ớt, rồi đi lòng vòng lau chùi, dọn dẹp.

Làm nhiều vậy mà lương đâu có cao, lại trả nửa tiền mặt, nửa ngân phiếu. Cực thí mồ. Nhưng ai cũng ráng làm. “Làm để gửi ít tiền (lại gửi!) về cho tụi nhỏ. Giấy tờ apply mấy năm rồi, chắc tụi nó cũng sắp sang đây”, một người cho biết.

Chợ là nơi để gần chục ngàn người Việt vùng thủ đô tụ tập về tìm chút hương vị quê hương của ngày tháng cũ.

Bưng bê nhà hàng…

Nghề phục vụ nhà hàng thu hút khá nhiều người trẻ, chủ yếu là sinh viên kiếm thêm hay các du học sinh đi làm chui (sau vụ 11.9, chính phủ cấm sinh viên quốc tế đi làm thêm ở ngoài. Họ cho phép sinh viên quốc tế mang F-1 visa được làm thêm trong trường không quá 20 tiếng trong kì học và 40 tiếng khi nghỉ hè hoặc đông).

Nhân viên phục vụ nhà hàng ở Mỹ sống chủ yếu bằng tiền tip. Bởi lương chỉ khoảng $2/giờ. Mặc dù không có luật lệ cố định là bao nhiêu phần trăm cho mỗi bữa ăn, nhưng khi đi các nhà hàng Mỹ, khách thường trả thêm ít nhất là 15% – 20% tổng tiền bữa ăn cho người phục vụ (có nhà hàng quy định, nếu bàn ăn có trên 6 khách, họ sẽ tính thẳng 18% tiền tip vào hóa đơn).

Có nhà hàng tiền tip của bàn nào, thì nhân viên đấy lãnh (sau khi chia một phần cho nhân viên phụ bếp, rửa chén). Có chỗ cứ cộng hết rồi chia đều. Minh, bạn tôi, lúc mới ra trường, trong khi chờ gọi phỏng vấn ở các công ty tài chính, cũng đi làm phục vụ trong một nhà hàng Việt (nhưng chủ yếu là khách Mỹ).

Minh khoe, có tháng kiếm được gần $4,000, đã lắm. Nhưng bù lại, phải làm ngày làm đêm. Chạy lên chạy xuống, bưng dọn không biết bao bận. Nhiều bữa đi làm về, hai chân tê cứng vì phải đứng quá nhiều. Nhưng thôi ráng chứ biết sao giờ. Lúc lãnh lương, mắt sáng rỡ, quên hết đi mệt nhọc.

Ở Mỹ, các chị, các dì còn có thể kiếm tiền bằng nghề babysit (đọc rút gọn từ babysitter – giữ trẻ) nữa.

Đặc biệt là các chị có một hai con. Chồng thương hổng cho đi làm, bắt ở nhà giữ con. Hay các dì, các bà được con cái bảo lãnh sang, một mặt để gần con cái, mặt khác giữ cháu giùm.

Sẵn tiện, các dì các chị mở một “trung tâm” nho nhỏ, rồi bà con truyền miệng nhau, mang tới giữ kiếm thêm. Tất nhiên là làm bất hợp pháp. Vì để mở một cơ sở giữ trẻ em ở Mỹ, phải nói là nhiêu khê.

Cơ sở phải có đủ các loại permit, license (giấy phép), rồi vượt qua rất nhiều công đoạn inspection (kiểm tra) của quận, của Fire department (sở chữa cháy). Rồi các cô giáo cũng phải có bằng cấp đàng hoàng mới được trông trẻ.

Nhưng thôi, cứ cầu trời cho đứa trẻ không có chuyện gì xảy ra. Lỡ té ngã này nọ, dân Mỹ kiện ra tòa, chứ Việt Nam thì du di, tha thứ cho nhau. Cực thì có cực, nhưng cũng kiếm được rất nhiều tiền.

Thôi thì ai cũng tâm niệm cứ chịu cực, chịu khổ, khỏi vướng bận con cháu, kiếm một số vốn kha khá, rồi vài năm nữa về Việt Nam dưỡng già cho yên thân.

theo Nguyễn Hữu Tài/Thanh niên

Bạn đang đọc nội dung bài viết Việt Kiều Là Gì? Việt Kiều Có Được Quyền Mua Nhà Ở Việt Nam Không? trên website Sieuphampanorama.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!